ZingTruyen.Info

[TỔNG HỢP] TRUYỆN MA CÓ THẬT - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta

Bí mật xứ HOA VÀNG

pinkluv92

Tác Giả Th.s Lê Đức Anh
Đơn vị công tác: Giảng viên Khoa - Học Viện Ngân Hàng 
LỜI TỰA
Câu chuyện được viết dựa trên những sự kiện có thật xảy ra trong chuyến đi Tình nguyện Mùa Hè Xanh – 2013 của tôi tại Phú Yên. Một chuyến đi mà bất cứ ai trên đời này cũng không bao giờ có thể quên được. Bởi vì đơn giản, không ai có thể tưởng tượng được về những chuyện sẽ xảy ra trong chuyến đi này ...  

  HỒI 1 (phần 1): NHỮNG CHUYỆN QUÁI LẠ
Sơn Định là một xã miền núi của huyện Sơn Hòa tỉnh Phú Yên. Đoàn sinh viện tình nguyện của Học viện Ngân hàng chọn nơi đó để làm địa bàn hoạt động. Sơn Hòa nằm ở phần rìa của khu vực Tây nguyên, giáp với Gia Lai. Khí hậu Sơn Hòa quanh năm dễ chịu như Đà Lạt. Ngày ở đây có 4 mùa, sáng Xuân, trưa Hè, chiều Thu còn đêm lại lạnh như mùa Đông. Sơn Định được bao bọc bởi rất nhiều cánh rừng rậm xen giữa núi non trùng điệp ...
Tôi tên Lê Đức Anh. Nhưng tôi thích được gọi là Lê Anh hơn. Cái tên đó vừa ngắn gọn lại vừa dễ nghe. Thực ra đó là tên của anh trai tôi. Tên tôi nghe nặng nề. Bởi vì nó chữ Đức ở giữa. Chữ đó đẹp nhưng lại là cả một gánh nặng trên vai. Xã hội này sống mà phải giữ Đức thì chật vật lắm.
Tôi vốn làm một giảng viên của Học viện Ngân hàng ở Hà Nội. Quanh năm suốt tháng tôi vùi đầu vào sách vở, phấn bảng. Hà Nội vốn nổi tiếng tấp nập, cuộc sống hối hả vội vã chẳng có giây phút nào để tĩnh tâm. Vì thế mà tôi đã chọn gia nhập đoàn tình nguyện của Học viện để vừa muốn đi đây đó làm chút việc có ích với đời, lại vừa muốn tìm một nơi nào để hưởng thụ những giây phút thư thái tự tại.
Tôi đến Tuy Hòa vào một ngày hè đầu tháng 7. Trời nắng như đổ lửa, nhưng gió biển thổi lồng lộng đem theo hơi muối mặn táp vào mặt. Nghỉ lại nhà khách của Học viện đúng một ngày, sáng sớm hôm sau tôi lên xe cùng đoàn để bắt đầu một chuyến hành trình mới. Chia tay biển tôi để tôi lên núi về với Sơn Định, một xã cách thành phố Tuy Hòa 70km. Tôi và toàn đội sinh viên tình nguyện được Tỉnh đoàn Phú Yên bố trí một chiếc xe 29 chỗ đưa thẳng lên Sơn Định. Họ để chúng tôi lại ở đó rồi quay về Tuy Hòa ngay, khi kết thúc chiến dịch họ sẽ lại lên đón về.
Đoàn sinh viên tình nguyện của chúng tôi chia làm hai đội, mỗi đội đóng ở một thôn khác nhau trong xã Sơn Định. Đội 1 đóng ở thôn Hòa Nghĩa. Tôi ở đội 2, được phân về thôn Hòa Ngãi. Đội hai của tôi có tất cả 12 thành viên. 5 sinh viên nữ, 4 sinh viên nam, 2 cô giáo và 1 thầy giáo chính là tôi.
Cái nơi chúng tôi ở là một ngôi nhà Rông cũ kỹ theo kiểu của người Chăm. Nhà được làm bằng gỗ, có hai tầng, hơi giống kiểu nhà sàn của các dân tộc miền núi phía Bắc. Tầng trên là nơi đội ngủ còn tầng dưới dùng để ăn uống và để các công cụ lao động. Nhà rông đặt ngay sát mặt đường tỉnh lộ chính, trên lưng chừng một ngọn núi. Con đường tỉnh lộ này dẫn thẳng lên Gia Lai. Ngay phía sau nhà Rông của chúng tôi là một cánh rừng nằm thoai thoải theo sườn núi. Chúng tôi đóng quân ngay tại bìa rừng. Càng tiến vào sâu cây cối trong rừng càng trở nên rậm rạp hơn. Tôi không thể ngờ được rằng sau này chúng tôi lại phải tiến rất sâu vào cánh rừng này.
Người tôi gặp đầu tiên trong đội là Thống, đội trưởng đội sinh viên tình nguyện của học viện. Thống quê ở Đăk Lăk nhưng là người gốc Hà Tĩnh. Cậu ta có dáng người tầm thước, lưng dày vai rộng, làm da rám nắng điển hình của thanh niên Tây nguyên. Đôi tay săn chắc, bàn tay chai cứng đã nói lên được một thể chất bền bỉ deo dai của cậu ta. Thống ít nói, kiệm lời nhưng lại là người rất chịu khó quan sát. Có vẻ như cậu ta quả thực là mẫu người "uốn lưỡi bảy lần trước khi nói" nên mỗi lần nói ra ý kiến của Thống đều rất trọng lượng.
Người thứ hai tôi gặp là Lê Bằng, đội phó nhà ở Đăk Lăk. Tôi thực sự ấn tượng nhiều về Bằng. Cậu ta cao to, đô con như một vận động viên thể thao. Bằng cao khoảng 1,8m cơ bắp cuồn cuộn, lưng dài vai rộng sức vóc kinh người. Trông Bằng giống như một chiến binh trong bộ phim 300. Bằng giỏi võ nghệ lại có tài leo trèo. Tôi đã từng chứng kiện cậu ta miệng ngâm con dao thoắt một cái đã leo tít lên ngọn dừa cao vút, tay vung dao lên là một quả dừa rơi xuống. Có một câu chuyện nhỏ thú vị là lúc học ở HVNH phân viện Phú Yên cậu ta thường xuyên đi kể chuyện ma quỷ cho khắp các phòng ở ký túc xá. Sau này tôi mới biết vốn khuôn viên trường có rất nhiều dừa. Để ban đêm dễ bề hoạt động hái dừa, cậu ta mới phải dựng nên những câu chuyện kỳ bí hoang đường. Vì nếu ban đêm lên hái dừa mà có bị ai nhìn thấy thì họ cũng nhắm mắt mà bỏ chạy thục mạng vì tưởng rằng đó là ma trêu. Sau này chính cậu ta nhờ biết tài leo trèo mà đã cứu tôi vài ba bận. Nếu phải đi đâu khuya vắng một mình thì tôi luôn tin tưởng khi đi cùng Bằng.
Trương Thanh Tùng là bạn nam thứ 3 của đội. Tùng quê ở Kontum. Tùng cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai như một diễn viên Hàn Quốc. Mặt mũi thanh tú và nước da trắng khác hẳn với những thanh niên Tây Nguyên. Tuy dáng vẻ thư sinh nhưng cậu ta rất nhanh nhẹn, giỏi vật lộn. Đặc biệt là Tùng có đôi bàn tay rất khỏe. Nói theo cách của kiếm hiệp thì công phu Cầm Nã Thủ của Tùng thuộc hàng thượng thừa. Nếu ai để cho cậu ta chụp được thì người đó mà có thể vùng ra được. Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên Tùng luôn được giao nhiệm vụ xách nước cho cả đội.
Sinh viên nam cuối cùng tôi gặp là Hiệp, nhà ở Pleiku – Gia Lai. Hiệp cao gầy, dáng khẳng khiu nhưng đặc biệt chơi thể thao rất tốt. Cậu ta chơi được rất nhiều môn Bóng chuyền, bóng đá, điền kinh, bơi lội ... Nếu có tổ chức một cuộc thi chạy hay bơi lội thì có lẽ tôi luôn đứng về phía Hiệp vì cậu ta có sải chân và sải tay rất dài, đó là một lợi thế lớn. Hiệp ít tuổi nhất trong số các bạn sinh viên nam nên cậu ta là em út.
Đây là 4 người có nhiều ảnh hưởng nhất đến câu chuyện của tôi. Không có họ có lẽ tôi đã vĩnh viễn ở lại giữa những cánh rừng Tây Nguyên huyền bí.
Ngày đầu tiên ở Sơn Định chúng tôi đã phải bắt tay ngay vào việc. Sau khi dọn dẹp, xắp sếp chỗ ở, bố trí bếp, dựng nhà tắm và khu vệ sinh chúng tôi đã phải kê lại bàn ghế phía dưới ngôi nhà để tiếp khách và đi Dân vận. Đi dân vận là việc đội cử các nhóm đi đến các nhà trong thôn, bản thứ nhất là để chào hỏi, làm quen với họ và thứ hai là tuyên truyền cho họ hiểu mục đích vì sao chúng tôi lên đây. Nếu nhà họ có trẻ em trong tuổi đi học thì cũng sẽ vận động trẻ tham gia vào lớp ôn tập văn hóa hè mà chúng tôi mở.
Ngày đầu tiên đã có rất nhiều người lên thăm chúng tôi, già, trẻ, lớn, bé, trai, gái ... đều có. Có người còn vác cả hoa quả bánh kẹo lên cho chúng tôi. Tất nhiên trong cuộc trò chuyện với người dân nơi đây không thể thiếu những câu chuyện ly kỳ rùng rợn của núi rừng sơn cước. Sơn Định là một xã miền núi, giáp rừng, có những nơi rừng vẫn rất dày và nguyên sinh, cây leo bán chằng chịt. Vì vậy hẳn không thể thiếu ở đây những câu chuyện ma quỷ kinh tâm động phách. Qua lời kể của một số người già, nơi đây cũng đã xảy ra nhiều sự lạ ly kỳ. Tôi sẽ tóm tắt lại cho các bạn một vài chuyện mà tôi biết.
Ma Dấu
Câu chuyện thứ nhất được người dân nơi đây kể lại về chính nơi chúng tôi ở: nhà Rông thôn Hòa Ngãi. Theo những người cao tuổi kể lại, thôn Hòa Ngãi năm xưa vốn là một cánh rừng rậm rạp, âm u. Các loài dã thú Hổ, báo, gấu, sói hay lợn rừng ... vẫn còn sinh sống rất nhiều trong khu rừng đó. Chỗ đó vốn không hề có bóng dáng của người sống. Chỉ sau khi giải phóng nhà nước vận động người dân đi phát triển khu kinh tế mới thì mới có mảnh đất Hòa Ngãi. Dần dần Hòa Ngãi được mở rộng ra phát triển thành từng cụm thôn xóm, bản làng.
Nơi chúng tôi ở vốn trước kia có một cây Pơ mu cổ thụ. Thân cây to bằng 5 người ôm không hết. Các cụ vẫn nói đó là cây Pơ mu chúa của vùng rừng Sơn Định này, nơi cự ngụ của Thần rừng thượng ngàn. Về sau khi quy hoạch làm con đường qua đây, cây Pơ mu nằm ngay sát vệ đường không tiện cho giao thông đi lại và việc xây dựng xóm làng nên người ta đã chặt hạ cây đó. Gỗ của cây đó phần lớn được sử dụng để xây dựng thành nhà văn hóa thôn Hòa Ngãi, cũng chính là ngôi nhà rông bằng Gỗ mà chúng tôi đang ở. Từ khi chặt cây xuống để dựng thành ngôi nhà đã có rất nhiều chuyện ly kỳ xảy ra.
Khi nhà Rông mới dựng xong người dân trong bản buổi tối vẫn thường tụ tập ở đây đốt lửa ăn uống, đàn hát. Đám thanh niên thi thoảng vẫn đem mồi nhậu ngồi lai rai ở đây suốt đêm. Vì là ngôi nhà văn hóa thôn nên nhà rông luôn mở cửa đón tiếp mọi người, không bao giờ đóng. Vào một đêm nọ trời tối đen như mực, gió thổi xào xạc trên những tán cây. Có một thanh niên trong bản vì có việc phải lên tận thị trấn để ăn tiệc nên về muộn. Mãi đến nửa đêm anh này mới mò về nhà. Đến gần chỗ khu nhà Rông thì trời bất chợt đổ cơn mưa xối xả. Sẵn có chút hơi men chếnh choáng, lại bị mưa nên anh này liêu xiêu bước vào nhà rông để nghỉ tạm đợi mưa tạnh. Lúc đó cũng có một vài người trong thôn đi về muộn nhìn thấy anh này một mình bước vào nhà rông, vừa đi vừa hát nghêu ngao. Vừa bước vào ngôi nhà hắn ta đã nằm vật ra nền nhà ngáy pho pho. Trong đêm tối tĩnh mịch của khu rừng tiếng ngáy của hắn vang xa đến tận ngoài đường còn nghe rõ. Những người đi đường thầm nhủ thôi kệ hắn, chắc là hắn say rượu. Cứ để hẳn ngủ ở đây sáng mai tỉnh rượu sẽ tự về nhà.
Đêm càng về khuya cơn mưa càng nặng hạt, gió vẫn rít từng cơn như những con quái vật đang lồng lộn trong không trung. Bất chợt có một tiếng gào thất thanh vang lên giữa không gian, át cả tiếng mưa rơi gió thổi. Tiếng gào thảm thiết như được phát ra từ căn nhà văn hóa thôn Hòa Ngãi. Rồi đột nhiên tiếng gào cũng tắt lịm như lúc nó cất lên ... nhiều người dân trong thôn bừng tỉnh vì tiếng gào đó. Họ đổ ra cửa, người thì nhìn qua cửa sổ về hướng ngôi nhà rông. Vào cái giây phút tối tăm ấy, trong ngôi nhà rông phát ra một ánh sáng lập lèo xanh biếc kỳ bí. Ánh sáng đó lấp lóe rồi chợt biết thành một mầu đỏ rực như một quả cầu lửa rồi vụt tắt ngấm. Đó không phải là ánh lửa, vì lửa không bao giờ có màu như thế. Người ta không thể lý giải nổi đó là thứ gì, không ai dám đến căn nhà rông để tìm hiểu điều gì đã xảy ra vào lúc đấy. Tất cả chìm trong hãi hùng và hoang mang cực độ.
Sáng hôm sau, khi cơn mưa đã tạnh hẳn, nhiều người dân trong thôn cùng kéo nhau ra ngôi nhà Rông để xem có gì đã xảy ra. Ngôi nhà vẫn yên tĩnh, sừng sững giữa núi rừng. Khi người ta bước vào nhà rông thì một cảnh tượng kỳ lạ hiện ra trước mắt. Trên nền ngôi nhà ở tầng dưới chi chít những hàng chữ cổ quái viết bằng một thứ đột đen xám lấp lánh ánh bạc. Nói là chữ thì người ta cũng không dám chắc vì đó là những ký tượng xa lạ, không phải quốc ngữ, không phải tiếng Hán cũng không phải tiếng dân tộc Chăm hay Khmer. Hồi đó chưa có điện thoại di động tích hợp máy ảnh nên không ai lưu lai được những chữ này. Chỉ có một vài người già mô phỏng theo mấy chữ đấy để chép lại vào sổ tay của họ. Nhưng chàng trai say rượu đã hoàn toàn biến mất. Do đêm qua trời mưa to nên đất trên này chảy ra loãng như bùn, người ta thấy lờ mờ một hàng dấu chân đi thẳng vào khu rừng rậm phía sau căn nhà.
Cả thôn bản trọn những thanh niên to khỏe lần theo dấu vết chân vào tận khu rừng sâu. Vết chân dẫn cả đoàn đến một con suối to trong rừng thì biến mất. Toán thanh niên vẫn không từ bỏ hy vọng. Họ tiếp tục lần theo con suối ngược về phía thượng nguồn tầm 5 – 6 km nữa thì phát hiện giữa khu rừng bên cạnh dòng suối có một khu đất nhỏ nhô cao lên. Trên khu đất đó có một khóm tre rừng rậm rạp um tùm. Ngay phía trước khóm tre là một ngôi miếu nhỏ hoang vu, đổ nát, hẳn là đã từ lâu không còn được hương khói. Sau cả ngày trời mò mẫm mà không thấy dấu vết của chàng trai kia, tất cả mọi người đều mệt mỏi tập hợp lại với nhau trước ngôi miếu để bàn bạc xem nên làm tiếp như thế nào. Bật chợt một người đàn ông có vẻ lớn tuổi nhất đám vụt thốt lên thất thanh:
- Tôi biết tại sao chúng ta không thể tìm được cậu ấy rồi. Đó là do Ma dấu ! Chúng ta bị ma bịt mắt rồi !
Rồi anh ta giải thích cho mọi người nghe về Ma dấu. Đó là một hiện tượng ly kỳ hay xảy ra ở những miền quê nông thôn hay miền núi rừng thiêng nước độc. Một người bị Ma dấu sẽ bị ma dẫn đi đến một nơi nào đó, họ không chết mà thường thì chỉ ngủ thiếp đi. Chỗ họ bị dấu đôi khi không hề khó tìm, chỉ có điều những người đi tìm không thể nhìn thấy được. Cho dù người bị dấu đứng ngay trước mắt. Ở những vùng nông thôn đôi khi vẫn có những đứa bé bị ma dấu từ sáng đến chiều, cả nhà đi tìm khắp nơi. Mãi đến buổi chiều đúng vào giờ gà lên chuồng đứa bé tự nhiên lù lù xuất hiện trước mặt cả nhả. Mọi người hỏi đi đâu thì nó trả lời là nó chơi trốn tìm rồi chốn vào góc nhà rồi thiếp đi một giấc ở đấy chứ không đi đâu hết. Vậy mà người ta xới tung cả nhà lên mà vẫn tìm không ra thằng bé.
Cả đoàn tìm kiếm hỏi anh ta giờ phải làm sao? Anh ta nói là phải làm một chút lễ rồi thắp hương cho Sơn thần để xin ngài chỉ chỗ dấu cho. Nhân tiện ở đây có một ngôi miếu cổ thì chúng ta cũng nên thắp hương thử xem. Đoàn người vội vàng cử hai thanh niên nhanh nhẹn nhất quay lại thôn để sắp lễ và mang thêm một ít hương. Chỉ vài tiếng sau hai người này đã quay lại cùng với một cụ già làng cùng đầy đủ mọi thứ cần thiết. Lễ đã soạn ra đầy đủ, hương khói đã được thắp lên nghi ngút. Cả đoàn người theo sự chỉ dẫn của cụ già làng cũng hành lễ để xin sơn thần chỉ cho chỗ dấu cậu thanh niên kia. Lúc đó trời đã đổ bóng về chiều. Bóng nắng đã thay đổi chuyển sang chiếu trực tiếp vào ngôi miếu rồi chiếu xin vào khóm tre rập rạp đằng sau. Bất chợt người ta nghe thấy những tiếng kêu ú ớ không thành tiếng phát ra từ giữa bụi tre. Cả đoàn người vội vàng hò nhau kéo lại khóm tre để xem âm thanh đó là tiếng gì.
Họ vô cùng sửng sốt khi phát hiện ra nằm giữa khóm tre rậm rạp đó chính là anh chàng say rượu mà họ đang tìm kiếm. Anh ta chắc chỉ mới tỉnh rượu nên miệng chỉ ú ớ gọi được dăm ba câu vô nghĩa. Người ta vẫn không hiểu bằng cách nào mà hắn có thể chui vào được giữa một khóm tre rậm rạm như vậy. Thân tre vốn rất dày và giai, lá tre và ngọn tre nhỏ đâm ra tua tủa sắc nhọn vô cùng. Vốn bình thường không ai có thể một mình chui vào giữa khóm tre đó ngủ được. Lúc tỉnh lại chính cậu thanh niên đó cũng không làm thế nào để tự mình ra khỏi bụi tre rậm rạp đó. Lúc đó người ta phải hò nhau mang dao, rựa để phạt bớt tre, dọn đường cho thanh niên khỏe mạnh kéo cậu ta ra. Rồi cuối cùng người ta cũng lỗi được hắn ra và mang về nhà. Nhưng ai hỏi thì hắn cũng không còn nhớ được điều gì hết. Hắn đã không thể nhớ sự việc xảy ra hôm qua như thế nào.
Nhưng sự việc chưa dừng lại ở đó, hắn ta đã thay đổi hoàn toàn từ sau ngày hôm đó. Không còn là chính mình nữa, hắn đã trở thành một con người khác hẳn, một nhân cách khác hẳn. Hắn ta đã trở thành một bà già trong thân xác của một cậu thanh niên to khỏe. Chẳng phải là một bà già bình thường, mà là một bà già quái lạ, quái lạ từ cách ăn ở, trang phục quần ao mặc, và "bà lão" còn nói những thứ tiếng cổ quái mà không ai có thể hiểu được ...

  (tiếp) HỒI 1: NHỮNG CHUYỆN QUÁI LẠ
Từ sau khi được giải cứu ra khỏi khóm tre trong rừng, chàng thanh niên say rượu tối hôm đó trở nên ngây dại, mất trí nhớ. Anh ta hành động như một bà lão, ăn trầu, trải tóc, đi đứng lọm khọm. Có những đêm anh ta chống gậy đi khắp xóm làng rồi ra khu nhà Rông. Vừa đi anh ta vừa lảm nhảm những thứ tiếng cổ quái, không một ai biết được nó có ý nghĩa gì. Rồi một hôm có một người khách lạ đến đi ngang qua thôn tình cờ nghe thấy anh ta đang gào thét. Ông khách lập tức xin đến gặp già làng. Ông ta tự giới thiệu là một thầy mo ở tận trên miền Kontum. Ông nói anh kia đã bị một con ma nhập. Còn thứ tiếng anh ta nói vốn là tiếng Ê đê cổ.
Con ma kia vốn là linh hồn của một bà lão Ê đê. Nhưng linh hồn đó vì thường vì chết oan khiên hay bất đắc kỳ tử, khi chết lại phạm phải giờ thiêng nên không thể siêu thoát để đi đầu thai vào kiếp khác. Linh hồn đó vẫn thường quanh quẩn nơi họ sống. Phàm khi gặp một người nào đó bản mệnh không vững linh hồn đó sẽ chiếm lấy thể xác của họ mà không chịu rời đi. Nó muốn mượn cái xác đó để tiếp tục được tái sinh thêm một lần nữa. Ông trưởng bản có hỏi vị thầy mo có biết anh ta nói những từ gì không ? Lão thầy mo trầm mặc một hồi lâu rồi gật đầu. Theo lời ông thì con ma đó nói rằng:
- Đây là đất của tao, nhà của tao, núi rừng của tao sao bọn mày lại đến cướp. Chúng mày hãy cút hết đi! Tao sẽ nguyền rủa cả bản này sống không yên ổn. Rồi chúng mày sẽ thấy ! ...
Vị thầy mo đó còn nói thêm: đây vốn là con ma dữ, nó đã gần 300 tuổi rồi, rất khó có thể trị được nó. Cả thôn hoảng sợ ngỏ ý muốn nhờ ông ta ở lại để trục con ma ra khỏi chàng trai này. Ông thầy mo lắc đầu nói rằng mình không đủ pháp lực để hàng phục con ma đó. Nói rồi ông xin cáo từ già làng rồi lặng lẽ bỏ đi. Về sau bệnh tình chàng thanh niên đó càng ngày càng nặng. Bố mẹ anh ta thương con nên tìm mọi cách để chữa trị. Họ đưa xuống tận cả thành phố để tiếp cận với Tây y nhưng người ta cũng chỉ đoán là anh ta bị tâm thần. Sau này hết cách bộ mẹ chàng trai đành phải cho cậu ta nhập trại thương điên ở tận Bình Định để điều trị. Rồi bỗng một hôm có tin từ viện báo về gia đình cậu ta rằng: nhân một đêm trời mưa to gió lớn, cậu ta đã trèo tường trốn trại, khi đi cậu ta có để lại một mảnh giấy viết 4 chữ nguệch ngoạc TA SẼ BÁO THÙ.
Anh ta trốn trại nhưng không về nhà. Công an cũng đăng tìm và lùng ráo riết nhưng không thể tìm thấy. Chuyện trôi qua một thời gian không thấy động tĩnh gì nên trường hợp của anh ta được coi là Mất Tích.
Từ ngày đó ít người dám qua lại cái nhà Rông vào những buổi đêm tối. Thỉnh thoảng có những người về muộn phải đi ngang qua đó vẫn thấy có những ánh lửa xanh lét lập lòe trong căn nhà.
Có dạo nọ, một đoàn cán bộ lâm nghiệp 4 người từ dưới xuôi lên làm công tác điều tra quy hoạch rừng. Họ đem theo cả chăn chiếu, màn gối và các dụng cụ cá nhân riêng cho chuyến công tác. Một buổi tối họ quyết định không nghỉ lại ở nhà dân mà cả bốn người đến thẳng căn nhà Rông. Họ nghỉ trên tầng gác của căn nhà đó.
Buổi tối hôm đó trời có ánh trăng mờ mờ. Lúc trời chập tối người ta vẫn còn thấy tiếng của họ bàn tán, ăn uống với nhau rôm rả trong căn nhà. Đến đêm chợt thấy căn nhà im lặng đến rợn người. Rồi có một bà cụ nhà gần đó buổi tối ra ngoài đi vệ sinh (người trên vùng cao họ vẫn thường làm nhà vệ sinh ở bên ngoài vườn) nhìn thấy dưới ánh trăng mờ mờ, trong căn nhà Rông, 4 cái bóng người đu đưa vật vờ trên gác, chân không chạm đất mà treo lơ lững. Bà cụ quá sợ hãi mà chạy thẳng vào nhà đóng chặt cửa không dám ra ngoài. Buổi sáng sớm hôm sau một điều hãi hùng đập vào mắt người dân. Trên xa nhà của căn gác, cả 4 người đều đã treo cổ tự tử. Mặt mũi họ xám ngoét, lưỡi thè đỏ lòm ra khỏi miệng, mắt mở trợn trừng. Ngay sau đó xe cứu thương và một vài công an xã đã có mặt để khám nghiệm hiện trường và chuyển những cái xác đó về xuôi, tránh làm hoang mang cuộc sống của người dân nơi đây.
Sau đó thi thoảng vào những đêm sáng trăng người ta vẫn thấy trên căn gác nơi nhà Rông đó có những cái bóng người treo cổ trên sàn nhà đung đưa rập rờ theo gió. Nhưng đến sáng hôm sau thì biến mất hoàn toàn không để lại dấu vết. Dân làng nơi đó cho rằng đó là những linh hồn của đoàn 4 người kia thỉnh thoảng vẫn hiện về nơi họ chết. Cái chết của họ vẫn còn đầy bí ẩn.
Rồi có một dịp có một đôi nam nữ, hình như là một cặp vợ chồng sắp cưới, đưa nhau bằng xe máy lên vùng rừng núi này chơi, chụp ảnh. Cô gái rất xinh đẹp, còn cầm theo một bộ váy cưới trắng muốt để còn mặc khi chụp. Còn chàng trai cũng rất khôi ngô tuấn tú trong bộ vest đen lịch lãm. Buổi tối hôm đó họ trở về nhưng mắc một cơn mưa rừng rất lớn. Ở trên này mỗi khi mưa rừng đất núi trở nên lầy lội như bùn, đi trơn trượt rất nguy hiểm. Do vậy hai người đó phải tá túc lại trong căn nhà Rông. Họ là người nơi khác đến, không hề biết nhưng câu chuyện kỳ quái về căn nhà đó. Hơn nữa họ là người kinh dưới xuôi lên, học nhiều, tiếp xúc với khoa học kỹ thuật hiện đại nên những câu chuyện về ma quỷ có lẽ chỉ là để dọa trẻ con. Tối hôm đó hai người đi ngủ nhưng vẫn để một ngọn đèn bằng pin nhỏ.
Đêm hôm đó trời không trăng cũng không sao, tối đen như mực. Bất chợt ánh đèn chợt tắt ngấm. Trong màn đêm tĩnh lặng của rừng núi một tiếng hét thất thanh cất lên rồi tắt ngấm. Sáng hôm sau người ta chỉ thấy còn lại mỗi chiếc xe máy của cặp vợ chồng nọ dựng trước của nhà Rông. Hai người đó đã biến đi đâu mất không một dấu vết. Cả làng bủa đi tìm họ ngay trong hôm đấy. Những người thợ săn lão luyện của thôn đã tìm ra được 2 hàng vết chân từ căn nhà đi thẳng vào khu rừng phía sau. Nhưng khó hiểu khi họ lần theo dấu vết thì thấy hai hàng vết chân này sau khi đi vào rừng đã chia làm hai ngả. Một hàng vết chân nhỏ hơn, chắc là của cô gái dẫn thẳng ra bờ suối, đến chỗ có vực nước sâu nhất rồi biến mất. Người ta chỉ thấy ở đấy một chiếc váy cưới trắng xóa nổi bập bềnh trên mặt nước, còn người thì không thấy đâu. Hàng vết chân lớn hơn dẫn thẳng vào khu rừng sâu, băng qua một quãng đường 5 – 6km đến khu đất trống nơi có ngôi miếu bỏ hoang cùng khóm tre đã nhốt người thanh niên say rượu năm nọ. Dân làng tìm thấy ở đó bộ quần áo vest đen của người đàn ông ngay trước miếu. Họ kinh hoàng đến khiếp sợ khi phát hiện ra trong bộ vest đó không phải là một người sống, mà là một bộ xương người trắng ởn, không còn một tí thịt. Nếu một người chết, không thể nào chỉ trong một ngày mà da thịt tiêu tan nhanh đến thế. Cái chết của cặp vợ chồng đó cũng là một ẩn số đối với người dân vùng của vùng núi Sơn Định hẻo lánh.
Thi thoảng người ta đi rừng về trong đêm muộn mà phải đi qua con suối họ vẫn nghe thấy văng vẳng những tiếng khóc nỉ non, não nuột của một cô gái. Có khi họ còn nhìn thấy một cái bóng trắng toát, tóc dài xõa che mất mặt ngồi bên bờ suối khóc lóc, than thở.
Câu chuyện cuối mà tôi muốn kể cho bạn nghe chính là câu chuyện xảy ra với người cháu của ông trưởng thôn. Vốn ông trưởng thôn có một người cháu họ sống ở TP Hồ Chí Minh lên thăm và ở lại chơi dăm ba bữa. Một buổi nọ, sau một bữa nhậu ngà ngà anh cháu nọ chân nam đá chân xiêu ngật ngưỡng về nhà. Đi ngang qua căn nhà Rông anh ta nổi hứng tò mò liền phóng vào xem. Vào đến căn nhà tự nhiên anh ta nôn thốc nôn tháo, lăn quay ra giữa nhà bất tỉnh nhân sự. May mà lúc đó vẫn chưa tối muộn. Người làng đèn đuốc hò nhau vào nhà Rông cõng anh ta về nhà ông bác trưởng thôn để nằm nghỉ.
Sáng hôm sau anh ta bắt đầu lên cơn sốt rét, người nóng rực mồ hôi đổ ra như tắm nhưng vẫn luôn miệng kêu rét, đòi đắp chăn. Cơn sốt này càng lên cao, anh ta bắt đầu mê man và nói lảm nhảm. Rồi chợt anh ta ngồi bật dậy, hai tay bưng miệng ọe lên một tiếng thật to. Miệng anh ta nôn ra một con Rết to bằng ngón tay cái, thân dài khoảng một gang tay (một gang tay người bình thường chúng ta tầm khoảng hơn 20cm). Con rết đỏ thân đỏ lòm nhưng cái đầu to và đen trũi. Rất nhiều người xung quanh chứng kiến cảnh tượng đấy cũng phải bưng miệng nôn thốc nôn tháo. Người nhà anh hãi hùng quá vội mang con rết đó vứt lên rừng rồi chuyển ngay anh xuống dưới bệnh viện tỉnh để điều trị. Nghe đâu sau đó mấy hôm anh ta cũng không qua khỏi. Trước khi chết anh ta còn nôn ra cả bát máu đen xì tanh ngòm như thể máu đã nhiễm độc.
Những người già trong bản nói rằng, anh ta vì xúc phạm tới thần linh, ma quỷ nơi căn nhà Rông nên đã bị trừng phạt thảm khốc. Khi anh ta ngất đi một con rết "Trùng vương" đã chui vào lỗ mũi của anh ta xuống thẳng dạ dày. Lúc chui vào nó chỉ bé như que tăm nhưng sau khi đã vào dạ dày, nó cắn nát hết lục phủ ngũ tạng của người bị nó thâm nhập và tiêm chất độc vào máu. Chẳng mấy chốc mà nó lớn nhanh như thổi trong bụng của người đó. Đến khi cơ thể đã nhiễm độc hết, không thể chống chịu được nữa sẽ tự đào thải. Lúc đó người ta sẽ nôn ra con Trùng vương đó. Và đó cũng là tín hiệu báo trước của cái chết.
Trùng vương vốn để chỉ một con độc vật chúa trong các lại độc vật của vùng đó. Có nơi trùng vương là Rắn, có nơi là bò cạp, có nơi lại là Ong. Tại vùng miền núi hẻo lánh Sơn Định này vốn có rất nhiều rết, vì thế Trùng vương nơi này là một con rết chúa.
Những câu chuyện kỳ quái này đều liên quan đến ngôi nhà mà chúng tôi được xã đoàn Sơn Định bố trí ở, ngôi nhà Rông làm bằng gỗ Pơmu. Tôi là một trí thức được học hành bài bản, lại còn được sang tây du học mấy năm nên đối với tôi ít nhiều những câu chuyện này chỉ mang tình huyền hoặc. Tôi không tin lắm vào những điều họ kể. Nhưng vì phép lịch sự khi đến ở nơi địa bàn của họ nên vẫn phải lắng nghe và gật gù tán thưởng.
Trời cũng đã về khuya, chúng tôi phải xin phép cáo từ những vị khách trong thôn sang thăm để cả đội được đi ngủ sớm. Ngày mai chúng tôi sẽ bắt tay vào những công việc đầu tiên trong chiến dịch lần này. Chúng tôi sẽ phải đào 500 m dọc theo bờ mương từ đầu thôn đến cuối thôn, đi ngang qua khu nhà Rông chúng tôi ở, để đặt đường ống dẫn nước cho người dân nơi đây.
Tôi cũng không thể ngờ rằng sự việc xảy ra vào ngày hôm sau khi chúng tôi đào đường nước lại ảnh hưởng rất lớn đến toàn đội. Nếu biết được trước sự việc đó chúng tôi đã không bao giờ đào con mương đó. Những câu chuyện tôi vừa kể cho các bạn chưa phải là kết thúc. Cuộc hành trình của chúng tôi thực sự chỉ mới bắt đầu. Một cuộc hành trình quái dị và đầy rẫy những nguy hiểm rình rập xung quanh.

- Hết hồi thứ nhất -  

  Hồi 2 (Bí ẩn xứ sở hoa vàng)
TẤM BIA CỔ
Ngay sau một ngày nghỉ để ổn định chỗ ăn ngủ, ngày thứ hai chúng tôi đã bắt tay vào việc. Công việc đầu tiên là đào mương dẫn nước. Do thôn Hòa Ngãi vẫn chưa có nước sạch, người dân vẫn chỉ sử dụng nguồn nước mưa bằng cách xây bể chứa. Ở cái xứ cao nguyên núi non trùng điệp này khó có thể tìm được một giếng nước. Nhà nước đã đưa một đường ống nước sạch lên đến con dốc trước mặt khu nhà Rông. Một con mương dài khoảng 500m sẽ được đào từ đầu dốc lên đi ngang qua trại Nhà Rông và kéo đến đầu thôn Hòa Ngãi. Cái mương đó sẽ được đặt đường ống nước phục vụ cho người dân bản.
Ngày đầu tiên công việc bắt đầu hết sức chậm chạp. Cả đội chia làm hai tốp, mỗi tốp 5 người thay phiên nhau đào. Đất trên này vốn lẫn với sỏi đá vừa khô lại vừa rắn. Cả đội làm cật lực mới đào được khoảng 30 mét mương phía đầu con dốc. Cái nắng như đổ lửa của trưa hè làm chúng tôi ai cũng đầm đìa mồ hôi, nếu không kiệt sức vì làm thì cũng say nắng. Chúng tôi mỗi người một nhiệm vụ, đàn ông một người cầm xa beng nện đất trước rồi người sau cuốc, người còn lại dùng xẻng xúc đất lên. Một bạn nữ được cử cầm vài ba chùm lá cây ngắt vội bên vệ đường che nắng cho người làm. Làm giữa trời nắng mất nước nhiều, con người ta dễ xỉu vì kiệt lực.
Buổi tối ngày thứ hai, sau một ngày làm việc mệt mỏi cả đội lại quây quần bên mâm cơm chung. Tôi không ăn được nhiều vì chưa thích nghi được với nơi đây. Hơn nữa cũng do ngày hôm nay phải làm nhiều, tôi chỉ muốn xong nhanh bữa cơm để được lên đi nằm. Ở trong chiến dịch Mùa Hè Xanh này khái niệm thức đêm gần như không tồn tại, vì chẳng ai đủ sức thức đêm cả. Mệt phải ngủ và ngủ để còn có sức cho ngày mai tiếp tục mệt. Nhưng tôi hôm nay có hơi khác.
Bầu trời không trăng sao, một màn đêm đen kịt, Gió trên những tán cây thổi xào xạc. Văng vẳng những tiếng côn trùng kêu rả rích khiến buổi tối trở nên bí hiểm. Gần 10h, cả đội chuẩn bị đi ngủ thì chợt nghe thấy trên con đường trước của nhà Rông có vài tiếng bước chân. Lúc đó tất cả chúng tôi đều đã lên căn gác của ngôi nhà. Không ai bảo ai, tất cả đều nhìn ra phía cổng của ngôi nhà. Từ nhà Rông muốn ra đến cổng phải đi qua một khoảng sân đất nhỏ dài tầm mươi mười lăm mét. Vốn chỗ đó trước đây thanh niên hay tụ tập chơi thể thao, buổi tối đốt lửa trại. Sau này nhiều chuyện xảy ra với nhà rông nên bãi trống đó chỉ còn trơ lại đất lẫn với vài ngọn cỏ thấp lè tè, chỗ xanh chỗ nâu của màu đất.
Dù trời tối nhưng chúng tôi vẫn thấy rõ mồn một ngoài cổng nhà có bốn cái bóng đen đang đứng như bốn pho tượng âm u và lạnh lẽo. Tất cả đều chìm trong im lặng. Chợt một giọng nói trầm đục cất lên từ một trong bốn bóng đen đó:
- Các bạn đã chuẩn bị đi ngủ chưa? Chúng tôi muốn qua thăm các bạn đây.
Các thành viên của đội đã bớt căng thẳng hơn nhiều. Đó có lẽ chỉ là một đoàn khách qua chơi. Tôi định cầm cây đèn bước xuống thì chợt Thống ngăn lại và nói:
- Thầy để em xuống dưới xem trước. - Nói rồi Thống cầm lấy cây đèn pin bước xuống dưới nhà, đi thẳng ra cổng. Bước ngay sát Thống là Bằng, trong tay Bằng cũng cầm một cây đèn kiểu Măng Xông nhưng chạy pin.
Thống và Bằng đi thẳng ra cửa, tiến đến phía bốn cái bóng đen xì. Từ xa tôi thấy vọng lại một vài lời trao đổi. Rồi Thống mở cửa nhà Rông. Bốn cái bóng chầm chậm bước vào theo sau Thống và Bằng. Tiến qua khoảng sân, dưới cái ánh đèn Măng Xông tôi đã có thể nhìn thấy rõ đó là bốn người đàn ông, một già, một trẻ và hai người tầm chạc trung niên. Tôi thấy Thống dẫn họ xuống khu ăn uống, phía dưới của nhà Rông. Sau đó Bằng đi lên nói với chúng tôi:
- Mời thầy, cô và các bạn xuống nhà một lát, chúng ta có mấy người khách trong bản đến thăm.
Khách đến thăm, nhất định phải tiếp. Đó là phép lịch sự. Huống hồ gọi họ là khách thì không đúng lắm. Có lẽ họ mới là chủ, vì chúng tôi là những người lên đây làm tình nguyện và đang ở nhờ trên đất của họ. Bước xuống nhà dưới tôi thấy ngồi quanh bàn nước là bốn người đàn ông. Khi tiến lại gần để chào và bắt tay họ tôi có dịp được quan sát kỹ hơn những vị khách lạ.
Người đầu tiên tôi bắt tay là một người đàn ông lớn tuổi trạc 60, mái tóc đã bạc trắng, vóc người tầm thức. Ông ta có một làm da ngăm đen rám nắng nhưng đôi mắt ánh lên sự từng trải cuộc đời. Ông ta nở một nụ cười thân thiện. Qua đôi lời giới thiệu tôi được biết ông tên là Ba Nha, đó là một cái tên dân tộc. Ông Ba Nha chính là trưởng bản nơi chúng tôi đóng quân.
Người thứ hai là một chàng trai rắn rỏi khỏe mạnh, anh ta chủ động đến bắt tay tôi trước. Anh ta mặc một bộ đồ kiểu bộ đội màu xanh lá cây, tóc quăn da đen, mắt to, khuôn mặt góc cạnh. Chỉ thoáng nhìn tôi đã nhận ra anh chàng này cũng là một người dân tộc. Anh ta tên Kèo. Kèo chính là công an phụ trách khu vực địa bàn chúng tôi làm tình nguyện.
Hai người cuối cùng tôi được giới thiệu là hai người đàn ông trung niên tầm thước trung bình. Một người mái tóc muối tiêu nhưng vóc dàng bệ vệ, mặt to tai lớn, trán nở rất có khí thế. Người còn lại nhỏ hơn, mặt nhọn, đôi mắt ti hí nhưng ánh lên vẻ tinh xảo lọc lõi. Đó là hai người Kinh. Tôi đoán được ngay vì những người này tôi gặp dưới xuôi rất nhiều. Tôi cũng là người Kinh. Người đàn ông to lớn bệ vệ thân mật bắt tay tôi, cái siết tay rất chặt kèm theo bàn tay trái để lên vai tôi khi bắt tay đã đem đến cho tôi một nhận định. Ông ta hẳn phải là một người có thế lực. Và tôi đã đoán đúng, qua lời giới thiệu của anh công an Kèo tôi được biết đây là ông Trường. Tên đầy đủ của ông là Nguyễn Phước Trường. Phước Trường có nghĩa là Phúc dài.
Ông Trường vốn là một đại gia trong giới bất động sản của miền trung nổi tiếng từ lâu. Trong tay ông có hàng chục khách sạn, biệt thự nằm dải khắp các bải biển nổi tiếng từ Huế đến Cà Mau. Hai ba năm trở lại đây không hiểu vì lý do gì ông bỏ việc kinh doanh BĐS, Khách Sạn lại cho con cháu quản lý. Ông lên trên vùng này, mua mấy chục hecta đất trồng rừng xen lẫn trồng các loại cây ăn quả như Thanh Long, Bơ ... Người ta hỏi ông sao lại bỏ thành phố mà lên miền núi. Ông chỉ cười và đáp: Tôi già rồi, muốn về làm nông lâm nghiệp cho gần gũi thiên nhiên, cây cỏ. Giờ tôi đâu có sống vì tiền nữa. Đó là cái thú nông nhàn của ông.
Người đàn ông còn lại đi cùng ông là một người bạn dưới xuôi của ông lên thăm. Ông ta tên là Hà Kiên Trung. Ông vừa là bạn với đại gia Trường vừa là luật sư riêng của ông Trường. Ông Trung ít nói, ít cười. Chỉ thích ngồi quan sát người khác, thi thoảng lại đăm chiêu suy nghĩ điều gì đó.
Câu chuyện của chúng tôi trở nên thân mật hơn. Họ đến thăm chúng tôi là để muốn biết kế hoạch làm việc của chúng tôi trên này. Ông Ba Nha trưởng bản còn đề nghị sẽ trợ giúp chúng tôi các thiết bị lao động cần dùng như thuổng, cuốc, dao, rựa ... Anh Kèo công an cũng ngỏ ý sẽ bố trí một số thanh niên bản xuống làm cùng để vừa giúp đỡ nhau, vừa tăng cường giao lưu.
Nhưng đặc biệt là lời đề nghị của ông đại gia Trường. Vì cảm phục sự hy sinh tình nguyện của chúng tôi với mảnh đất này ông ta tuyên bố ngày mai sẽ gửi cho chúng tôi 5 thùng mỳ tô, 5 két nước ngọt và rất nhiều thực phẩm đồ ăn khô. Đó chưa phải hết. Ông Trường nói rằng chúng tôi ở đây buổi tối rất buồn không biết làm gì nên ông sẽ cho chúng tôi mượn hẳn một chiếc tivi và cả đầu thu kỹ thuật số SCTV. Ngay ngày mai sẽ có người đem lên lắp đặt để phục vụ cho chúng tôi giải trí, xem phim hoặc tin tức. Khi nào xong chiến dịch sẽ gửi trả lại cho ông. Đó quả là một lời đề nghị khó từ chối.
Trò chuyện đến tận 11h đêm về đủ mọi chuyện trên đời, bốn người khách mới đứng dậy cáo biệt đi về. Trước khi về chúng tôi còn trao đổi số điện thoại. Họ dặn chúng tôi nếu có bất cứ khó khăn gì thì hãy liên lạc với họ. Những lời họ nói làm chúng tôi vững tin lên nhiều, từ nay về sau chỉ cần tập trung hết mình vào công việc.
Đêm hôm đó toàn đội chúng tôi đều ngủ rất ngon. Một phần do mệt mỏi sau một ngày làm việc, một phần do không có chuyện gì ngoài mong muốn xảy ra.
Ngày thứ hai trôi qua, công việc cũng vẫn không có gì tiến triển. Đất vẫn cứng như đá, trời vẫn nắng như thiêu đốt. Nhưng tối hôm đó chúng tôi đã nhận được bộ đầu thu chảo Kỹ thuật số và cả một chiếc Ti vi màn hình phẳng còn khác mới. Đại gia Trường quả thật hào phóng, ông còn kèm theo khuyến mãi cả một bộ Ampli tích hợp chế độ hát Karaoke rồi nói người đem đến lên tận trên gác để cài đặt, đấu cắm cho chúng tôi cho đến khi vận hành được mới về. Quả thực là có Karaoke cũng hay nhưng tôi nghĩ chắc sẽ không dùng đến bao giờ. Vì ai đi làm về ăn tối xong tranh thủ tăm rửa rồi nghỉ ngơi chứ đâu còn sức mà hát hò. Nếu có chắc chỉ ngó qua một vài tin tức thời sự hay dự báo thời tiết.
Bốn ngày đầu tiên đã trôi qua. Chúng tôi đã đào được một đoạn mương dài khoảng hơn 70 mét. Hôm nay đoạn mương chúng tôi cần đào chính là đoạn đi qua trước mặt khu nhà Rông. Công việc tưởng chừng đã đơn giản hơn nhiều nhưng một sự cố đã xảy ra. Chúng tôi vấp phải đá, có lẽ là một hòn đá núi khác to nằm ngay phía trước cổng nhà. Đây không phải là đá lẫn đất mà là một tảng đá nằm chìm trong nền đất. Một tảng đá khác to. Nếu không có máy đục bê tông thì không thể nào qua được đoạn này. Cả nhóm ngồi lại với nhau để bàn tính.
Vẫn như mọi khi, người đầu tiên cất tiếng nói trước là đội trưởng Thống:
- Chúng ta vướng đá, tảng đá khá to nằm chắn ngang đoạn chúng ta cần đào. Mọi người tính sao? Nếu chỉ dùng cuốc, xẻng thì không thể nào làm được. Còn việc mượn khoan bê tông bây giờ sẽ phải xuống tận thành phố Tuy Hòa, cách đây rất xa. Và cũng không biết có mượn được không. Giờ các đội thợ cũng đều đi xây dựng cho rất nhiều công trình trong thành phố. – Thống nói với nét mặt đăm chiêu nghiêm túc.
Cả đội dường như chìm vào suy nghĩ. Tôi cũng nghĩ nhưng chẳng ra được phương án gì, vì tôi đã bao giờ phải đi đào đường dẫn nước đâu. Chợt lúc đó Bằng, đội phó, lên tiếng:
- Thống ah! Tôi có ý kiến này. Nếu cứ tiếp tục đào như vậy sẽ là đâm đầu vào đá. Vậy chỉ còn cách tránh đá thôi. – Bằng chậm rã nói.
- Ý của bạn tức là sao? – Thống hỏi.
Bằng không trả lời mà đứng lên đi vào nhà lấy một tờ giấy trắng cùng một chiếc bút bi đi ra để trước mặt cả đội. Cậu ta giải thích:
- Chúng ta sẽ không đào thẳng theo đường cái nữa mà đến đoạn này sẽ đào vòng qua phía sau khu nhà Rông đang ở để tránh tảng đá đó. Đường mương chúng ta làm sẽ chạy qua đám cây cối um tùm phía sau. Ngày mai tôi và Hiệp sẽ đi khảo sát nền đất trước rồi chúng ta bắt tay làm luôn. Có thể ở phía đó đất sẽ mềm hơn.
- Vậy cứ như vậy đi, ngày mai chúng ta sẽ tiến hành làm luôn. – cả đội thống nhất phương án của Bằng.
Sáng hôm sau khi tôi đang ăn sáng thì thấy Bằng và Hiệp quần áo nhem nhuốc bước vào nhà.
- Sáng nay em và Hiệp đã khảo sát sơ bộ rồi thầy ah! Khoảng đất đi vòng qua phía sau ngôi nhà này sẽ không gặp đá và mềm hơn đất gần đường cái. Tuy phía sau đó cây cối um tùm nhưng chúng ta có thể phát quang. Việc đó không quá khó, một mình em cũng có thể làm được. – Bằng cao giọng nói với tôi.
- Được! vậy sau khi ăn sáng xong cả đội sẽ bắt tay vào làm đoạn mương đấy. – tôi đáp – Giờ thì phải ăn sáng đã, đói quá rồi.
Ăn sáng xong một số bạn nữ và hai cô giáo phải xuống trường học để phụ đạo hè cho các học sinh bản. Chỉ còn các bạn Nam, tôi cùng hai bạn nữ nửa ở lại phụ giúp công việc đào mương.
Đúng là khi đi đào vòng qua khoảng đất phía sau căn nhà chúng tôi đất xốp, mềm và dễ đào hơn nhiều. Việc phát quang cây bụi cũng khá đơn giản với Bằng. Cậu ta một tay cầm rựa đi đến đâu là cây cỏ ngả rạp ra đến đấy cứ như Triệu Tử Long năm xưa một ngựa một thương đi trong đám quân Tào.
Mọi việc tiến triển khá thuận lợi, năng suất đã được cải thiện lên rất nhiều. Vì đoạn này đất mềm nên không cần dùng xà beng để dầm trước, chỉ cần cuốc theo đúng luốn rồi dùng xẻng hất lên mặt đất. Đầu giờ chiều, sau bữa cơm trưa cả đội tranh thủ nghỉ ngơi 1 tiếng rồi quay lại công việc, lúc đó là 13h00'. Đoạn mương đào giờ đã nằm ngay phía sau căn nhà Rông của chúng tôi, cách nhà Rông khoảng 50 mét.
Chúng tôi lại quay ra đào tiếp, Bằng và Tùng cầm cuốc nhảy xuống dưới. Hai người thay nhau cuốc rãnh mương. Thống và Hiệp mỗi người một xẻng, chuẩn bị khi đất đầy là xúc lên. Bằng rất khỏe, mỗi nhát cuốc là một mảng đất to được bới lên. Cậu ta vốn quen việc của nhà nông. Hồi ở Gia Lai nhà cậu ta trồng rất nhiều Café và Thanh Long nên việc cuốc đất cậu ta thành thục như cầm đũa. Tôi thấy Bằng vẫn đang ra sức nện cuốc xuống đất.
Bỗng ngay lúc đó có một tiếng "Cộp!" cụt lủn vang lên giữa chiều nắng. Bằng cầm cây cuốc lên nhìn lại lưỡi cuốc thấy đã mẻ một miếng to tướng. Cậu ta vứt chiếc cuốc lên mặt đất rồi nhảy phắt từ dưới mương lên, miệng làu bàu:
- Lại dính phải đá rồi, cục này to và cứng đây.
Cả đội chúng tôi đưa mắt nhìn nhau thầm kêu khổ. Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Giờ biết tính sao đây ?
- Đợi chút, - Thống nói, rồi cậu ta vứt xẻng nhảy xuống con mương để khảo sát lại lần nữa. – Chúng ta cố thử cạy viên đá này lên xem sao. Mà chỗ này sao lại có loại đá kỳ lạ thế nhỉ? Không giống loại đá ở trên vùng này.
Thống gọi Tùng và Hiệp cùng xuống dưới lấy xẻng xúc lớp đất trên bề mặt tảng đá rồi lấy tay bới đất để lộ ra phần bề mặt phiến đá. Một phần của phiến đá đã lộ ra, nằm sâu dưới con mương cách mặt đất tầm gần 1 mét.
Tôi tò mò nhìn xuống phía dưới, phiến đá này quả là lạ thật. Bề mặt đá màu đen, thô nhám và sần sùi, bề mặt lấm tấm trăng đen. Đúng là không phải là đá vùng này. Khu vực này phần lớn là núi đất pha lẫn đá vôi. Đá vôi chủ yếu có màu xám trắng, bề mặt thường trơn nhẵn. Loại đá này không cứng lắm, dùng vật nặng đập vào đá có thể lở ra thành tửng mảng, thậm chí vỡ vụn. Phiến đá chúng tôi thấy không phải đá vôi. Phiến đá này vừa cứng lại vừa đen.
Tùng lấy một cái xà beng cạy một mẩu nhỏ phiến đá ra rồi cầm lên tay, quan sát tỉ mỉ, bất chợt thoáng có chút ngạc nhiên. Tùng nói:
- Đây không hẳn là đá! Đây là một dạng hợp chất được làm từ đá.
Tôi với tay cầm lấy mảnh đá của Tùng đưa lên xem kỹ. Tùng nói có lý. Đây giống như một dạng chất được pha trộn với đá rồi kết vón thành hình. Chất đá này rất giống với loại hợp chất hay được dùng để xây lô cốt từ thời Pháp, Tôi biết điều này vì Hà Nội giờ đây vẫn còn rất nhiều vết tích của các lô cốt thời chiến tranh.
Vậy sao lại có loại đá này ở đây? Đây là cái gì vậy? Tôi và Hiệp vội vã nhảy xuống mương nước xem xét kỹ lại phiến đá đó. Thống, Bằng, Tùng, Hiệp bốn bạn nam cầm xẻng tiếp tục đào rộng theo mép phiến đá. Phiến đá đã dần lộ ra dưới nền của mương nước. Đó là một phiến đá hình chữ nhật bề ngang khoảng hơn 1 mét, dài khoảng tầm hơn 3 mét. Bốn mép góc phiến đá rất vuông vắn như thể được người ta đẽo gọt. Chúng tôi như chết sững. Tất cả nhìn nhau không một câu nói. Sự im lặng đến sững sờ tràn ngập không gian của buổi trưa hè oi bức. Tôi là người cất tiếng trước:
- Thôi tất cả đội nghỉ tay, về ăn cơm đã rồi chiều làm tiếp!
Cả đội thu gọn cuốc xẻng, lặng lẽ đi về không ai nói với ai một câu. Hình như trong đầu mỗi người đều đang có một suy nghĩ cho riêng mình.
Ăn cơm trưa xong cô giáo và các bạn nữ đều tranh thủ lên gác để đặt một giấc nghỉ trưa. Chỉ còn lại 5 người đàn ông im lặng ngồi lại nhà dưới. Thống trầm ngâm cất giọng chậm rãi:
- Sáng nay chúng ta gặp phải phiến đá kỳ lạ quá. Thầy và các cậu cho rằng đó là vật gì vậy?
Vẻ nghiêm trọng hiện lên trẻn khuôn mặt của mọi người. Tôi chậm rãi rút điếu thuốc châm lửa hút và pha một ấm trà cho cả đội nam. Đặt điếu thuốc xuống bàn, tôi quay sang nhìn Thống và nói hai từ ngắn gọn:
- Quan tài !  

  Thống khẽ gật đầu đồng ý. Tùng, Hiệp và Bằng cũng trầm ngâm không nói, một sự im lặng. Im lặng của đồng ý.
- Chúng ta đào phải một cỗ quan tài bằng đá. – Bằng tiếp lời. – một loại đá rất rắn, chắc chắn không phải là đá tự nhiên mà là một dạng keo nào đó được trộn với các loại đá khác nhau. Lúc đầu mềm có thể uốn nắn thành hình, tạo kiểu. Sau để phơi khô sẽ vón lại mà cứng hơn cả đá, chịu nước và chịu nhiệt rất tốt.
- Vậy tại sao ở cái vùng rừng rú xa xôi này lại có chiếc quan tài như vậy ? – Hiệp hỏi cả đội với một vẻ mặt ngạc nhiên.
Câu hỏi của Hiệp rất khó trả lời, nhưng đó chính là câu hỏi thích hợp nhất lúc này. Tất cả chúng tôi đều trầm mặc để suy nghĩ. Bao nhiêu câu hỏi được đưa ra trao đổi, bàn bạc mà không thể có một hướng trả lời hợp lý.
Những chiếc quan tài kiểu này thường chỉ xuất hiện ở khu vực Huế hay Bắc bộ, nay sao lại xuất hiện trên vùng Tây Nguyên này? Nếu đúng đó là quan tài thì hẳn người chết nằm trong đó là một nhân vật quan trọng, là mệnh quan triều đình hay chí ít cũng là đại phú gia giàu có ! Ở trên vùng này từ trước đến nay chưa hề có ghi chép về một vị quan nào cả. Vậy đây là ai? Tại sao người ta lại phải kỳ công dùng chiếc quan tài này để chôn người chết. Vốn dĩ người chết chỉ cần làm một cỗ quan tài bằng gỗ, gỗ trên này không hề thiếu. Người ta chọn một chất liệu rắn chắc, kiên cố như vậy hẳn là muốn bảo vệ xác chết, hoặc cũng có thể bảo vệ những đồ vật của người chết được chôn theo trong quan tài. Vậy đó hẳn phải là những thứ vô cùng quý báu. Không những đối với người chết mà còn cả với những người sau này tìm thấy nó. Vì thế họ mới cần phải bảo vệ kỹ như vậy.
Mọi câu trả lời đưa ra đều không hợp lý. Chỉ có một câu trả lời duy nhất đúng. Câu trả lời đó nằm chính trong cỗ quan tài.
- Giờ tính sao các bạn? – tôi hỏi.
- Việc này đúng ra phải báo cáo với công an xã. Nhưng từ đây xuống dưới trung tâm xã cũng tầm gần chục cây số, đường đi lại là đường núi, ngoằn nghèo khó khăn. Chúng ta cũng không hề có phương tiện nào di chuyển cả. – Tùng trả lời tôi.
Chợt Thống rút chiếc điện thoại ra và nói:
- Cũng may hôm qua có lưu lại số của anh Kèo, công an viên của thôn. Để chút nữa sẽ gọi cho anh ta báo lại sự việc này.
Chúng tôi cũng đều tán thành với phương án này, đợi anh công an thôn về giải quyết. Thống lấy máy gọi cho Kèo và báo tìm thấy một phiến đá lạ hình dạng giống như một chiếc quan tài cổ. Kèo trả lời rằng không may hôm nay anh ta phải xuống tận dưới TP Tuy Hòa để học nghiệp vụ, nhanh nhất chiều tối mai mới về kịp. Anh ta dặn chúng tôi cứ tạm thời để đấy. Ở đây dân cư thưa thớt, chủ yếu là người dân tộc lại thật thà. Hơn nữa chẳng ai có ý định lấy trộm chiếc quan tài cả. Chúng tôi cứ yên tâm mà tiếp tục đào tiếp đoạn sau.
Đang định quay lại tiếp tục công việc thì bầu trời mây đen ầm ầm kéo đến. Một cơn mưa nặng hạt tuôn xối xả lên bầu trời Sơn Định. Chúng tôi phải dừng công việc để trú cơn mưa. Cơn mưa kéo dài hơn hai giờ đồng hồ. Toàn bộ đất cát trong con mương chúng tôi đào cũng bị dòng nước mưa cuốn phăng đi. Hóa ra con mương chúng tôi đào từ đầu ngọn dốc lên khi gặp mưa xuống vô tình như là một con suối nhỏ. Tất cả đất cát đều bị nước xối tung và cuốn về phía đầu dốc, chỗ đó thấp hơn chỗ nhà Rông của chúng tôi.
Khi cơn mưa tạnh hẳn chúng tôi quay lại chỗ cỗ quan tài. Nước mưa đã xối toàn bộ lớp đất đá trên mặt cỗ quan tài. Phần nắp cỗ quan tài hiện ra rõ ràng trước mắt chúng tôi. Tôi đang định quay vào nhà rông thì thấy cả bốn bạn sinh viên đều nhảy xuống dưới mương. Tay mỗi người đều cầm xẻng và cuốc. Tôi giật mình hỏi:
- Các em làm gì vậy? sao lại nhảy xuống đấy?
Nếu ngày hôm đó các bạn sinh viên nghe theo lời tôi thì có lẽ tất cả mọi chuyện đã khác, mọi thứ sẽ thuận lợi hơn cho chúng tôi rất nhiều. Nhưng nếu vậy thì cũng sẽ không bao giờ có câu chuyện này cả.
- Bọn em tò mò quá thầy ah! Phải đào xung quanh xem có phải đúng là quan tài hay không? Bọn em ở đây lớn lên sinh trưởng trong vùng núi không có thằng nào sợ ma hết thầy ạ! Thầy không cho em đào thì tối thầy ngủ bọn em cũng sẽ đào. – Bằng trả lời tôi giọng chắc nịch.
Thực ra thì tôi cũng tò mò không kém các bạn ấy, chỉ vì mình là tư cách giáo viên không tiện để nói các bạn đào mộ người khác lên. Nhưng nếu các bạn muốn thì thôi cứ để xem sự tình thế nào đã. Biết đâu đó cũng chỉ là một tảng đá bình thường.
- Các bạn muốn đào thì phải đào rộng ra xung quanh cỗ quan tài này, cố gắng đừng để cuốc, xẻng đập vào làm hỏng cỗ quan tài, sau lại phiền phức ra. – Tôi đáp lời Bằng.
Chỉ một lát sau dưới sự nỗ lực vì hiếu kỳ và tò mò của bốn cậu sinh viên của tôi, toàn bộ cỗ quan tài đã được phát lộ dưới mương nước. Cỗ quan tài làm bằng hợp chất mầu đen, xù xì, bề sâu khoảng 1 mét. Một cỗ quan tài cổ, to và nặng nề nằm hiển hiện trước mắt tôi. Giờ phải làm sao bản thân tôi cũng chưa biết. Tôi chưa bao giờ có ý định và có gan mở quan tài của ai ra cả.
Tôi thấy Bằng tay vứt cuốc để lấy một chiếc xà beng, ghé phần cạnh sắc vào đường rãnh trên nắp chiếc quan tài. Bằng vốn chẳng sợ ma quỷ cũng không ngại thần linh, trên không sợ đất, dưới không sợ trời, ngang tàn khí phách. Hẳn cậu ta định mở nắp chiếc quan tài ra thật.
- Dừng lại đã! – tôi quát thật to.
- Sao vậy thầy? – Bằng ngơ ngác - em đang định mở ra xem bên trong có gì? Biết đâu lại có vàng bạc châu báu thì thầy lại có tiền nuôi vợ con, còn bọn em có chút vốn dắt lưng để chạy chỉ tiêu ở các Ngân hàng Thương Mại thời gian đầu đi làm. – Cậu ta nói giọng nửa đùa nửa thật.
- Nếu mọi người muốn mở thì cũng được, thầy cũng đang tò mò lắm đây. Nhưng không phải bằng cách này, cần phải chuẩn bị một số thứ khác nữa. – tôi đáp.
Tôi đề nghị tất cả đội lấy khẩu trang, thấm nước rồi đeo lên mặt, găng tay lao động cũng phải đeo. Đồng thời lấy thêm quần áo để mặc thật dày vào người. Rồi lại lấy 5 chiếc túi nilong rất to chụp vào đầu. Tôi làm thế để đảm bảo cơ thể của tất cả mọi người đều phải hết sức kín đáo, không được để hở một bộ phận nào ra. Ngoài ra phải xem khi nào trời có gió to mới được ra mở nắp quan tài. Khi mở phải đứng đầu gió không được đứng ngược. Lúc đưa xa beng vào bậy nắp quan tài phải bắt đầu từ phần góc, bậy từ từ để cho quan tài hở một lỗ nho nhỏ cho thoát khí.
Tại sao phải làm vậy, vì trong quan tài cổ của nhiều vua chúa thường có cạm bẫy đặt để đề phòng kẻ xấu vào cướp phá. Hoặc không phải vậy thì trong nhiều cỗ quan tài người chết thường được ngâm tẩm bằng một hóa chất nào đó để cho cơ thể giữ được lâu hơn. Những hóa chất này sau hàng trăm năm có thể tích tụ thành một loại khí độc. Khi được phát tán ra không khí người nào ngửi vào có thể bị trúng độc, nhẹ thì bất tỉnh nhân sự, nặng thì mất mạng như chơi. Hơn nữa những chất lỏng trong quan tài nếu để chạm vào ra thịt có thể làm thối rữa, nhiễm trùng mà lở loét không có thuốc chữa. Do vậy phải làm hết sức thận trọng. Khẩu trang ướt có tác dụng như một chiếc mặt nạ phòng độc. Ngoài ra còn dùng túi nilong để ngăn cách thêm lần nữa khí độc bay vào. Nếu trời không có gió thì khí độc khi quan tài được mở ra có thể không bay đi mà quanh quẩn bên cạnh, rất nguy hiểm cho người mở. Do đó phải mở khi có gió mạnh và đứng đầu gió, khi đó gió sẽ cuốn theo khí độc ra xa.
Đó là những thứ kiến thức tôi có được bằng kinh nghiệm của mình khi xem những bộ phim nổi tiếng như Indiana John, Tomb Raider hay Xác ướp Ai Cập ... Những kinh nghiệm đó đôi khi lại có thể cứu được mạng sống của chúng ta.
Bằng lách chiếc xa beng vào một góc của cỗ quan tài. Lúc đó trời đã đổ về tầm gần 5h chiều. Gió mạnh của vùng núi thổi vù vù. Đây chính là lúc thích hợp nhất để thực hiện công việc có một không hai "Bậy nắp quan tài".
Nắp chiếc quan tài có vẻ nặng, một mình bằng khỏe như vậy mà cũng chật vật. Phải nhờ sự trợ giúp của Tùng nắp chiếc quan tài mới dần dần nhúc nhích chuyển động. Một khe hở nhỏ đã lộ ra. Đúng lúc ấy từ phía trong chiếc quan tài vụt lên một luồn khói màu nâu nhạt sộc thẳng vào giữa chúng tôi.
Dù đã hết sức đề phòng nhưng sự việc xảy ra quá nhanh, cả năm người chúng tôi đều không thể né kịp. Tôi thấy phảng phất trong đó một mùi hương thơm nhè nhẹ. Nhìn sang bên cạnh không thấy có ai bị ngã hay có biểu hiện buồn nôn, chóng mặt, trúng độc gì cả. Tôi yên tâm thêm phần nào.
- Thầy có ngửi thấy mùi gì không ? - Hiệp hỏi tôi.
- Có! Chắc các bạn cũng người thấy một mùi thơm nhè nhẹ phải không? – tôi đáp rồi tiếp – Đó không phải là khí độc, người nằm trong quan tài kia hẳn không có ác ý với chúng ta. Nếu thầy đoán không nhầm thì đây là mùi hương của một loại cây gỗ đã biến mất từ rất nhiều năm trước đây, gỗ NGỌC AM.
Ngọc Am là loài cây thân gỗ thơm ngát, lá kim mà cầm không đau tay được các nhà thực vật xếp vào họ Hoàng đàn, bộ Thông. Ngọc am có tên La tinh là Cupressus funebris, nhưng dân gian quen gọi là cây ngọc am, hoàng đàn rủ. Người Trung Quốc gọi nó là San mộc, còn người Tày, Nùng ở vùng cao phía đông bắc nước ta gọi là Máy vạc. Ngọc Am là một loại gỗ cực kỳ quý hiếm thường chỉ mọc ở phía Bắc nước ta nơi giáp với Trung Quốc. Trước kia rất lâu từ thời phong kiến nghe đồn rằng có cả một rừng Ngọc Am ở miệt Hà Giang. Sau này vì giá trị của nó quá lớn nên đã bị đốn chặt rồi vĩnh viễn biến mất khỏi nước ta. Gỗ Ngọc Am vốn rất đắt tiền nên thường chỉ có các bậc vua quan sử dụng.
Ngay bản thân cái tên ngọc am đã làm người nghe mường tượng ra đây hẳn không phải là một loại gỗ thông thường (am là nằm sâu dưới lòng đất). Nếu gỗ sưa được xem như thứ gỗ đắt như vàng ròng, thì ngọc am cũng được ví quý như ngọc bích.
Hương ngọc am quyện vào làn da cung tần mỹ nữ xưa khiến các bậc đế vương say đắm, gỗ ngọc am dùng làm quan tài thì cả trăm năm xác thịt vẫn tươi nguyên... Những câu chuyện như thế vẫn được người ta truyền tai từ nhiều đời nay. Thi thể được ướp bằng tinh dầu ngọc am, đặt trong quan tài ngọc am thì đến cả trăm năm xương thịt vẫn tươi, quần áo niệm vẫn còn nguyên không hề rách nát. Khi khai quật mộ lên có khi cách xa hàng trăm mét vẫn ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng, tuyệt nhiên không có mùi gây gây của xương thịt người. Người được chôn cất được tẩm liệm theo phương pháp này được coi là chôn vĩnh viễn, không cải táng.
Nhờ một cơ duyên mà tôi đã được thấy, sờ và ngửi mùi hương của Ngọc Am. Bác tôi chơi thân với một nghệ nhân chuyên làm đồ gỗ thờ cúng ở làng La Xuyên – Ý Yên – Nam Định. Nhân một dịp đến chơi tôi và bác tôi được nghệ nhân này giới thiệu một chiếc bàn nước kiểu gỗ lũa làm từ Ngọc Am. Ông ta nói đây vốn là một gốc cây ngọc am nằm sâu trong rừng Hà Giang được một đại gia xây dựng nổi tiếng miền Đông Bắc mua về rồi gửi nhờ ông ta chế tác. Ngọc Am thơm cực kỳ đặc biệt nên tôi vẫn còn nhớ mãi mùi đó.
Cỗ quan tài kia ngoài phần vỏ được làm bằng đá hợp chất rắn chắc thì phía bên trong còn một chiếc quan tài bằng gỗ Ngọc Am nữa để giữ xác. Đây là lối an táng theo kiểu Trong Quan Ngoài Quách điển hình của giới quý tộc phong kiến. Chắc người nằm trong quan tài hẳn phải có một lai lịch không hề tầm thường.
Nắp quan tài được mở dần ra rồi trượt hẳn sang một bên. Toàn bộ quan tài đã hiện rõ dưới cái ánh nắng vàng le lói của buổi chiều rừng núi. Phía trong quan tài là một cái xác vẫn còn đầy đủ răng, tóc dài buôn xõa nhưng phần thịt đã tiêu hết đi. Xác chết teo lại như một người gầy gò ốm yếu chỉ còn da bọc xương, hai lỗ mắt tóp vào sâu hoắm. Lối ướp xác của người Á Đông cổ là vậy, chỉ có phần thịt, gân cốt là tiêu còn da và xương vẫn lưu lại, quần áo trang phục cũng vẫn còn nguyên. Đó là một người đàn ông mặc bộ áo kiểu quý tộc phong kiến màu vàng, trước ngực thêu hình Hổ phù đang nhe nanh múa vuốt. Kiến thức lịch sử của tôi vốn không tồi, chỉ cần nhìn qua tôi đã đoán được người nằm trong quan kia là một mệnh quan của triều đình phong kiến. Hơn nữa vị này hẳn là quan Võ, vì chỉ có con nhà võ mới thêu hình Hổ phù. Quan văn thường thêu hình Hạc.
Nhưng mọi sự chú ý của chúng tôi ngay lập tức đều được hướng về một chỗ khác. Trên ngực xác ướp vị võ quan đó có một tấm bia nhỏ như một quyển sách. Nếu nhìn từ xa trông giống như một người ôm cuốn sách đi ngủ. Nhưng sách thì bằng giấy, mà giấy thì dễ tan nát còn đá thì không. Hẳn là có điều gì quan trọng nên vị quan này mới ôm bia đá lúc chết, ý là muốn nhắn nhủ điều gì đó cho người sau này.
Trên tấm bia đá trước ngực xác ướp teo tóp đó có những hàng chữ nhỏ nhi ti những được chạm khắc hết sức tinh xảo và rõ ràng nên có thể đọc được bằng mắt thường. Chỉ có điều tôi không đọc được vì đó là chữ Hán hay chữ Nôm, thứ chữ mà các triều đại phong kiến của Việt Nam đã sử dụng suốt mấy ngàn năm lịch sử cho đến khi chữ Quốc ngữ ra đời vào thời Pháp thuộc.
Ngoài tấm bia đó ra chúng tôi không thấy bất cứ thứ đồ đạc gì đặc biệt. Và chắc hẳn không hề có vàng bạc châu báu gì cả. Vì nếu có thì hẳn giờ đây tôi đang ngồi đánh bạc ở Las Vegas chứ không phải là đang kể lại cho các bạn câu chuyện này. Chúng tôi nhìn nhau thẫn thờ một chút, dường như trong mắt mỗi người hơi có chút thất vọng không giống những gì họ đã tưởng tượng. Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm. Lúc này trời đã chạng vạng đổ bóng tà. Thống nói với đội rằng hôm này làm thế thôi, nghỉ mai làm tiếp. Còn chiếc quan tài cứ để đấy cũng chẳng cần đậy lại. Chỉ lấy ít là cây phủ lên cho đỡ lộ liệu. Vì dù sao cỗ quan tài cũng nằm thấp dưới đường mương phía sau nhà Rông, hơn nữa chỗ này tối ít người qua lại, chắc cũng chẳng ai để ý đến cỗ quan tài này đâu.
Chúng tôi để lại đồ nghề ngay bên cạnh bờ mương rồi quay về nhà. Năm người chúng tôi thống nhất sẽ không kể lại câu chuyện này cho các bạn nữ trong đội để tránh làm họ hoang mang sợ hãi. Vì con gái vốn hay sợ ma, suy nghĩ linh tinh. Nếu họ biết có một cỗ quan tài phía sau nhà thì hẳn chẳng bao giờ dám buổi tối đi vệ sinh.
Cơm nước xong chúng tôi ngồi họp đội để triển khai tiếp công việc của ngày hôm sau rồi ai nấy lặng lẽ về chỗ nằm của mình. Mỗi người một suy nghĩ chăn trở, không biết câu chuyện này rồi sẽ tiếp tục thế nào. Hy vọng là chiều mai anh Kèo công an lên sẽ giải quyết được cái quan tài kia đi.
Trời đổ về đêm, mọi thứ ánh sáng tắt hết theo quy định để đảm bảo tất cả cả đều phải đi ngủ. Ở trên Mùa Hè Xanh này hầu hết mọi hoạt động đều làm bằng tay chân, rất mệt mỏi nên giấc ngủ là vô cùng quý giá. Nếu mình không ngủ cũng không được làm phiền đến giấc ngủ của người khác. Trời đêm hôm đó tối đen như mực, trước khi tôi thiếp đi chìm vào giấc ngủ thì trời lại đổ một cơn mưa rất to. Cơn mưa đêm xối xả rơi rào rào xuống căn nhà Rông của chúng tôi. Tôi thầm nghĩ: "trời mưa to thế này không khéo các xác khô ngoài kia sẽ bị ngập hết, không biết có bị hỏng hay dập nát gì không ? nếu vậy thì mai biết ăn nói sao với công an bây giờ ? Mà cũng thật tội cho vị võ quan đó, giữa đêm hôm lại phải phơi mình trước gió, trước mưa chỉ vì những sinh viên tò mò của tôi."
Trong đầu tôi lúc đó nảy ra một suy nghĩ thật kỳ lạ. Tôi mong cái xác ướp của vị Võ quan đó có thể tự đứng dậy được, bước ra khỏi quan tài và đến một nơi nào đó trú qua cơn mưa. Giá mà lúc đó trời quang mây tạch và có một bó hương thì tôi cũng sẽ mò mẫm ra ngoài đó thắp cho ngài ba nén hương cho ấm hương hồn. Nhưng không đủ sức rồi, sau một ngày làm việc mệt mỏi, tôi nhanh chóng chìm vào trong giấc ngủ.
..............................
- Thầy ơi! Thầy ơi! Dậy đi thầy! – Một giọng nói thảng thốt cất lên ngay sát bên tôi.
Tôi choàng tỉnh giấc và kịp nhận ra Bằng và Thống đang đứng bên cạnh vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng. Bằng dùng tay của mình lay gọi tôi dạy mà đôi bàn tay vẫn còn run lẩy bẩy.
- Có chuyện gì vậy? mấy giờ rồi ? – tôi hỏi.
- Hơn 5h sáng thầy ah! Có chuyện nghiêm trọng đã xảy ra rồi thầy! Thầy nhẹ nhàng thay đồ để cho các bạn nữ ngủ tiếp rồi đi cùng chúng em ra phía sau nhà. – Thống nói với một giọng trầm hẳn xuống.
Hẳn đây là một việc quan trọng rồi, vì tôi hiểu Thống. Cậu ta ít nói và không bao giờ biết nói đùa, người ít nói thường vậy. Có lẽ vì vậy mà Thống là đội trưởng của rất nhiều chiến dịch tình nguyện ở trường tôi.
Tôi vội vàng khoác lên người chiếc áo thể thao dài tay rồi ra ngoài cùng Thống và Bằng. Trời buổi sáng trên vùng núi Tây Nguyên khí hậu rất lạnh, sương đọng đầy trên cỏ cây xung quanh nhà Rông. Do tối hôm trước trời đổ mưa to nên đất trở nên ướt nhẹp như đi trong bùn lầy, chạy nhanh bùn đất sẽ bắn tung tóe lên tận người.
Bằng và Thống dẫn tôi qua phía sau nhà, thẳng ra chỗ cỗ quan tài đặt trong mương nước. Tôi bèn hỏi:
- Có phải là trận mưa đêm qua làm nước ngập hết quan tài rồi không ?
- Ngập ! nhưng còn nghiêm trọng và kỳ quái hơn nhiều thầy ạ! Thầy mau ra xem cùng em sẽ hiểu ngay, còn em cũng không biết phải nói gì! – Thống trả lời.
Ra đến nơi tôi đã thấy Tùng và Hiệp đứng chờ sẵn bên miệng quan tài. Nét mặt của hai người tỏ rõ sự hoang mang cực độ. Mặt Hiệp tái mét không còn một giọt máu. Tùng đang phải dựa vào một gốc cây, chân run lẩy bẩy tưởng chừng như không thể đứng vững được nữa. Tôi nhanh chóng đến gần cỗ quan tài. Nước mưa sau một đêm đã dềnh lên xâm sấp mặt cỗ quan tài. Bước lại gần, tôi nhìn vội vào trong quan tài xem cái xác có bị ảnh hưởng không. Tôi không còn có thể tin vào chính mắt mình nữa. Lúc đó tim tôi như thắt lại ngừng đập. Một cảm giác kinh hoàng lạnh lẽo thấm vào sống lưng, tóc gáy tôi đã dựng ngược. Tôi chỉ tay vào cỗ quan tài ngập nước lắp bắp được vài câu cụt lủn:
- Cái, cái ... xác đâu rồi !!!
Cái xác ướp teo tóp của vị Võ quan đã biến mất một cách bí hiểm, chỉ còn lại chiếc quan tài trống rỗng. Cả tấm bia trên ngực xác chết cũng không thấy đâu. Tôi như chết sững, chẳng nhẽ những gì tôi nghĩ tối qua đã thành hiện thực. "XÁC CHẾT BIẾT ĐI".
Sau một khoảng thời gian để trấn tĩnh lại, cả đội ngồi lại với nhau và tôi biết được sự thể của việc này. Sáng nay, tầm hơn 4h, Thống dạy sớm để đi lấy nước về cho đội nấu cơm buổi sáng. Do đoán tối qua mưa nên Thống đã để sẵn vài xô nước phía sau nhà để hứng nước mưa về nấu cơm. Ở trên vùng cao hiếm nước này thì nước mưa an toàn hơn nước suối. Vì suối thường chảy qua những rừng cây rậm rạp trên thượng nguồn, có rất nhiều loại lá cây, sinh vật có thể vào lòng suối, trong đó có cả những là cây độc. Vì thế có thể nước suối cũng sẽ bị nhiễm độc một phần nào.
Khi đi lấy nước tình cờ Thống đi ngang qua chỗ cỗ quan tài và phát hiện ra cái xác đã biến mất. Cậu ta lập tức quay về nhà Rông trước tiên đánh thức 3 bạn nam trong đội, Bằng, Tùng và Hiệp dạy để ra xem lại cẩn thận. Rồi sau đó mới để Hiệp và Tùng ở lại đó còn mình và Bằng quay vào nhà đánh thức tôi dạy.
- Em chưa bao giờ gặp chuyện là như chuyện này thầy ạ! – Thống nói. – Cái xác ướp đó tự biết đi và đã bỏ chúng ta đi rồi.
- Sao em lại khẳng định như vậy ? – Tôi vặn lại. – Hay là xác bị nước cuốn trôi đi đâu đó quanh đây thôi, thế đã tìm kỹ chưa ?
Trong lòng tôi lúc đó cực kỳ hoang mang và sợ hãi nhưng đây không phải là lúc để tỏ ra hoảng sợ. Nhất là ở cương vị của tôi, là một giảng viên phụ trách đội sinh viên tình nguyện. Kể cả có sợ cũng phải dấu nỗi sợ đó đi, nếu không có thể sẽ làm xuống tinh thần của toàn đội.
- Tìm kỹ lắm rồi thầy! Em và Hiệp đã dò khắp xung quanh nơi đây rồi nhưng không thấy. - Tùng nói. – Hơn nữa mưa hôm qua cũng không đủ mạnh để cuốn trôi cái xác ấy đi. Nếu mưa lớn như vậy thì mấy cái xô nước của chúng ta để ngoài sân hứng mưa sao vẫn còn trụ lại được.
Tùng lập luận rất có lý. Mọi việc ngày càng trở nên mờ mịt và bí hiểm. Giờ cái xác đã biến mất. Chúng tôi phải bắt đầu lại từ đâu đây ? Chợt tôi thấy Hiệp cất lời cắt đứt mọi suy nghĩ mông lung của tôi:
- Còn điều kinh khủng này nữa thầy! Em đã quan sát rất kỹ cỗ quan tài và mặt đất xung quanh khu vực này. Hôm qua mưa, đất nơi này lầy ra như bùn. Nên muốn đi lại trên bùn thì hẳn phải lưu dấu Vết Chân. Đây chính là vết chân em tìm thấy.
Hiệp bình tĩnh dẫn chúng tôi nhìn vế hướng nhà Rông và chỉ rõ những vết chân của chúng tôi khi đi ra đây. Có đủ năm hàng vết chân. Chính xác thì không phải là vết chân mà là vết dép. Trên vết dép còn có thể nhìn rõ cả hình thù và cỡ số, nên dép của ai đều dễ dàng nhận ra được. Sau đó Hiệp quay lại chỉ cho tôi một hàng vết chân. Vết chân người đúng nghĩa, chân trần, có đủ cả năm ngón. Vết chân đó xuất phát từ cỗ quan tài như thể người chết đã leo ra và bước đi từ quan tài. Hai hàng vết chân đó tiến thẳng về phía khu rừng phía sau nhà của chúng tôi. Cả đội liều mình bám theo vết chân cái xác ướp đó vào tận trong rừng. Nhưng khi vào đến rừng thì do thảm thực vật cỏ cây trong rừng rất dày nên vết chân bí ẩn kia đã biến mất. Không còn có thể xác định được phương hướng đi của cái xác nữa. Chúng tôi quay về với hoang mang và thất vọng tràn trề.
Tôi chợt nhớ đến tấm bia nhỏ trên ngực xác chết lúc nằm trong quan tài. Tôi quay sang hỏi cả đội:
- Tấm bia hôm qua chúng ta thấy cũng mất rồi phải không?
- Mất cả bia thầy ạ! Chỉ còn lại mỗi cỗ quan tài không thôi. Em đã mò kỹ trong quan tài rồi. Đến quần áo cũng không sót lại chút gì. – Bằng đáp.
Tôi thấy lúc đó như đã đánh mất một thứ gì đó rất quan trọng, một nút thắt của toàn bộ câu chuyện này. Tôi chỉ biết than thở:
- Giá mà giữa lại được tấm bia đó thì còn có thể biết được lai lịch thân phận của cái xác ướp kia. Trên tấm bia đó có chữ Hán, có thể nhờ người dịch hộ được. Nay cũng mất rồi ...
- Nếu thầy cần dòng chữ đó thì em có! – Tùng nói với tôi như nghẹn lại. – Hôm qua lúc mở nắp cỗ quan tài đó em có đem theo điện thoại và tiện tay chụp được một kiểu toàn bộ cái xác đó. Tấm bia cũng chụp được luôn, tuy bé nhưng nếu phóng to ra thì em nghĩ vẫn đọc được. Em dùng Iphone 4S nên hình ảnh khá nét thầy ạ. Điện thoại đêm qua em sạc pin vẫn để trong nhà, để em kiểm tra lại. Hy vọng vẫn còn tấm ảnh đó ...
Cả đội chạy như bay về nhà Rông, đứng dưới chờ Tùng leo lên gác lấy điện thoại xuống. Mở điện thoại của Tùng ra đội đều thở phào nhẽ nhõm. Ơn giời! tấm ảnh đó vẫn còn đây rồi, ảnh khá rõ nét, hoàn toàn có thể đọc được những chữ ghi trong tấm bia cổ. Vấn đề của chúng tôi là tìm ra ai có thể đọc được những dòng chữ Hán này.
Dì ruột của tôi tên là Hinh, dì là em gái thứ 3 trong gia đình 5 anh chị em của mẹ tôi. Dì tôi tốt nghiệp ĐH sư phạm ngoại ngữ khoa Hán – Nôm ở Hà Nội ra rồi vào làm giảng viên trường Đại Học Sư Phạm - Nha Trang. Dì là người duy nhất tôi có thể tin tưởng có thể giúp đỡ chúng tôi trong chuyện này. Không chỉ là trình độ Hán học mà còn vì chính bản thân câu chuyện ly kỳ và huyền hoặc này. Hán Tự thì nhiều người biết. Nhưng người có thể tin vào câu chuyện này và sẵn sàng dịch dùm chúng tôi tấm bia của Xác chết biết đi kia thì không nhiều. Tôi chỉ còn biết trông cậy vào dì ...
(Hết hồi thứ 2)
Xin mời đón đọc hồi thứ 3: LAI LỊCH VIÊN VÕ QUAN

Hồi 3: LAI LỊCH VIÊN VÕ QUAN

Ngay ngày hôm sau tôi đã gọi điện cho dì để trao đổi. Dì đồng ý sẽ giúp tôi. May mắn là ở cái thời đại này tôi không phải đi vào tận Nha Trang để đưa ảnh tấm bia cho dì, giờ chỉ cần có Internet và hòm thư Email là có thể gửi được. Vấn đề là ở cái xóm núi Hòa Ngãi này mới chỉ có cột sóng Mobile chứ chưa có sóng 3G. Muốn gửi được Email phải chạy xuống tận trung tâm của xã Sơn Định cách chỗ chúng tôi ở tầm 7km, ở đó mới có sóng 3G.

Nhờ những hôm đầu đi dân vận khá tốt nên chúng tôi cũng quen được nhiều bà con trên này. Họ cũng cho chúng tôi nhiều thứ, hoa quả, chè thuốc, nước ... Và đôi khi muốn xuống dưới xã mua thực phẩm họ cũng sẵn sàng cho đi nhờ xe máy. Đúng ra tôi không bao giờ phải đi chợ. Việc đi chợ mua đồ cho đội do các bạn nữ phụ trách. Nhưng lần đấy tôi đi, tôi dặn muốn mua gì thì ghi vào mảnh giấy để tôi mua hộ.

Xuống dưới xã việc đầu tiên là mua đủ nhu yếu phẩm cho đội. Rồi tôi tìm một chỗ bán thẻ điện thoại, nạp xong một cái Viettel 50k là đã có 3G ngay. Tôi lập tức gửi ngay bức ảnh tấm bia đó cho dì của tôi qua email. Để chắc ăn, tôi gửi qua cả tin nhắn trên Facbebook. Dì tôi cũng là giáo viên nên thường xuyên ngồi trên Net mỗi khi rảnh. Tôi vừa nhắn tin đã thấy dì trả lời rằng đã nhận được, ảnh tốt, có thể nhìn thấy chữ. Nhưng nội dung tấm bia lại viết bằng một kiểu chữ Hán cổ nên cần có thời gian để tra cứu và dịch. Dì hẹn sẽ trả lời tôi sau vài ngày. Dù sao thì tôi cũng không vội, có đợi thêm vài ngày cũng không sao, chúng tôi vẫn có việc khác để làm.

Quay về cái nhà Rông cả đội nam ngồi lại với nhau và thống nhất sẽ giữ kín câu chuyện này. Chúng tôi vẫn tiếp tục đào mương nước, bỏ qua chỗ có cỗ quan tài đó ra, đào tiếp lên phía trên. Tuy nhiên còn một vấn đề cần phải giải quyết ngay. Đó là Kèo, anh công an thôn, giờ cái xác đã biết mất thì phải ăn nói sao với anh ta đây ? Nếu anh ta lên mà thấy cỗ quan tài không có xác thì có thể chúng tôi gặp rắc rối to. Hắn ta có thể khép chúng tôi vào tội xâm phạm mồ mả, rồi nhìn cỗ quan tài trống không cũng có thể hắn ta nói chúng tôi đã lấy trộm hết vàng bạc châu báu ... như vậy thật phiền phức. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ ra được một cách đối phó.

Cầm điện thoại lên tôi gọi cho Kèo. Anh ta bắt máy ngay. Tôi xưng tên, nói rõ với anh ta rằng tôi là giáo viên phụ trách đội tình nguyện và hỏi anh ta ở đâu rồi, đã quay lại Sơn Định chưa. Kèo nói là đã học xong rồi nhưng chưa về được vì vướng vụ nhậu với mấy anh cùng lớp nghiệp vụ. Anh ta vẫn ở Tuy Hòa. Tôi nói rằng sao không về đây nhậu với tụi tôi. Lần trước Thống có gọi nói về vụ quan tài là xạo đấy. Mục đích của Thống muốn kéo anh ta về chỗ chúng tôi để nhậu thôi, chứ làm gì có quan tài, xác chết nào. Kèo tỏ vẻ cáu kỉnh trách chúng tôi là nếu muốn nhậu thì cứ nói. Anh ta sẽ vác rượu lên, đâu cần phải nghĩ ra cái chuyện hoang đường đến vậy. Cái gì chứ nhậu với anh ta không cần lý do. Anh ta hẹn mấy hôm nữa sẽ lên ngồi giao lưu với đội. Mùa hè xanh là thế, không nhậu không phải là mùa hè xanh.

Sau khi đào qua chỗ cỗ quan tài công việc của chúng tôi khá thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi không còn gặp phải đá nữa, đất cũng đã mềm hơn. Để giữ bí mật và không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của xóm núi Hòa Ngãi chúng tôi vẫn đi và sinh hoạt như bình thường. Cả đội quyết định đóng nắp ván cỗ quan tài đá lại, đổ ít đất lên bề mặt rồi lấy lá cây lên trên che đi. Dù sao thì cỗ quan tài cũng nằm chìm dưới đường mương nên nếu đi ngang qua cũng rất khó phát hiện ra. Nếu có nhìn thấy thì cũng trông giống một phiến đá to nằm ở dưới đường mương nước.

Đến ngày thứ ba tôi lại đi chợ. Mục đích lần này của tôi chính là để bắt sóng 3G và check email. Tôi hy vọng dì tôi đã dịch được xong tấm bia cổ trong quan tài. Nếu có thể biết được nội dung tấm bia đó thì rất có thể mọi chuyện sẽ được làm sáng tỏ. Nhưng cũng có thể sẽ phức tạp hơn. Biết đâu một cuộc phiêu lưu mới sẽ mở ra trước mắt chúng tôi. Một cuộc phiêu lưu đầy rẫy những nguy hiểm rình rập ...

Lên chợ trung tâm tôi vội vàng đi mua đồ. Khi đã mua đủ mọi thứ cần cho đội thì trời vẫn còn sớm, mới hơn 15h chiều. Tôi tranh thủ vào một quán café gần chợ, chọn một chỗ ngồi trong góc yên tĩnh, giở điện thoại ra và bật 3G. Điện thoại báo tôi có thư mới. Dì đã gửi lại thư cho tôi. Một bức thư khá dài. Tôi thật vui mừng không thể kể siết, nội dung của bia đá cổ đã được dì của tôi dịch khá trọn vẹn. Đó không chỉ là thân thế lai lịch của kẻ nằm trong mộ, mà còn là cả một câu chuyện Lịch sử đã xảy ra cách đây hơn 200 năm. Nội dung của bức cổ bia đại khái như sau.

......................................................

Tân Dậu - 1801
Tên ta là Võ Chính, em họ và cũng là thuộc tướng dưới quyền của Khâm sai quán suất hậu quân, bình tây tham thắng đại Tướng quân VÕ TÁNH.

Hai anh em ta cả đời tận trung tận lực phụng sự Nguyễn Vương: Nguyễn Phúc Ánh phục quốc. Lập được nhiều công lao hiển hách. Anh ta đại tướng quân Võ Tánh là một trong Gia Định Tam Hùng, được Nguyễn Vương tin cẩn mà gả cho em gái là Quận chúa Ngọc Du.

Năm Kỷ Mùi - 1799 anh em ta cùng Lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu phụng mệnh Nguyễn Vương mà đem quân đánh vào thành Quy Nhơn. Sau những trận chiến khốc liệt, cuối cùng anh em ta cũng hạ được thành Quy Nhơn, bắt sống 6000 quân Tây Sơn cùng 50 thớt voi, chém được đô đốc của Tây Sơn là Nguyễn Thiệt. Các tướng của Tây Sơn là Lê Chất, Lê Văn Thanh, Nguyễn Đại Phát phải mở cửa thành quy hàng.

Chiếm được thành Quy Nhơn của quân Tây Sơn nhưng anh ta Võ Tánh là một người có tầm nhìn xa trông rộng, đã đoán rằng thành Quy Nhơn chiếm một vị trí xung yếu. Đây là một vị trí chiến lược then chốt trong cuộc chiến Tây Sơn – nhà Nguyễn. Nên tuy lần này để mất Quy Nhơn nhưng nhất định quân Tây Sơn sẽ tìm mọi cách để chiếm lại bằng được.

Quả nhiên hai năm sau, năm 1801, nhà Tây Sơn sai hai viên hổ tướng là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dung đem quân theo cả hai đường thủy bộ mà vây ráp lấy thành Quy Nhơn. Võ Tánh tướng quân đã nhìn ra được một cuộc chiến khốc liệt khó lòng tránh khỏi. Quân Tây Sơn kiêu hùng, thiện chiến vây ráp hãm, công phá thành liên tục nhưng anh ta Võ Tánh vẫn kiên cường chống đỡ, cố thủ giữ vững được thành. Nghe tin thành Quy Nhơn bị vây hãm, đích thân Nguyễn Vương - Nguyễn Phúc Ánh thân chinh cùng hai viên đại tướng Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy thống suất thủy quân ra giải vây cho thành Quy Nhơn.

Thủy quân nhà Nguyễn của ta đã đánh bại đội thủy quân Tây Sơn tinh nhuệ của tướng Võ Văn Dũng tại trận Thị Nại. Vốn dĩ đã có thể tiến vào giải nguy cho thành Quy Nhơn. Nhưng anh ta Võ Tánh một lần nữa lại thể hiện là người trí dũng song toàn, nhìn xa trông rộng. Võ Tánh tướng quân đã viết thư mật báo ra cho Nguyễn Vương khuyên ông ta đừng vội vào cứu Quy Nhơn mà hãy đem quân vượt biển tiếp tục ra tấn công Phú Xuân – thủ phủ của nhà Tây Sơn. Bởi vì lúc đó đại bộ phận quân Tây Sơn tinh nhuệ đã dồn vào đánh thành Quy Nhơn, lực lượng phòng thủ Phú Xuân hẳn sẽ mong manh dễ vỡ. Anh ta Võ Tánh nguyện sẽ đem hết sức mình để kìm chân quân Tây Sơn ở nơi đây. Nếu thành Quy Nhơn không thể giữ vững được thì cũng cam tâm mà hy sinh, vì nghiệp lớn nhà Nguyễn.

Nhận thấy kế sách của Võ Tánh hết sức tài tình, Nguyễn Vương đã nghe theo mà kéo thẳng thủy quân ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm ấy (1801) thì lấy được thành Phú Xuân thủ phủ của nhà Tây Sơn, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến.

Nghe tin Phú Xuân thất thủ, tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu nổi giận đốc quân đánh thành Quy Nhơn luôn đêm ngày, khí thế như vũ bão. Binh sĩ trong thành bị bao vây suốt 14 tháng, lương thực đã cạn kiệt. Biết sức đã cùng, lực đã kiệt, không thể giữ được thành nữa. Tướng quân Võ Tánh viết một bức thư cho Trần Quang Diệu nói sẽ giao thành, nộp mạng với một điều kiện Tây Sơn khi vào thành không được giết hại binh sỹ nhà Nguyễn. Tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu đồng ý. Võ Tánh nộp thành nhưng không cam tâm đầu hàng địch, một lòng thờ chúa Nguyễn nên đã chất lửa rồi tự thiêu tại quân doanh. Lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc mà tuẫn tiết.

Tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu cũng làm một vị anh hùng quân tử đáng mặt nam nhi. Sau khi chiếm được thành ông đã cho khâm liệm Võ tướng quân tử tế và còn giữ đúng lời hứa không sát hại quân binh nhà Nguyễn. Trần Quang Diệu chiếm được thành Quy Nhơn rồi vội cho người đi vào các phủ, kho để kiểm duyệt lại tiền bạc, lương thảo, quân nhu ... thì mới phát hiện một điều quan trọng: Tuy sổ sách ghi chép thì vẫn còn nhưng TẤT CẢ VÀNG BẠC, CHÂU BÁU, TIỀN CỦA, TÀI SẢN QUÝ GIÁ ... TRONG NGÂN KHỐ ĐỀU ĐÃ BIẾN MẤT. Kiểm định sổ sách trong ngân khố phải còn ít nhất 120 thùng vàng ròng và vô số kim cương, châu báu, đá quý khác ... giá trị không thể nào kể xiết.

Vốn ta cũng đã muốn tận trung báo quốc mà tuẫn tiết theo anh ta Võ Tánh tướng quân. Nhưng chính anh ta là người đã không cho phép ta được chết. Trước khi nhảy vào lửa tự thiêu anh ta Võ Tánh đã tiết lộ cho ta một bí mật động trời và cũng giao cho ta một nhiệm vụ trọng đại.

Thì ra sớm đã biết được Tây Sơn sẽ tiến đánh thành Quy Nhơn, ngay từ khi chiếm được thành Võ tướng quân cùng Ngô thượng thư đã bí mật vận chuyển toàn bộ vàng bạc, gấm vóc, ngọc ngà, châu báu, tiền của ... ra khỏi thành, dấu ở một nơi bí mật. Trong thành chỉ để lại vũ khí đạn dược và lương thực để chiến đấu, không có bất cứ một thứ giá trị nào khác. Anh ta làm thế là để đề phòng nếu Quy Nhơn thất thủ thì kho báu kia cũng không lọt vào tay giặc. Sau này sẽ có người đi tìm lại kho báu đó lấy về lại cho Nguyễn Vương để tiếp tục công cuộc phục quốc báo cừu. Người được giao nhiệm vụ tìm lại kho báu đó chính là ta. Hộ giá thiết kỵ tả tướng quân Võ Chính.

Nhân lúc Trần Quang Diệu ban ơn mà không giết hại binh lính nhà Nguyễn, ta lợi dụng trà trộn vào đám linh thường ra khỏi thành để tiếp tục thực hiện sứ mệnh được giao. Thì ra anh ta Võ Tánh lấy cái cớ muốn tìm một nơi để sau này về dưỡng già và để làm một cỗ quan tài bằng gỗ tốt, ngoài có quách bằng đá chắc chắn nên đã mò lên tận cái xứ rừng thiêng nước độc này. Những việc đó chỉ để che mắt thiên hạ để dễ bề thực hiện kế sách. Trước khi chết Võ Tánh đã nói với ta về nơi đặt làm quan tài và người thợ làm quan tài cho anh ta là tại nơi này. Sau này ta đã lên đây và tìm được người làm quan tài cho anh ta Võ Tánh.

Vốn đã tưởng chừng như tìm được kho báu thì sau ta lại hoàn toàn thất vọng. Ta đã khám phá ra rằng nơi này chẳng phải là chỗ để kho báu. Người thợ làm quan tài cũng chẳng biết gì về kho báu đó cả. Ông ta chỉ là người làm quan tài, chế tác quách bằng đá cho anh ta. Ta không hề nản chí bỏ cuộc vì tin Võ tướng quân không phải tự nhiên bắt ta lên đây. Sau này nhờ cơ duyên ta đã khám phá được nơi này thực ra chỉ là đầu mối của kho báu đó. Kho báu vốn đã để ở một chỗ khác. Cuối cùng thì ta đã khám phá được nơi để kho báu, tấm bản đồ của kho báu đó đã được ta tìm thấy.

Ta đã chuẩn bị mọi thứ để đi tìm lại kho báu đó thì đột nhiên đổ bệnh nặng. Đây quả là ý trời. Bệnh của ta là bệnh hen đã thành mãn tính lâu ngày không khỏi. Hơn nữa trong thời gian 14 tháng giữ thành cùng anh, ta đã hao tâm tổn lực rất nhiều, thể chất đã suy kiệt. Biết là không thể nào qua khỏi trong vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ nên ta đã nhờ người thợ đá khắc lại tấm bia này. Phía mặt sau tấm bia chính là bản đồ của kho báu ta đã vẽ lại, vì nếu để trên giấy lâu ngày sẽ mục nát, chỉ còn cách khắc lại trên đá thì sẽ được lâu. Ngay sau khi khắc xong bia đá ta cũng ép tên thợ khắc đá uống thuốc độc tự tử để giữ bí mật về kho báu.

Ta đã căn dặn người tâm phúc sau khi ta chết thì đặt ta vào trong quan tài đá này. Vì anh ta Võ Tánh tự thiêu đã được Trần Quang Diệu mai táng ngay trong thành nên không cần dùng đến cỗ áo quan đấy nữa. Sau khi ta chết họ sẽ chôn ta xuống ngay tại đây và không lập bia mộ để khỏi bị bọn trộm cướp chú ý phá hoại. Sau này nếu người nào tình cờ có duyên tìm được mộ phần của ta thì phải thay ta hoàn thành nốt nhiệm vụ. Tìm ra kho báu trao trả lại cho các Nguyễn Vương. Hẳn lúc đó Nguyễn Vương cũng sẽ ban cho quan tước bổng lộc hậu đãi. Kẻ đó kể cũng sẽ không quá thiệt thòi gì. Coi như đây là một món quà ta tặng kẻ hữu duyên.

Các người hãy đi theo bản đồ ta đã khắc lại phía sau tấm bia này để tìm đến kho báu.

Tân Dậu 1801 - Hộ giá thiết kỵ tả tướng quân Võ Chính

...............................................................................................

Nội dung của tấm bia cổ đã được dì tôi dịch hết. Tôi đứng dậy thanh toán tiền cafe rồi lập tức về ngay nhà Rông để họp đội. Trong lòng tôi rối bời bởi những sự kiện diễn ra dồn dập và ngày càng ly kỳ. Tôi thầm nghĩ: câu chuyện này là gì vậy? Tin hay không tin? giờ phải làm sao nữa đây? Phải chăng tôi là người hữu duyên của tướng quân Võ Chính ?

Hồi 4: MA DẪN LỐI

Trời chiều Sơn Định bỗng trở nên u ám và nặng nề. Một cơn mưa nhỏ bất ngờ đổ xuống. Tôi ngồi trong quán café, đã xem xong toàn bộ bức thư của dì. Đứng dậy thanh toán tiền ly café nâu tôi vội xách mấy món đồ cho đội rồi trở về nhà Rông. Hôm nay Thống cho đội kết thúc công việc sớm, nghỉ ngơi để tối sẽ họp đội. Nhưng tôi biết hẳn các bạn nam cũng đang nóng lòng muốn biết nội dung của tấm bia cổ.

Bữa cơm chiều khá đạm bạc với vài ba món lèo tèo, chủ yếu là cá khô, điển hình của Mùa hè xanh. Ăn cơm xong chúng tôi phân công các bạn nữ cùng hai cô giáo đi dân vận các em thiếu nhi trong thôn tham gia khóa ôn tập văn hóa hè, dự tính sang tuần sẽ khai giảng. Còn toàn bộ đội nam sẽ ở lại họp. Chúng tôi cũng không muốn các bạn nữ biết về chuyện xảy ra trong mấy ngày qua. Rồi tôi cũng sẽ nói cho họ biết, nhưng chí ít không phải là lúc này. Vì chính lúc này, chúng tôi đã đánh mất manh mối duy nhất: Cái xác và tấm bản đồ.

Ấm trà nóng được pha vội vàng qua loa, không ai trong đội có tâm chí để ngồi thưởng thức. Một không khí nặng nề và im ắng bao trùm cả đội. Đưa chén trà lên ngấp một hụm, tôi đưa bản dịch của tấm bia cổ cho từng thành viên truyền tay đọc. Tất cả đều căng thẳng, không một thành viên nào lên tiếng. Bức thư trở lại tay tôi, cất bức thư vào túi. Tôi lên tiếng phá vỡ bầu không khi im lặng nặng nề:

- Vậy là chúng ta đã biết được lai lịch của người nằm trong quan tài và nội dung của tấm bia. Nhưng cái xác đã biết mất cùng tấm bia đá. Câu chuyện này là sao? Liệu có thật hay không? Đằng sau tấm bia kia có phải là bản đồ kho báu của tướng quân Võ Tánh không?...

- Chúng ta đều không biết thầy ạ! Nhưng em tin câu chuyện này có thật. Vì con người ta trước khi chết hẳn không nói đùa. Không ai đem theo một câu chuyện đùa xuống dưới mồ cả. Hẳn phải là một việc quan trọng họ mới cần phải để lại cho hậu thế. – Thống trả lời tôi với một giọng cương quyết.

- Giờ đã không còn chút manh mối gì cả. Cái xác đó đã tự sống lại và đem theo cả bản đồ kho báu, chắc nó sẽ tự đi tìm lại kho báu đã mất. – Bằng chen vào.

- Cho đến khi biết được tại sao cái xác biến mất thì mọi việc hoang đường vẫn có thể xảy ra. Chúng ta phải lần theo cái xác đó. Dù không biết tại sao nó sống lại nhưng căn cứ vào vết chân thì nó đã đi lên rừng. Ta sẽ lên rừng tìm nó chứ ? – Hiệp hào hứng góp ý kiến.

Sau một hồi thảo luận và bàn bạc cuối cùng cả đội chúng tôi đã đi đến một quyết định. Chúng tôi sẽ vẫn ở lại đây tiếp tục công việc với mương nước. Sẽ không ai lên rừng để tìm cái xác cả vì điều đó là không thể. Rừng núi bạt ngàn thế này biết tìm ở đâu? Khác gì mò kim đáy bể. Hơn nữa truyền thuyết vốn có thể chỉ là truyền thuyết. Không ai có thể xác nhận đó là sự thật. Mà nếu có là sự thật chúng tôi cũng không có lý do gì để bỏ công việc của Mùa hè xanh. Nếu ngày mai chúng tôi liên lạc về trường và xin ban lãnh đạo Học viện cho tạm nghỉ để đi tìm kho báu thì chắc câu trả lời sẽ là: "các anh chị nghỉ luôn đi nhé". Vậy đó, đành gác lại câu chuyện huyền bí còn dở dang.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, chữ "duyên" luôn đi đôi với chữ "nghiệp". Đã có duyên hẳn sẽ phải trả nghiệp, muốn tránh cũng không tránh được. Nhất là những việc của người chết đã giao phó.
.................

Mùa hè xanh năm nào Học viện Ngân hàng cũng chia làm hai đội. Tôi ở đội hai, đội một đóng quân ở một thôn khác cách chúng tôi ở một ngọn núi cao. Muốn đi từ đội một đến đội hai phải đi qua một quãng đường đèo xuyên núi tầm 5km, hai bên là rừng cây um tùm. Đội một ở gần trung tâm xã hơn đội hai của chúng tôi. Họ được bố trí ở ngay tại một trường tiểu học của thôn, nên điều kiện của họ tốt hơn chúng tôi nhiều. Chỗ của họ còn có thể bắt được sóng 3G của Viettel. Thỉnh thoảng tôi cũng qua đấy chơi với họ.

Làm được hơn một tuần thì hai đội tổ chức giao lưu. Đội một điều kiện tốt hơn nên lần này họ đăng cai tổ chức. Một bữa tiệc sẽ diễn ra và đương nhiên đội hai chúng tôi sẽ là khách. Họ mời chúng tôi lên nhậu, cả nam và nữ. Thực ra cũng là sinh viên cùng trường nên người của hai đội cũng biết nhau hết. Nêu tuy gọi là khách nhưng thực ra cũng như là người trong nhà. Chúng tôi cũng cùng với họ chuẩn bị tổ chức buổi liên hoan này.

Buổi liên hoan này ngoài các thành viên của hai đội thì có thêm một số nhân vật khác của địa phương. Đó là trưởng thôn và công an viên khu vực. Tôi gọi điện mời anh Kèo công an và ông Ba Nha trưởng bản. Kèo đồng ý đi cùng chúng tôi, anh ta vốn thích nhậu nhẹt. Còn ông Ba Nha xin phép không đi được vì bận chút việc trên rẫy không thể bỏ.

Tầm 4h chiều chúng tôi đã nhờ một số thanh niên địa phương lấy xe máy đưa đội nữ và các cô giáo sang bên đội một trước để chuẩn bị bữa tiệc cùng đội một. Còn chúng tôi dự định sẽ đi bộ sang đó sau, vì vẫn còn phải dở dang việc đào mương nước. Nghĩ đến chuyện phải đi bộ lên đèo 5km tôi đã thấy nản.

Đội nam chúng tôi kết thúc công việc tầm hơn 5h chiều. Trời lúc đó vẫn còn sáng và nắng. Tranh thủ tắm rửa vệ sinh rồi cả nhóm sẽ khởi hành sang bên đội một. Cất gọn đồ đạc và khóa cửa nhà Rông cẩn thận, chúng tôi bước ra khỏi nhà. Vừa ra đến cổng tôi đã thấy một bóng áo xanh nhang nhác quen thuộc đứng đó. Anh Kèo, công an viên, anh ta chủ động tiến đến bắt tay vào chào tôi:

- Xin chào thầy giáo, thầy giáo chuẩn bị sang bên đội một phải không? Để tôi cùng đi với thầy!
- Anh Kèo không sang đó trước ah? Tôi tưởng anh đi xe máy từ trung tâm xã về rồi ghé qua đó luôn. – Tôi đáp.
- Ah! Em về nhà cất xe máy rồi sang đây để đi cùng với đội mình. Em đoán đội mình đi bộ. Mà thầy giáo còn nhớ đường qua đó không ?
- Tôi nhớ anh Kèo ah! Cứ thẳng đường cái này lên con đèo rồi sẽ đến đội một thôi.
- Ha ha! Đấy chính là lý do em đến đón thầy và các bạn. Đi đường đó xa lắm thầy, tầm 5 – 7km cơ. Vì đường đó đi vắt lên lưng chừng núi rồi qua đỉnh núi sang phía bên kia. Nó ngoằn ngoèo nên dài. Chỉ được cái dễ đi cho xe máy và ô tô. Chứ còn đi bộ mệt lắm. Còn một con đường khác, đường tắt dành riêng cho người đi bộ thầy ah.

Rồi anh ta nói với chúng tôi về một lối đi tắt men theo dưới chân núi. Lối đi này chủ yếu dành cho người đi rừng hay đi nương rẫy và chỉ có người dân địa phương biết. Gọi là đường thì chả phải. Nó chỉ là lỗi mà người ta đi nhiều mà thành. Nếu đi theo lối này sang bên đội một chỉ tầm hơn 2km. Anh ta còn nói lối này cũng dễ đi thôi, không phải leo trèo vất vả gì cả, rừng ở đây cũng gần đường nên không có thú dữ. Thi thoảng gặp con cầy, con cáo là cùng.

Thấy có anh ta dẫn đường chúng tôi cũng yên tâm hơn nhiều và đồng ý đi theo cái lối tắt đó. Anh ta đi trước, tôi và bốn bạn nam đi theo sau. Con đường đó vốn nằm ngay phía dưới con dốc, chỗ chúng tôi bắt đầu đào mương. Đó chỉ là một lối đi nhỏ men theo chân núi. Hai bên là cây rừng um tùm. Nhưng hẳn nhiều người đi lối này nên chúng tôi cũng không phải chặt cây phát lối.

Đi xuyên trong rừng tầm hơn 1km thì chúng tôi nhìn thấy trước mặt một ngã rẽ nhỏ, có một con đường khác không rõ từ đâu nhập vào con đường của chúng tôi. Kèo dừng lại, ra hiệu cho chúng tôi dừng lại rồi chậm rãi nói:

- Đây là đoạn ngã ba, nếu không phải là người địa phương, đi về dễ bị nhầm lắm. Vì trong rừng cây cối nhìn như nhau hết, chẳng có gì để làm mộc phân biệt cả. Hơn nữa nếu là buổi tối thì hai bên đều đen như mực, không thể phân biệt, mất phương hướng rồi sẽ lạc thôi. Nên tôi sẽ đánh dấu đoạn này, nếu tối nay mà có quay lại theo đường này thì còn biết đi sao cho đúng.

Nói rồi tôi thấy anh ra nhảy vào một bụi cây ven đường khệ nệ vác ra một viên đá tù tù mầu xám to bằng cỡ cái nồi canh rồi để giữa đường làm dấu. Tôi thầm cám ơn anh ta vì việc làm này. Kèo đã rất chu đáo và cẩn thận lo cho chúng tôi. Tôi biết là trong bóng đêm con người vốn hay mất phương hướng. Vào buổi sáng người ta đi trên đường thì còn có thể căn cứ vào căn nhà này, cái cửa hàng kia, cột nọ ... để làm dấu cho khỏi lạc. Nhưng buổi tối, hai bên đều đen như mực, tất cả đều tắt đèn thì việc nhận định phương hướng trở nên khó hơn rất nhiều.

Trời đã xế chiều, ánh nắng vàng vọt chiếu xen qua kẽ lá cây lan tỏa xuống mặt đất. Cứ thế đi xuyên qua con đường mòn quanh co trong rừng khoảng 30 phút thì ra khỏi rừng. Chúng tôi đến một khoảng đồi thoai thoải, cây cối đã bị người dân đốn hạ để dành cho trồng sắn và mía. Đi qua ngọn đồi đó thì đã đến đường cái. Ngôi trường học mà đội một trú ngụ ở ngay bên trái vệ đường.

Lúc đó đã gần 6h chiều. Với sự trợ giúp của nữ đội hai chúng tôi, bữa tiệc giao lưu của đội một đã được dọn lên. Gần ba chục con người quây quần trong một lớp học cấp một. Bàn ghế vốn dành để học thì nay xếp lại thành bàn ăn. Ngoài thành viên hai đội thì còn có thêm một số nhân vật đại diện chính quyền địa phương và thanh niên thôn bản.

Một chàng thanh niên dáng người cao gầy nước da ngăm ngăm, nhưng rắn rỏi bước ra đón tôi. Đó là Đỗ Thắng, đội trưởng đội một sinh viên tình nguyện. Thắng nhà ở Đaklak nhưng là người gốc Vĩnh Lộc - Thanh Hóa, quê hương của dòng chúa Trịnh nổi tiếng trong lịch sử. Thắng là người ít nói, khuôn mặt góc cạnh sắc sảo, ánh mắt luôn ẩn chứa nhiều suy tính cơ mưu. Chính vì vậy nên nhiều người mới tiếp xúc đều cảm thấy khó gần, khó gợi chuyện.

Bữa tiệc diễn ra rất vui vẻ, nhiều món ăn ngon được các bạn nữ chuẩn bị rất thơm ngon. Cần phải nói thêm rằng việc tuyển chọn sinh viên tình nguyện cho Mùa hè xanh của trường tôi khá khắt khe. Đối với nữ thì việc biết nấu ăn ngon là điều được cân nhắc hàng đầu. Đã tiệc thì không thể thiếu bia rượu. Bia cũng có vài ba két chúng tôi mua, địa phương cũng ủng hộ hai két. Rượu thì thanh niên bản mỗi người đều cầm theo một chai "rượu quí" góp vui.

Mọi người thi nhau nâng cốc chúc mừng lẫn nhau cho đến hết bia chuyển sang rượu rồi lại quay về bia ... Câu chuyện trên bàn nhậu thì đủ thứ, từ sức khỏe, làm ăn, vợ con, gia đình, người yêu đến quê hương, nhà cửa, công việc ... Nhưng chúng tôi tuyệt nhiên không hé răng nửa lời về câu chuyện cỗ quan tài.

Tới gần 11h đêm thì tiệc tàn, mọi người một số người đã ra về, một số bạn nữ mệt đã xin phép đi ngủ sớm. Hầu hết chỉ còn lại nam. Kèo công an viên quả đúng là một tay bợm nhậu. Hắn ta uống hết ly này đến ly khác. Ai hắn cũng mời và ai mời hắn cũng uống. Nghe nói ở đây người dân tộc nào cũng đều hết mình như thế. Rượu nhạt uống lắm cũng say, Kèo đã ngã vật ra bàn ngáy pho pho, ai lay cũng không tỉnh. Chúng tôi cũng tính rằng cứ kệ anh ta nằm đấy. Sáng mai tỉnh dậy rồi anh ta sẽ tự đi về. Dù sao thì anh ta cũng vừa công an vừa là thổ dân ở đây, việc đi lại không là vấn đề quan trọng. Các bạn nữ và hai cô giáo của đội tôi cũng xin nghỉ nhờ lại đội một tối nay. Một phần vì mọi người sau khi làm tiệc đều mệt mỏi. Một phần giờ đêm hôm không thể đi bộ về được. Sáng mai chúng tôi sẽ nhờ người chở xe máy về. Chị em thì không thể bắt họ đi bộ được.

Còn đội nam của chúng tôi sau tiệc rượu tuy cũng chuếnh choáng hơi men nhưng vẫn còn có thể đi được. Chúng tôi quyết định cả đội sẽ lại đi bộ về. Một phần vì ở đây cũng đã chật, không có chăn gối khó mà có thể ngủ được. Ở cái xứ vùng cao này ban ngày thì nắng nhưng ban đêm gió tây nguyên thổi vù vù, lạnh thấu da, nằm đắp kín chăn mà vẫn không khỏi rét. Hơn nữa dù sao chúng tôi cũng để nhiều đồ đạc trên nhà Rông. Mặc dù lúc đi tôi nhớ đã khóa cửa cẩn thận. Cái khóa dùng để khóa cửa tôi mua ở tận chợ trung tâm trên đường Trần Hưng Đạo – TP. Tuy Hòa. Nhưng đó cũng chỉ là một cái khóa cỡ trung bình, chủng loại phổ biến trên thị trường, không có gì đặc biệt. Với một cái xà beng, kìm cộng lực hay một tay thợ khóa chuyên nghiệp thì có lẽ không đến 5 phút đã có thể mở được cửa.

- Giờ chúng ta về như nào đây? Kèo say quá rồi, phải để anh ta ngủ lại đây thôi. Ai còn nhớ đường về không? – Tôi hỏi.
- Đường về thì em nhớ thầy ah! Cũng không có gì khó khăn cả vì cơ bản chỉ có một lối. Hơn nữa chiều nay Kèo đã đánh dấu đường cho chúng ta rồi, chắc không có vấn đề gì đâu. Chỉ ngại phải đi trong rừng buổi tối thôi. – Tùng đáp lời tôi.
- Tối thì không lo, chúng ta đi 5 người mà. Hơn nữa nhà tụi em đều ở Tây Nguyên, việc đi trong rừng cũng nhiều rồi, không có gì đáng sợ cả. Mượn lấy đội một 2 cái đèn Pin một đưa cho một người đi trước, một người đi sau cùng đoàn cầm là được. – Bằng xen vào.
- Vậy cứ thế đi! Thôi, chúng ta về sớm để cho đội một còn nghỉ. Mai họ cũng đi làm sớm như chúng ta. – Tôi quyết định vậy.

Thắng lấy hai cây đèn pin ra đưa cho chúng tôi. Một cây đưa cho Bằng cầm để đi đầu dẫn nhóm. Cây còn lại giao cho Thống, người sẽ đi sau cùng. Tôi bám theo ngay sau Bằng. Đi sau hắn tôi luôn có một cảm giác an toàn, tin cậy.

Ra khỏi đội một chúng tôi lần lại theo con đường mòn cũ. Đi qua đám rẫy sắn trên đồi chúng tôi đã đến bìa rừng. Con đường năm ngay trước mắt chúng tôi. Ánh sáng của đèn pin chỉ chiếu rõ vài ba mét. Xung quanh một màu đen kịt, khó mà có thể phân biệt được. Cho đến khi đó tôi mới cảm nhận được rõ, đi ban đêm khác hẳn lúc ban ngày.

Buổi tối đi trong rừng mọi thứ bỗng trở nên ngụy dị hơn bao giờ hết. Từng tiếng động, từng cơn gió cũng có thể trở thành hồn ma bóng quế vất vưởng quanh đây. Trí tưởng tượng con người vốn vô cùng phong phú. Buổi sáng có thể đó là một tảng đá, nhưng ban đêm nhìn thấy lại là một bóng ma. Lần mò dò dẫm trong rừng theo con đường mòn ban sáng khoảng nửa tiếng chúng tôi đã đến được chỗ rẽ nhánh sáng nay. Vì buổi sáng lúc đi cái nhánh nằm ở phía sau lưng nên không mấy ai để ý, giờ quay lại tất cả đều thấy rõ trước mặt là hai con đường. Cũng may là viên đá sáng nay Kèo đánh dấu vẫn nằm chình ình giữa lối. Cũng may là nó vẫn nằm đấy, nếu không chúng tôi có lẽ sẽ không biết đi đường nào về nữa. Đến như tôi đây là dân Hà Nội mà đi đường về ban đêm về nhà còn có lúc nhầm lẫn. Huống chi giờ lại ở giữa rừng núi, cây cối rậm rạp um tùm, nhìn chỗ nào cũng như nhau.

Chúng tôi đi theo con đường đã được Kèo đánh dấu bằng viên đá lúc chiều. Chỉ còn nửa đường nữa thôi là sẽ về đến nhà Rông. Lúc này cả đội đã hết sức mệt mỏi, phần vì bia rượu phần cũng vì phải đi bộ đường dài. Tôi vẫn bám sát ngay sau Bằng tiếp tục đi sâu vào rừng, vừa đi vừa suy nghĩ tưởng tượng linh tinh ... Chợt tôi thấy một giọng nói đằng sau cất lên phá tan sự im lặng của màn đêm.

- Dừng lại đã. Có chuyện rồi Bằng ơi! – Người cất tiếng chính là Thống. – Mày đi đầu mà không thấy có gì lạ sao ?
- Tao có thấy gì đâu mày? Mày không dám đi nữa ah? Sao nay sợ ma thế hả Thống? – Bằng đáp lại giọng có vẻ phật ý.
- Mày chơi với tao từ năm đầu tiên đến giờ có thấy tao sợ ma bao giờ chưa? Nhưng mà chúng ta phải xem lại là chúng ta đang đi đâu vậy.
- Đi về nhà chứ đi đâu? Mày hỏi thế là thế nào? Hay mày say rồi? để tao bảo thằng Tùng và Hiệp cõng mày về.

Thống ra hiệu cho cả đội tập trung lại thành một vòng tròn. Tôi biết là hẳn có chuyện nghiêm trọng nên Thống mới dừng mọi người lại. Giữa rừng khuya tĩnh mịch, hai chiếc đèn pin châu lại cũng chỉ đủ ánh sáng để chúng tôi nhìn thấy mặt nhau. Sắc mặt ai nấy cũng đều tỏ vẻ mệt mỏi và căng thẳng. Thống cất lời:

- Mọi người có ai đem theo đồng hồ không?
- Không! Nhưng muốn xem giờ thì cứ lấy điện thoại ra mà xem thôi. – Tùng nói, rồi móc điện thoại ra xem. – Bây giờ là một, một ... giờ kém!

Vẻ mặt Tùng thể hiện sự ngạc nhiên sững sờ nhưng không kém phần hoang mang, đầy nghi hoặc.

- Đúng! Gần 1h đêm rồi. Chúng ta cứ đi mà không để ý đến vấn đề thời gian. – Thống đáp.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Có gì vậy, sao lại liên quan đến thời gian ở đây? Chỉ cần đi đúng đường là sẽ về đến nhà thôi mà?
- Vâng em biết! Nhưng chúng ta đi sai đường rồi thầy ạ! – Thống trả lời chắc nịch. – Mọi người có nhớ lúc chiều nay chúng ta đi mất bao lâu không? Hơn nửa tiếng thôi. Hơn 5h chiều chúng ta đi, 6h chiều chúng ta đã ngồi vào bàn nhậu rồi. Vận tốc đi bộ của người bình thường trung bình tầm 5km/h. Cứ cho là chúng ta đi trong rừng chậm hơn chút thì quãng đường từ nhà Rông đến đội một tầm 2,5km. Kèo cũng nói với ta như vậy.

Mọi người đều nhìn nhau không ai nói gì. Có lẽ tất cả chúng tôi đều đã mường tượng ra chuyện gì rồi. Thống dừng lại trầm ngâm một chút rồi tiếp:

- Lúc chúng ta về vào khoảng 11h kém. Vậy mà giờ đã gần 1h rồi. Vậy là chúng ta đã đi được khoảng 1 tiếng rưỡi rồi. Chắc chắn chúng ta đã phải đi được khoảng 7km mà sao vẫn còn ở trong rừng?

Thống lập luận rất đúng, giờ tôi mới để ý rằng quãng đường về của chúng tôi quả thực vừa lâu lại vừa dài hơn lúc chiều. Thế này là thế nào? Chẳng lẽ chúng tôi lại lạc đường rồi? Rõ ràng là chúng tôi còn nhìn thấy viên đá đánh dấu đường cơ mà. Sao lại có thể lạc được?

- Có thể có ai đó đã di chuyển viên đá thầy ah! Nhưng mà tại sao? Em không hiểu được – Hiệp cất tiếng.
- Đúng! Có thể ai đó đã dời viên đá đi. Nhưng ai và để làm gì cơ chứ? Con đường đó vốn ít người qua lại, nhất là khi trời đã chuyển về đêm tối. Hơn nữa nếu người bình thường đi qua cũng sẽ chẳng chú ý đến viên đá đó làm gì? Nếu có chú ý đến thì có ai thừa hơi bê viên đá đó đi chỗ khác không? Mà nếu có thấy nó trướng tai gai mắt quá muốn vứt đi thì sẽ ném vào bụi rậm vệ đường? chứ sao lại đem nó đặt giữa một con đường khác? – Tôi chất vấn cả đội và cũng là đang tự hỏi mình.

Cả đội chúng tôi đều chìm trong suy nghĩ miên man. Mỗi người đều có suy nghĩ riêng của mình. Chợt tôi thấy Bằng lấy ngọn đèn pin cầm trên tay quay lại soi về phía trước rồi chậm rã nhấn từng chữ:

- Tao biết rồi Thống ah! Hiện tượng này trên Gia Lai tao nhiều người đi rừng bị lắm.

Thống gật đầu đồng ý, rồi nói:
- Tao biết mày định nói về cái gì rồi, trên tao Đăklak cũng không ít chuyện như này.

Tôi tò mò quá nên quay sang hỏi Bằng:

- Gì vậy Bằng, đi lạc phải không? Mà sao lại lạc được thế?
- Thầy đã bao giờ nghe đến câu MA DẪN LỐI, QUỶ ĐƯA ĐƯỜNG chưa? – Bằng hỏi lại tôi rồi tiếp tục luôn. – Đây chính là Ma dẫn lối thầy ah. Chúng ta bị Ma dắt đi rồi.

Tôi đang từ ngạc nhiên chuyển sang sửng sốt, kinh hoàng. Sống lưng tôi đang nóng bừng do phải đi bộ nhiều giờ bỗng lạnh buốt, khắp mặt mồ hôi vã ra như tắm. Tôi căn vặn hỏi cậu ta xem Ma Dẫn Lối, Quỷ Đưa Đường là gì ? Bằng trả lời:

- Ma dẫn lối là một hiện tượng nhiều người đi rừng gặp phải, ngay cả ở các miền quê đồng bằng cũng có. Đó là việc người đi đêm tự nhiên vì một lý do nào đó không rõ mà đi lạc hoặc đi lung tung. Có người thậm chí còn đi vòng quanh một khu nào đó. Đến sáng mọi người gọi mới tỉnh. Hỏi họ đang đi đâu thì họ nói là đang đi về nhà. Tức là trong đầu họ luôn nghĩ là đi đúng đường nhưng thực ra đã bị lạc rồi.

- Người ta nói là con Ma nó trêu ghẹo dẫn đi linh tinh. Hoặc nó muốn người ta phải làm gì đó cho nó nên mới dắt đi như vậy. Thường nơi nó dẫn đến là một nơi vốn rất quen thuộc với con Ma đó. Ví như là nơi nó chôn nó, nơi nó ở hồi còn sống hay nơi nó chết, tự tử, bị giết ... – Thống tiếp lời.

Vậy con ma nào dẫn chúng tôi đến đây, và đến đây để làm gì? Có phải con ma đó chính là cái xác tướng quân Võ Chính đã biến mất hay chỉ là những cô hồn bóng quỷ nơi nhà Rông. Chúng căm giận chúng tôi đã chiếm mất ngôi nhà Rông, nơi ở của chúng nên mới dẫn chúng tôi đi lạc đường. Cả đội đều thẫn thờ và có đôi chút hoang mang.

- Giờ quay lại chỗ cũ thôi nhé? – Tôi hỏi.
- Quay lại thôi thầy ạ! Nhưng trước khi quay lại thì phải làm một số việc đã. – Bằng trả lời.
- Việc gì vậy? Sao lại phải làm ngay à?
- Giờ nếu đúng chúng ta bị Ma dẫn thì dù có quay lại cũng vẫn lạc đường thôi, khéo lại đi lòng vòng mất.
- Vậy thì phải làm sao bây giờ, có cách nào để phá giải được Ma Dẫn không?
- Có một cách, hồi bé bố mẹ em bày cho khi đi rừng chơi. Nếu buổi tối lạc đường, đi mãi mà không về đến nhà thì phải nghĩ ngay đến Ma Dẫn. Cách phá giải cũng không có gì là phức tạp lắm.
- Vậy phải làm gì ? nói nhanh lên xem nào ? – tôi vội giục Bằng.
- Nước tiểu thầy ạ! dùng nước tiểu để phá giải Ma dẫn. Nghe các cụ nói là nước tiểu có vị khai nên Ma gặp nó sẽ tránh xa nên không thể dẫn được ta nữa.
- Tưởng gì khó khăn chứ nước tiểu thiếu gì! Vừa uống một bụng bia bên đội một rồi đó, giờ cũng đang muốn đi tiểu đây. Tất cả chúng ta cùng đi giải quyết con Ma này nhé ? – tôi nói với cả đội nam.

Nói rồi tôi tiến lên phía trước định trút hết cơn giận dữ vào con ma tưởng tượng đang đứng đâu đó xung quanh chúng tôi. Chợt thấy Bằng ra hiệu tôi dừng lại.
- Thầy thì không được thầy ạ! Nước tiểu của thầy thì chắc không có tác dụng đâu. – Bằng nói.
- Ủa! tại sao lại không? Ma nó cũng phải kén nước tiểu cơ à?
- Vâng! Đúng là như vậy. Thường chỉ có nước tiểu của trẻ con là dùng được thôi thầy ạ! Chính xác theo cách gọi của các cụ thì phải là Nước tiểu Đồng Tử! – Bằng đáp.

Nói rồi Bằng giải thích cho cả đội chúng tôi thế nào là nước tiểu của đồng tử. Đồng tử thường là em bé trai, như là Thiện tài đồng tử là em bé đứng bên cạnh Quan thế âm bồ tát. Nhưng người lớn cũng có thể là Đồng Tử. Vì chính xác đồng tử là người con trai nhưng phải vẫn còn "trinh". Hay đúng hơn là con trai nhưng chưa quan hệ với người khác giới bao giờ. Tôi có hỏi vặn Bằng tại sao phải thế thì cậu ra giải thích rằng: Đàn ông vốn là thuần dương, đàn bà vốn là thuần âm. Nếu như đàn ông chưa bao giờ quan hệ với đàn bà thì dương khí vẫn thuần nhất, sung mãn cương cường. Ma quỷ vốn là thuộc về âm khí tà đạo. Nên nếu gặp phải thứ thuần dương như nước tiểu đồng tử thì hẳn phải sợ mà không dám phạm. Ở nhiều nơi nếu có ai bị Ma nhập thì người ta còn lấy ngọn roi làm bằng cây Dâu rồi tẩm nước tiểu đồng tử để đánh lên người kẻ bị Ma nhập. Khi đó con ma đau quá sẽ phải trả lại thân xác cho người kia.

Thấy Bằng giải thích gọn ghẽ chi ly như vậy tôi cũng không biết nói gì. Tôi nghĩ thầm: "cái thằng này hóa ra cũng biết nhiều phết đấy chứ. Cứ tưởng hắn chỉ biết võ vẽ, đánh đấm, cày cuốc, leo cây hái dừa ...". Tôi liếc mắt nhìn cả đội nam. Mấy đưa cũng nhìn tôi rồi đưa mắt nhìn nhau không nói gì.

- Nước tiểu ở đây thì ai cũng có sẵn. Chỉ có điều đứa nào vẫn còn là đồng tử ? – Tôi hỏi với một hy vọng rất mỏng manh. – Thầy đã có gia đình rồi, đừng có hy vọng vào thầy nhé. Nếu biết có vụ ma dẫn giữa rừng như thế này thì tôi đã nguyện luyện môn bí kíp Đồng Tử Công từ cách đây hai chục năm. Nghĩ đến đây tự nhiên lại thấy hận cô bạn gái hồi học đại học vô cùng.

- Em cũng hỏng rồi thầy ạ! Em chỉ biết cách phá giải là như vậy thôi chứ giờ em cũng không giải được. - Bằng cũng tiếp lời.
Bằng nó cao to, dũng cảm mạnh mẽ, khí phách rất nam tính nên hẳn sẽ có rất nhiều cô gái mến mộ. Sau này tôi mới biết quả thật Bằng có rất nhiều bạn gái trong trường. Không chỉ một, hầu như khóa nào cũng có. Tôi quay sang thì thấy cả Thống và Tùng cũng đều lắc đầu. Thống ở trường cũng đã có bạn gái, mọi người ai cũng biết. Còn Tùng vốn đẹp trai, nhẹ nhàng lịch sự, quả thật cũng hết sức là quyến rũ với nữ giới. Nghe nói Tùng đã có bạn gái ở nhà trên Kontum. Giờ chỉ còn một hy vọng duy nhất. Tất cả chúng tôi đều quay sang nhìn Hiệp.

So với Bằng, Thống, Tùng thì Hiệp ít tuổi nhất. Ba bạn nam kia đều là sinh viên năm thứ 2, còn Hiệp mới vào năm nay. Cậu ta vẫn còn là sinh viên năm nhất.
- Thế nào Hiệp! vẫn còn là Đồng Tử không đấy? Giờ cả đội chỉ hy vọng vào em thôi đấy. – tôi nói với Hiệp.
- Em cũng không dám chắc đâu ạ! – Hiệp do dự ngập ngừng trả lời.
- Thế là sao? Còn hay không mà không tự biết được à?
- Nó là thế này thầy ạ! – nói rồi Hiệp thì thầm riêng với tôi. – Gì vậy! Cắt tóc, gội đầu thì liên quan gì đến chuyện Đồng tử chứ?
Hiệp hơi đỏ mặt rồi quay sang giải thích thêm cho tôi hiểu.
- À, ra là vậy! Thế thì chắc cũng không sao đâu, chắc vẫn còn là Đồng Tử đấy. Mà giờ thì cũng phải thử thôi chứ biết làm sao đây. – Tôi nói để động viên tinh thần cả đội.
- Có thằng Hiệp rồi, giờ phải làm sao đây Bằng. – Thống hỏi.
Bằng chậm rãi bày cho Hiệp cách phá giải Ma dẫn. Trước tiên Hiệp phải tiểu cắt ngang con đường mà chúng tôi vừa đi qua để tạo thành một cái vạch "ngăn ma". Rồi sau đó phải tiểu vào chân của chính mình và của cả đội. Chỉ vậy thôi, sau đó chúng tôi sẽ đi theo đường cũ về nhà.

Nghĩ đến việc dơ chân cho thằng khác tiểu vào tôi thấy hãi quá. Từ bé đến giờ đã bao giờ có ai tiểu tiện vào chân mình đâu? Nhưng giờ đã rơi vào hoàn cảnh này thôi cũng đành phải thử. Dù sao đi đường rừng thì chân ai cũng bẩn. Về nhà rồi sẽ chịu khó rửa đi vậy. Giờ điều tôi lo lắng nhất là không biết thằng Hiệp có đủ nước tiểu để thực hiện hết các mục tiêu đó không? May mắn là hôm nay Hiệp cũng uống rất nhiều bia và rượu.
- Thôi! Làm đi, nhanh lên rồi còn về. – tôi nói như ra lệnh.

Mọi việc cần làm đã làm xong. Chúng tôi đang dự định quay trở lại con đường cũ thì bất chợt thấy Thống ra hiệu im lặng. Cả đội bất chợt im phăng phắc rồi đều đưa mắt nhìn Thống.
- Mọi người có nghe thấy gì không? – Thống hỏi cả đội. – hình như có tiếng róc rách.

Cả đội đều hết sức giữ im lặng để tập trung lắng tai nghe. Đúng là có tiếng róc rách ở đâu đó cách đây không xa. Đó là tiếng nước chảy, nếu tôi đoán không nhầm thì cách chỗ chúng tôi đứng một quãng có một con suối. Một con suối chảy trong rừng.
- Có suối thầy ạ! Con suối này hẳn là con suối trong rừng mà chúng ta đã đã được nghe người dân ở đây kể. – Thống nói.
- Hay là con ma muốn dắt chúng ta ra con suối này vậy? – Hiệp hốt hoảng hỏi.

Tôi cũng hơi chột dạ. Chúng tôi lúc lên đây đã được nghe về cô gái ở nhờ nhà Rông rồi nửa đêm ra suối tự tử. Sau cũng không tìm thấy xác, chỉ thấy quần áo nổi trên mặt nước. Phải chăng con Ma nữ đó muốn dắt chúng tôi đến dòng suối này, nơi nó đã trẫm mình tự tử mà không để lại một lý do nào cả. Những người già vẫn hay bảo: Oan hồn chết bất ngờ một cách khó hiểu và huyền bí thường hay chở thành ác quỷ để quay về quấy nhiễu dương gian.

Cả đội đang lưỡng lự không biết nên làm thế nào thì chợt thấy mặt Tùng tái mét. Hai hàm răng va lập cập vào nhau, đôi tay run run giơ lên chỉ về phía có tiếng nước suối chảy. Tùng lắp bắp không nên lời:
- Có, có ... tiếng gì đó! Không phải tiếng suối. Em còn nghe thấy tiếng ... hình như là tiếng khóc của ai đó.

Tôi giật mình rồi căng tai ra nghe. Quả thật là như vậy, lẫn trong tiếng nước suối còn có cả một âm thanh nhỏ, não nuột. Đúng rồi, đó là tiếng khóc, tiếng khóc nghe tỉ tê não nuột đến như vậy. Tiếng khóc của một cô gái tôi chắc mẩm như vậy. Chỉ có con gái mới hay khóc kiểu thế. Sao lại có cô gái nào giờ này ra suối giữa rừng để khóc như vậy ? Hay đó chính là con Ma nữ kia? Ma hay người thì nó dụ chúng tôi đến hẳn có mục đích. Mà chưa ra tận nơi xem thì sao mà biết được ma hay người.

Đội chúng tôi thoáng đưa mắt ám hiệu cho nhau rồi tất cả đều cất bước thật nhanh hướng về phía bờ suối nơi có tiếng khóc. Con suối nằm phía trong rừng cách đường tầm 50 – 60m, ẩn sau những bụi cây ro rậm rạp. Gạt đám lá ra chúng tôi đi xuyên qua những bụi cậy để đến thẳng con suối.

Con suối đã ở phía trước mắt chúng tôi, tiếng nước suối reo đã rõ. Hai bên bờ suối ngổn ngang những viên đá cuội to bằng cái bát, xen lẫn những phiến đá to nhỏ đâm chìa từ bờ ra lòng suối. Nhìn về phía thượng nguồn dòng suối tôi thấy con suối uốn lượn rồi ngoặt vào phía sau một tảng đá to, hai bên cây cối um tùm rậm rạp. Cái tảng đá đoạn khúc rẽ đó tương đối lớn, cao tầm ngang đầu người. Nước con suối đã ăn mòn sát vào chân tảng đá nên trông nó như một cánh tay nhô từ bờ ra suối.

Đúng vào lúc đó tôi thấy Thống và Bằng cùng hét lên một tiếng thất thanh. Nhìn về phía mỏn đá trên đoạn rẽ đó tôi thấy lờ mờ một cái bóng người đang đứng sát mép đá. Cái bóng đó đung đưa như chỉ trực gieo mình xuống lòng suối. Gió đêm thổi làm tung lên đám tóc lòa xòa của cái bóng đen đó. Đúng là tóc con gái, chỉ có con gái tóc mới dài như vậy.

Cả Thống và Bằng trong khoảnh khắc ấy đều lia ánh đèn pin về phía cái bóng trên tảng đá đó. Ánh đèn chiếu thẳng vào cái bóng đó. Tất cả đều như chết sững, tim đập thình thịch, mồ hôi đổ dọc sống lưng.

Ngay trước mắt cách chúng tôi khoảng 100 mét trên một tảng đá, một cái bóng nữ mặc áo trắng toát đứng sừng sững. Hai tay bóng nữ đó buông thõng thượt. Chúng tôi không thể nhìn thấy rõ cô gái đó vì mái tóc dài lòa xòa buông xõa sượi. Mái tóc đó phất phơ, bồng bềnh theo gió đã che lấp khuôn mặt của cái bóng nữ quỷ mị kia.
Thời gian dường như ngưng đọng lại, chúng tôi đứng ngây ra như những pho tượng đá. Nhưng chỉ trong một thoáng giấy lát đó thôi, tất cả đều đã thay đổi. Cái bóng nữ đó chợt quay phắt lưng lại phía chúng tôi. Nó gào lên một tiếng, một thứ âm thanh quái đản không thể diễn tả bằng lời. Rồi thoắt một cái đã thầy cái bóng trắng đó biến mất sau tảng đá.

Chúng tôi vẫn còn đang bất ngờ chưa kịp phản ứng thì bóng nữ đó đã vụt biến mất. Rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng "Ùm" rất to phía sau tảng đá. Cả đội chợt bừng tỉnh, vụt chạy theo cái bóng đó về hướng tảng đá. Leo lên phía trên tảng đá chúng tôi mới kịp quan sát được quang cảnh phía đoạn ngoặt của con suối. Phái sau tảng đá đó là một bãi đá lớn, lổn nhổn nhiều tảng đá xếp chồng lên nhau, có tảng có bằng cả cái xe ô tô con. Nhảy qua những phiến đá to vài ba người có thể ngồi trên đó, chúng tôi tiếp tục đuổi theo cái bóng. Nhưng đã không thấy chút tăm hơi của cái bóng đâu nữa. Chỉ thấy phía trước mặt con suối bỗng nhiên trải rộng ra. Một mỏm đá to chìa ra ngoài lòng suối chỗ đấy. Chúng tôi vội ra sát mỏn đá nhìn xuống phía dưới. Lòng suối chỗ này bỗng mở rộng tạo thành một cái hõm nước tròn như một cái ao nhỏ. Nước suối chỗ này chắc hẳn phải rất sâu.

Khi đến trên mỏm đá chúng tôi vẫn còn thấy dưới suối mặt nước đang chao động, nhấp nhô lăn tăn gợn sóng. Hẳn là vừa có vật gì rơi từ trên mòn đá xuống suối. Phải chăng đó chính là cái bóng nữ vừa rồi? Có phải đó chính là con ma nữ đã dắt chúng tôi đến đây. Nơi đây chính là nơi nó đã reo mình xuống tự vẫn. Và hôm nay nó đưa chúng tôi đến đây để muốn chúng tôi chính mắt nhìn thấy nó tự tự một lần nữa.

Tại sao lại là nơi đây? Tại sao con ma nữ đó lại bắt chúng tôi chứng kiến nó tự vẫn dưới suối ? Những câu hỏi đó vốn dĩ chúng tôi không thể nào trả lời được, đúng là chỉ có Ma mới biết được.
Đúng vào lúc đó cả đội chúng tôi lại nghe thấy có một tiếng động rất lạ từ phía thượng nguồn con suối. Tiếng động đó ngày càng rõ. Đó là tiếng di chuyển, chính xác thì đó là tiếng bước chân đi. Tiếng bước chân khá nhanh nhưng nặng nề phát ra những tiếng bịch, bịch trên mặt đất. Có người đi đến. Mà chính tôi cũng không dám chắc là người, có thể là Ma. Vì sao không thể là Ma ? chẳng phải chúng tôi vừa tận mắt nhìn thấy Ma nữ rồi đó?
Cả đội chúng tôi ra ám hiệu tắt đèn pin và nấp sau một mô đá nhô ra. Chúng tôi quyết định sẽ mai phục để xem kẻ nào đã phát ra tiếng bước chân kia.

Phía sau những tảng đá nhấp nhô nằm dọc theo con suối, có một bóng đen lững thững xuất hiện. Một bóng đen không cao, tầm thước nhưng có một cái lưng rất to. Như một cái lưng gù khổng lồ. Cái bóng lặc lè bước qua chỗ chúng tôi nhẹ nhàng và thoăn thoắt. Bất chợt Bằng và Thống cùng một lúc nhảy ra, chạy vuợt lên phía truớc chặn cái bóng đen đó lại. Hiệp và Tùng bám sát theo, đứng án ngữ phía sau cái bóng đen lưng gù đó.

Cái bóng đó cũng đứng khựng lại, rồi một tiếng quát to cất lên: "Ai?". Tiếng quát đó phát ra từ cái bóng. Dĩ nhiên là để nhằm về phía Bằng và Thống. Cùng lúc đó tôi cũng nghe thấy tiếng của Bằng gầm lên:
- Ai? Là người hay là Ma ?
- Là người! các anh là ai ?

Hồi thứ 5: Kim Kê Đấu Xà

Tôi là người chạy đến sau cùng. Đến gần cái bóng đó tôi mới nhìn thấy rõ đây là một người. Một người đàn ông khoác trên vai một cái gùi. Chỉ có những người đi rừng, đi rẫy mới cần mang theo gùi. Ở trên này đồng bào dân tộc thường đeo gùi khi đi làm hay đi đâu xa. Trong gùi thường để chút thức ăn, nước uống và một số công cụ lao động nông nghiệp. Trong đêm tối, nhìn cái bóng đen đó đeo gùi nên tôi tưởng đó là một người có cái lưng gù.

Thoáng một chút im lặng, tôi thấy Thống cất tiếng:
- Chúng tôi là sinh viên tình nguyện lên đây làm công trình giúp dân.
- Ah! Ra vậy! Cậu là Thống đội trưởng phải không? – Cái bóng đen thở phào rồi đáp lời.
Tôi tiến lại gần hơn và chợt nhận ra đó là một giọng nói rất quen thuộc.
- Bác trưởng thôn Ba Nha phải không? – Tôi hỏi.
- Thầy giáo đó à! Tôi Ba Nha đây. Thầy và các bạn sao lại ở đây vào giờ này? Không phải là tối nay cả đội đã sang bên đội một liên hoan rồi sao? – Ba Nha vừa trả lời vừa gỡ cái gùi trên vai xuống.

Chúng tôi liền kể lại cho Ba Nha nghe toàn bộ câu chuyện của mình. Ông ta chỉ nghe và gật gù. Rồi ông hỏi anh Kèo công an đâu? Sao anh ta không đưa đội về. Chúng tôi nói là Kèo đã say quá và phải nằm lại ở đội một. Chúng tôi đành phải tự đi về một mình.

Ba Nha lúc đó mới nói rằng. Chúng tôi đã bị lạc đường rồi. Con đường chúng tôi đi lúc đầu là đúng, nhưng chúng tôi đã đi sai nhánh. Nếu đi nhánh kia thì đã sớm về đến nhà Rông. Còn cái nhánh chúng tôi đi vốn dẫn thẳng sâu vào rừng, lên đến tận sát bờ suối.

Chúng tôi hỏi sao ông lại ở đây vào giờ này. Ông Ba Nha nói là chiều nay nhận được lời mời của chúng tôi, nhưng mắc việc trên rẫy nên không đi cùng được. Rẫy của ông nằm tận trên núi, phía sâu trong rừng. Ở nơi này rẫy ở cách xa nhà là chuyện bình thường. Nhà thì phải ở chỗ thuận tiện đi lại, điện nước, gần bà con lối xóm. Còn rẫy chỉ là một mảnh rừng nào đó họ phát hay đốt đi để trồng cây trái. Nên càng muốn được chỗ có đất tốt, rộng rãi thì càng phải chịu khó đi xa. Người dân ở đây thường dựng một túp lều trên rẫy. Nhà nào có điều kiện thì dựng một gian nhà vách đất để nghỉ ngơi. Đôi lúc họ cũng ngủ lại luôn ở đó.

Hôm nay Ba Nha về muộn, một phần không muốn ngủ lại rẫy. Một phần vì phải về nhà lấy thêm thức ăn và công cụ lao động để mai làm nương tiếp. Ông ta bảo chúng tôi đi theo ông ta về. Từ đây về nhà cũng phải còn mấy cây số. Chúng tôi sẽ không quay lại đường cũ nữa mà men theo suối để về. Ông ta nói từ đội một đến con suối này rồi về đội hai của chúng tôi như là một cái tam giác. Đỉnh của tam giác chính là con suối này, nằm sâu trong rừng. Địa điểm đóng quân của hai đội là hai góc còn lại.

Ba Nha hỏi chúng tôi đang làm gì mà có vẻ nghiêm trọng thế? làm ông ta cũng phải kinh sợ vì tưởng cướp. Tôi nói với Ba Nha rằng đã nhìn thấy một cái bóng trắng toát, đầu tóc ướt sũng, xõa xượi không nhìn thấy mặt. Rồi thấy cái bóng đó bỏ chạy ra suối và biến mất chỉ để lại một tiếng "Ùm". Ba Nha nghiêm mặt, thần thái nặng nề không nói gì. Ông ta đưa tay làm ám hiệu cho cả đội đi theo.

Rồi ông ta dẫn cả đội quay lại cái hõm nước phát ra tiếng "ùm" đó. Đứng lặng một lúc, ông ta chỉ tay xuống hõm nước rồi nói:
- Có phải các cậu nghe thấy tiếng ùm như có người nhảy xuống nước ở đây không?
- Đúng vậy bác ạ! – Thống trả lời. – sự việc này là như thế nào?
Ông Ba Nha thở dài, rồi chỉ tay ra cái mỏm đá mà chúng tôi đã thấy bóng ma nữ đó ngồi.
- Chắc các cậu nhìn thấy cái bóng đó ở kia phải không? Thôi chúng ta đi về.
Cả đội chúng tôi bám sau ông ta men theo bờ suối. Ông Ba Nha vừa đi vừa kể:
- Đó là oan hồn của cô gái năm nọ ở trong nhà Rông, đang đêm tự nhiên bỏ ra ngoài suối tự tử. Hẳn câu chuyện này người làng cũng đã kể cho các cậu rồi chứ?

Chúng tôi đáp rằng đã nghe qua câu chuyện đấy. Và hình như cô ta vốn ở cùng người chồng chưa cưới tại nhà Rông. Đêm đó không ai biết chuyện gì xảy ra. Nhưng sáng hôm sau người ta thấy chồng chết trên rừng, vợ bỏ mạng dưới suối cực kỳ quái lạ. Vợ chết không thấy xác, chồng chỉ còn lại bộ xương.

Ba Nha đăm chiêu như đang tưởng nhớ về một chuyện trong quá khứ:
- Đúng vậy, năm đó tôi cũng có trong những người đi lên rừng tìm cô ấy. Tôi là người đầu tiên phát hiện ra bộ quần áo trắng của cô ta nổi lập lờ trên suối. Chính là ở cái chỗ hõm nước mà các bạn vừa nhìn thấy.

Rồi ông ta nói tiếp rằng: ngay khi thấy bộ quần áo trắng đó, ông ta đã cùng một vài thanh niên bản khác lặn xuống cái hõm đó để tìm xác. Cái hõm đõ cũng không quá sâu, chỉ tầm 3 – 4 mét. Người bình thường chỉ cần lấy một hơi là có thể lặn xuống tận đáy. Ông ta và các thanh niên vốn là những tay bơi lội tài giỏi, những khúc sông lớn nước chảy xiết vài ba cây số còn bơi qua được. Vậy mà tất cả đều không tìm thấy xác. Rồi dân bản cử người canh xem xác có nổi lên không mà cũng không thấy tăm hơi. Chỉ biết rằng một thời gian sau đó, có rất nhiều chuyện kỳ quái xảy ra trên con suối này.

Có một hôm chỉ sau một đêm con suối đã trở nên đỏ ngầu như máu. Rồi có hôm cả suối đầy những cánh hoa hồng trôi. Hoa hồng vốn thường được cầm trên tay cô dâu khi làm lễ cưới. Cái hôm định mệnh của cặp vợ chồng trẻ đó người ta cũng thấy cô dâu cầm trên tay một đóa hoa hồng tuyệt đẹp. Rồi thỉnh thoảng có người đi qua suối vào ban đêm bỗng thấy có bóng trắng ngồi khóc tỉ tê trên phiên đá. Có kẻ bạo gan định đến hỏi thì cái bóng bỏ chạy rồi nhảy xuống hõm nước.

Tôi hỏi Ba Nha rằng ông đã gặp bóng ma nữ đó bao giờ chưa? Ba Nha trả lời cũng đã từng nhìn thấy một vài lần. Nhưng ông ta cứ mặc kệ cho nó khóc lóc, tiếp tục đi thẳng về nhà. Ông còn nói rằng có lần còn thấy nó đi theo sau ông đến mãi tận gần hết con suối mới thôi. Nhưng có điều nó không làm gì cả, cũng không trêu ghẹo ông. Ba Nha nói rằng chắc con ma nhận ra mình là người đã vớt quần áo của nó và còn lặn tìm nên nó quý mà không trêu gẹo.

Ông ta còn giải thích với chúng tôi rằng. Phàm người nào tự tử thường trước khi chết đều mang nhiều nỗi uất hận trên đời, như là vì tình, bị phụ bạc ... Lúc chết đi rồi nỗi uất hận đó cũng không tiêu tan nên không thể siêu sinh. Linh hồn vẫn còn luẩn quẩn nơi dương thế. Lại thêm chết vào giờ thiêng, xác không thể tìm thấy để người nhà còn chôn cất và thờ cúng nên trở thành con Ma dữ. Hay nói đúng hơn là trở thành Quỷ. Quỷ vốn thiêng và dữ, cao hẳn hơn Ma một bậc. Nhất là Quỷ nữ. Tốt nhất nếu gặp quỷ thì nên cao chạy xa bay, tìm nơi mà ẩn nấp.

Lời Ba Nha làm tôi nhớ lại đến cái trò Cầu cơ mà bọn trẻ nông thôn hay chơi. Trên bàn cầu cơ có bốn ô lớn ghi là: Thánh, Thần, Ma, Quỷ. Nếu con cơ chạy vào Thánh, Thần, Ma thì không sao, chơi tiếp. Còn nếu cơ chạy vào Quỷ thì phải lật úp bàn cầu cơ và bỏ chạy ngay ra khỏi nơi ấy. Nhưng đó là lời của lũ trẻ con, vốn dĩ tôi cũng không tin lắm.

Cuối con suối là một dải nương sắn nhấp nhô theo triền đồi. Ở đó có một con đường nhỏ. Chúng tôi bám sau Ba Nha theo con đường đấy một đoạn thì đã ra đến đường lớn. Chỗ đó tôi đã nhận ra, cách nhà Rông chúng tôi chỉ hơn trăm mét. Tôi nói với Ba Nha rằng đến chỗ này chúng tôi đã có thể tự về nhà được rồi. Ba Nha chia tay chúng tôi, ông ta còn dặn chúng tôi nếu mai có thời gian sang nhà ông ta ở trong bản chơi. Nay lên rẫy, ông có hái ít Thanh Long về làm quà cho chúng tôi.

Về đến cổng nhà Rông lúc đó đã là 3h đêm. Nhà Rông vẫn im lìm, tĩnh lặng đến rợn người. Bóng tối bao phủ lên ngôi nhà im ắng càng làm tăng thêm vẻ ngụy dị, khác thường của nó. Tôi vốn sợ sự im lặng, nhất là im lặng như thế này. Sự im lặng trước một cơn bão.
Bước qua cánh cổng bên ngoài chúng tôi tiến vào sân của ngôi nhà. Thống vẫn đi sau cùng để đóng cổng nhà Rông. Đến trước nhà Rông thì Tùng đi ra nhà vệ sinh, còn Hiệp lao ngay vào bếp để uống nước. Chỉ còn tôi và Bằng bước lên cầu thang, lên tầng hai của căn nhà. Bằng tay vẫn cầm đèn pin soi cho tôi mở khóa cửa để vào phòng. Khóa cửa vẫn nguyên vẹn không hề di chuyển. "Vậy yên tâm là không có trộm rồi"- tôi thầm nghĩ bụng.

Cánh cửa gỗ của căn gác trên tầng hai nhà Rông kẽo kẹt mở ra. Căn phòng đen ngòm, tối thui như mực. Công tắc đèn nằm ở phía trong, chính giữa căn phòng. Cần phải nói thêm rằng, đèn ở phòng chỉ là một ống đèn tuýp do chúng tôi tự dòng, đấu điện lên mắc. Bóng đèn được treo giữa căn phòng, điện được dẫn từ dưới lên. Điện nước của đội hai đều do một tay Bằng lo liệu hết. Có vẻ cậu ta thích hợp với những việc tay chân. Kết quả học tập trên trường lớp của cậu ta khá tệ. Tôi biết điều đó vì một số đồng nghiệp của tôi đã giảng dạy lớp của Bằng. Tôi từng vài lần gặng hỏi tại sao lại vào học trường Ngân Hàng nhưng cậu ta chỉ cười, chẳng chịu nói. Có lẽ đó là bí mật lớn nhất của cậu ta, tôi cũng không truy vấn thêm nữa.

Tôi là người bước vào căn phòng đầu tiên. Bằng đứng sau tôi, tay cầm đen pin soi vào công tắc đèn nằm gần bậu cửa sổ. Tôi vội sải hai bước vào giữa căn phòng, tay với về phía công tắc để chuẩn bị bật.

Đúng vào lúc tay gần chạm đến công tắc thì tôi bỗng cảm thấy hình như đang dẫm vào một thứ gì đó nhầy nhầy, trơn tuột duới chân. "Uỵch" một tiếng thật to, tôi thấy mình quay cuồng rồi hai chân tung lên trời, mông nện xuống đất. Tôi đã bị trượt ngã một cú điếng người. Cố nén đau tôi chống hai tay định đứng lên thì thấy tay mình dính đầy cái thứ nước nhầy nhầy trơn tuột. Lúc đó đèn vẫn chưa được bật, căn phòng vẫn tối om nên tôi không thể xác định được đó là thứ gì.
Theo thói quen tôi định đưa tay sát mặt để ngửi thì bỗng nghe thấy có tiếng xoàn xoạt, rồi có một âm thanh quái đản phát ra: "phì, phì, phì ...". Cái âm thanh đó cùng với tiếng loạt xoạt như đang tiến rất gần về phía tôi. Cái gì vậy?

Tôi còn chưa kịp hiểu cái đó là gì, thì chợt thấy ánh đèn pin của Bằng chớp lên. Rồi gần như đồng thời, Bằng dùng tay còn lại chụp ngay lấy một cái balo của ai đó trong đội đang vứt lăn lóc trước cửa phòng, ném thẳng vào tôi ...

"Thằng này uống nhiều quá nên say rồi chắc?" – tôi thầm nghĩ. "Bụp!" cái balo không phải nhằm vào tôi mà nhằm vào khoảng trống trước mặt tôi. Tôi nghe thấy "bịch" một tiếng rồi cái balo sau khi chạm đất trước mặt tôi theo đà văng tít xuống cuối phòng. Hình như có cái gì đó cũng văng theo chiếc balo. Bằng vụt bước vào giữa phòng. Một tay với công tắc bật điện, một tay tóm lấy vai của tôi mà kéo ngược lại phía sau. Bằng quả nhiên có sức khỏe thật phi thường.

Tôi là người Hà Nội, ăn uống không thiếu nên cũng nặng tầm 67 – 68 cân. Vậy mà cậu ta chụp lấy tôi, lôi mạnh ra phía sau như lôi một đứa trẻ. Cú kéo của cậu ta mạnh đến nỗi tôi súyt bắn ra khỏi bậu cửa. May mà có một cánh tay đưa ra đỡ phía sau lưng tôi. Đó là Thống, còn có cả Tùng và Hiệp đứng ngay phía sau. Thì ra tất cả nghe thấy tiếng tôi ngã trên nhà, nên đều vội vàng chạy lên xem chuyện gì xảy ra.

Đèn đã được bật, Bằng đứng sừng sững giữa phòng, chắn ngang trước mặt chúng tôi. Tùng và Hiệp định bước vào xem chuyện gì xảy ra thì bỗng thấy Bằng quát to:
- Dừng lại, đừng ai bước vào phòng!

Lúc đó tôi mới định thần nhìn kỹ mọi thứ. Căn phòng như bị xáo tung lên, balo, quần áo ngổn ngang khắp nơi. Đồ đạc cá nhân cũng tung tóe, mỗi nơi một thứ. Nhưng điều làm cả đội kinh hãi nhất đó chính là cái chất nhầy nhầy loang lổ, tung tóe khắp căn phòng. Ở dưới nền nhà, cái thứ nhầy nhựa đó đọng lại thành vũng lớn. Một vũng màu đỏ ... Vũng Máu!

Bất giác tôi cũng đưa hai bàn tay lên. Hai bàn tay tôi dính đầy máu, mùi máu tanh lòm lúc đó sộc thẳng vào mũi khiến tôi lợm giọng. Quần áo tôi cũng dính đầy máu sau cú ngã đó. Hẳn là tôi đã dẫm vào chính giữa vũng màu nên mới trượt ngã như thế.

Lúc đó Bằng vẫn đứng sừng sững giữa nhà, mắt nhìn chằm chằm vào góc phòng, phía có cái balo bị ném vào. Cả đội chúng tôi cũng hướng mắt nhìn theo. Trong góc phòng chiếc Balo dường như động đậy. Không phải, mà là có cái gì đó phía dưới chiếc Balo động đậy nên làm nó lay chuyển.

"Phì, Phì" ... một con rắn mầu xám chì to bằng cổ tay, dài khoảng gần hai mét trườn từ phía sau chiếc Balo ra. Con rắn tiến về phía Bằng. Gần đến nơi nó đột nhiên ngóc cổ lên khoảng nửa mét, hai mang bành ra, lưỡi thè lè thụt, ra thụt vào trông thật hãi hùng. Hổ Mang Chì, loài rắn cực độc đó tôi có biết, chỉ có giống Hổ mang mới có thể bành ra được như vậy.

Thì ra tiếng phì phì tôi nghe được lúc ngã chính là tiếng phát ra từ con rắn. Bằng nghe được âm thanh đó đã đoán ra được đó là một con rắn hổ mang. Cậu ta nhanh tay ném thẳng cái balo về hướng phát ra âm thanh đó. Chiếc balo đập trúng con Hổ mang, văng vào góc. Tôi đã thoát được một cú mổ của con độc xà đó. Đây là lần thứ nhất cậu ta cứu tôi.

Con Hổ mang ngóc đầu, bành mang như đang trực nhảy vào tấn công Bằng. Đúng lúc đó tôi thấy cậu ta trùng chân xuống, thân mình hạ thấp, hai cánh tay dang ra hết cỡ. Hai bàn tay Bằng cùng lúc đó ngoe ngoẩy như người đang múa. Quả thực động tác ấy của cậu ta rất hiệu quả. Con rắn đang hùng hổ xông tới bỗng nhiên khựng lại, đầu ngả ra phía sau, miệng vẫn phun phì phì.

Hồi nhỏ tôi cũng vốn ham võ nghệ, gia đình chiều tôi nên cho tôi đi học võ. Anh tôi vác tôi đi lên một lò võ thuộc phái Thiếu Lâm Hồng Gia ở tận Quán Thánh để học. Sau mấy năm học tuy võ nghệ chẳng lên nhưng tôi lại nhớ được các tên, các thế võ. Có thể nói là lý thuyết của võ thì tôi học rất tốt, còn đánh đấm thì dở tệ. Có thể do tôi có cái khả năng học lý thuyết như vậy nên sau này tôi mới trở thành một giảng viên. Hàng ngày vẫn luôn nói lý thuyết suông trên lớp. Chỉ cần nhìn thân pháp di chuyển, bộ tấn và động tác tay của Bằng, tôi nhận ra ngay cậu ta hẳn phải là một cao thủ võ thuật.

Động tác hạ thấp trọng tâm, hai tay dang rộng chính là mô phỏng động tác dang cánh của con chim đại bàng. Tục vẫn gọi là chiêu "Đại bàng triển dực". Tại sao hắn lại dùng chiêu này để đối phó với con rắn? Sau này nghe Bằng giải thích tôi mới hiểu được rằng: Đại Bàng vốn là khắc tinh của rắn. Đại bàng chuyên bắt rắn ăn thịt. Con rắn bò ở dưới đất, thấy trên đầu mình có cái bóng chim đại bàng dang cánh là hoảng sợ, phải tìm cách lẩn trốn thật nhanh. Nay con rắn thấy cậu ta mô phỏng động tác của đại bàng nêu cũng phải có phần úy kỵ mà không dám tấn công nữa.

Bằng và con rắn hai bên gườm gườm nhau một lúc. Rồi bỗng thấy Bằng thò một chân ra phía trước mặt con rắn rất hớ hênh. Cả đội tái mặt không hiểu hắn định làm gì? Con rắn lúc đó thấy thời cơ đã đến vội lao ra bổ thẳng vào chân Bằng một cú hiểm hóc. Đột nhiên khi đó chân của Bằng co gập lại phía sau nhanh như chớp. Thì ra cậu ta đứng trụ vững trên một chân, đưa mũi chân kia đưa ra làm mồi nhử, đợi khi con rắn bổ xuống thì co phần bắp vế chân lại. Cái thế đứng tấn co một chân kia tưởng như đơn giản nhưng lại uẩn súc vô cùng. Vì nội lực không dồi dào, không thể nào đứng vững được trên một chân, trong khi chân kia đang phải vận động mạnh. Đó chính là thế tấn trác tuyệt trong công phu Thiếu Lâm chính tông: "Kim Kê Độc Lập" (Gà vàng đứng một chân).

Con rắn bổ hụt một cú, đầu chúi xuống đất. Thừa cơ lúc đó, cánh tay phải của Bằng vung rộng ra thành một hình vòng cung từ trên xuống dưới, năm ngón tay chụm lại như một cái mỏ chim, bổ thẳng vào đầu con rắn. Nói thì lâu nhưng thi triển chỉ trong chớp mắt. Hắn vừa thi triển tiếp một chiêu "Điêu Ưng Phốc Thố" (Chim ưng mổ thỏ) đã đánh trúng đầu con rắn. Bị một cú choáng váng, đầu con rắn đập bẹp xuống đất. Chưa kịp ngóc dậy, thì tay của Bằng đã chuyển từ chụm thành xòe cả năm ngón mà đè chặt đầu con rắn Hổ mang xuống đất. "Đại Thủ Ấn" – chính công phu này năm xưa đức Phật Tổ Như Lai đã dùng bàn tay năm ngón của mình mà đè chặt Tôn Ngộ Không xuống không thể cựa quậy.

Một tay đè chặt được con rắn xuống đất, Bằng dùng tay kia xốc ngược theo thân con rắn lên tới cổ rồi bóp chặt vào khớp miệng của nó. Con rắn đã nằm gọn trong tay cậu ta, miệng ngoác ra vì bị Bằng bóp chặt vào khớp má. Bằng quay lại chúng tôi cười hì hì:
- Đã xong! Giờ mọi người có thể vào nhà. Bừa bộn quá.

Nói rồi cậu ta nhờ Hiệp lấy một cái chén uống trà nhỏ, phủ một lớp nilong căng trên miệng chén. Tôi còn chưa kịp hiểu Bằng định làm gì thì thấy cậu ta nói:
- Thầy đã xem lấy nọc rắn bao giờ chưa?

Bằng cầm ngay cái miệng rắn đang há ngoác, đưa hai cái răng nanh đang chĩa ra cho khợp vào miệng chén. Sau khi hai chiếc răng nanh con rắn đâm thủng miếng nilong trên miệng chén tôi thấy có một chất lỏng vàng nhạt chảy ra. Đó là nọc rắn. Được một chút xíu, thì Bằng nhấc con rắn ra, một tay cầm đầu con rắn, một cầm con dao nhỏ đưa vào miệng rắn. "Pặc, pặc", hai chiếc răng nanh của con Hổ mang đã bị cậu ta nhổ bay.

- Loài rắn có nhiều răng, nhưng chỉ có hai chiếc răng nanh là có thể tiết ra tuyến độc. Nay mất nanh rồi thì chỉ như con chuột thôi. – Bằng vừa nói vừa cười với tôi - Để em tạm thời treo nó lên, mai cả đội ta sẽ có thêm món ăn mới. Thịt rắn băm, cuốn với lá lột nướng ăn ngon lắm thầy ạ! May mà hôm nay thầy gặp phải con Hổ mang đấy. Nếu mà gặp phải con Cạp nong, Cạp nia thì cực kỳ nguy hiểm.

Sau đó cậu giải thích cho tôi rằng: giống Hổ mang tuy độc và hung dữ nhưng lại dễ bắt. Con hổ mang khi muốn tấn công thì phải phồng mang trợn má, đầu ngóc cao. Lúc lâm trận, trước khi tấn công mà báo hiệu cho đối thủ biết là sắp tấn công thì hẳn sẽ dễ bị bắt bài. Khi tấn công, ngón đòn của Hổ mang chỉ là bổ vòng cung từ trên xuống dưới. Nên thực chất chỉ cần nhanh chóng rút tay hoặc rút chân lại. Còn con Cạp nia vốn nằm cuộn tròn, khi tấn công cơ thể nó như một chiếc lò xo đàn hồi mà bắn thẳng ra phía trước. Thậm chí còn có thể phi lên cao tận mặt. Những ngón đòn phi như mũi tên đó khó tránh hơn nhiều so với đòn bổ vòng cung của Hổ mang.

Sao lúc đó tôi thấy trước mắt tôi Bằng không còn là một sinh viên Ngân hàng nữa, mà là một gã đổ tể chuyên nghiệp. Hôm sau, khi nhìn Bằng cắt tiết, lột da, móc mật, moi tim con rắn thì tôi không còn cái cảm giác ấy nữa rồi. Phải nói để độc giả hiểu rõ hơn là tôi không còn cảm giác phân vân, nghi ngờ gì nữa. Vì hắn chính xác là một tên đồ tể.

Vụ con rắn đã được giải quyết, nhưng còn nhiều chuyện nữa chưa xong. Rõ ràng là căn phòng của chúng tôi đã bị lục tung. Máu me vương vãi bắn đầy nhà, từ dưới sàn lên tận trên tường. Khi chúng tôi đi kiểm tra đồ đạc thì còn phát hiện thêm: Quần áo, balo, túi xách, chăn màn của chúng tôi đều đã rách nát. Không phải là bị cắt, vì vết cắt dễ nhận ra, mà là bị xé nát, cũng có thể là bị cắn nát. Vì vết cắn xé đều nham nhở, không thành đường lối. Nhưng chúng tôi không hề mất thứ gì. Tư trang, tiền bạc, giấy tờ, ví, điện thoại ... vẫn còn nguyên.

Phòng của chúng tôi đã bị lục lọi như thể để tìm một cái gì đó. Nhưng không phải là người lục, dường như bị một con vật nào đó lục lọi. Chợt Thống ngồi thụp xuống quan sát kỹ sàn nhà, rồi qua nhìn phía một cái cửa sổ nằm trong góc nhà. Nhà Rông của chúng tôi ở tầng hai có 4 cửa sổ, hai cửa hướng ra phía trước sân, hai cửa phía sau hướng ra khu rừng sau nhà. Cửa sổ mà Thống đang chăm chú quan sát là cửa phía sau, nằm trong góc nhà.
- Mọi người qua đây! – Thống gọi.

Chúng tôi chạy đến đứng xung quanh Thống. Cậu ta bật đèn pin cho rõ hơn, soi đèn vào bức tường phía dưới cửa sổ và nói:
- Có thấy dấu vết này không, đây cũng là vết máu, nhưng không chỉ là máu bắn ra, mà là một vết chân dính máu.

Quả thực ở dưới của sổ có vài vết chân khá to và rõ ràng vì dính máu. Tùng quan sát một chút rồi đưa ra nhận xét:
- Đây là vết chân động vật! có thể là Chó, chồn, cáo, sói gì đó! Con này cũng khá to đây.

Tôi nhìn vào dấu vết đó trên tường thì thấy đúng như vậy. Tôi tuy không am tường nhiều về vết chân các loài động vật. Nhưng vết chân giống na ná như này thì tôi biết. Vết chân đó giống như cái Logo của một hãng thời trang nổi tiếng: Jack Wolfskin. Ở trường tôi phụ trách giảng dạy hai môn, trong đó có một môn là Hành vi người tiêu dùng thuộc lĩnh vực Marketing nên tôi biết rất nhiều Logo của các công ty nổi tiếng. Wolfskin là vết chân chó sói, nên Tùng kết luận như vậy cũng hợp lý. Dấu vết để lại giống như là con vật đó đã đạp chân vào tường để nhảy hoặc đu lên cửa sổ.

- Chắc là có con chồn, con cáo nào lên phòng chúng ta cắn xé đồ đạc, rồi tha cả một con rắn Hổ Mang theo lên đây. – Tôi nói, nhưng bản thân cũng không tin vào lời mình lắm.
Thứ nhất là cửa sổ phòng phòng chúng tôi có chấn song sắt, đan khá dày. Có lẽ chỉ vừa cho một con mèo chui vào. Hơn nữa đây là tầng hai, mèo có thể trèo lên từ dưới đất qua cửa sổ chứ chó hay cáo, chồn thì không thể.

- Xuống dưới sân sau! – Thống nói, rồi đứng dậy cầm đèn pin theo. – Nếu con vật đó đi bằng đường cửa sổ, mà ở đây có vết chân thì ở dưới cửa sổ cũng phải có vết chân. Chúng ta xuống dưới xem sao.

Cả đội đi theo Thống xuống dưới nhà Rông, vòng ra phía sau nhà. Căn nhà Rông của chúng tôi ở nền nhà phía dưới được láng bê tông. Phần bê tông lớn hơn căn nhà một chút. Có thể nói là nếu đi vòng quanh ngay dưới chân nhà thì vẫn là phần được đổ bê tông. Hết phần bê tông mới ra đến khoảng sân đất.

Ngay khi đứng dưới cái cửa sổ phía sau nhà đó, chúng tôi nhanh chóng nhìn ra được những vết chân vẫn còn dính máu in hằn trên nền bê tông. Đúng như Thống đã phán đoán.

Nhưng chúng không còn tin vào mắt mình nữa. Tất cả chết sững khi nhìn vào những vết chân đỏ lòm trên nền bê tông. Không ai nói với ai câu gì. Không có một lời giải thích và có lẽ không thể giải thích được. Những vết chân chúng tôi nhìn thấy rất rõ ràng, không phải chân chó. Mà là chân NGƯỜI. Dấu chân người đi đất, tôi thấy rõ vết năm ngón chân. Hàng vết chân người đó dẫn ra khu vườn sau nhà rồi nhạt dần về phía khu rừng ...

Tôi nói với Tùng đưa cho tôi xem điện thoại của cậu ta. Mở điện thoại của Tùng, tôi tìm dễ dàng tìm thấy những bức ảnh chụp lại hiện trường hôm cái xác trong quan tài mất tích. Tôi xem kỹ trong những bức ảnh đó có bức nào chụp được vết chân để lại của cái xác không? Tùng có chụp lại, tôi thấy vài bức. Chọn một bức rõ nhất, phóng to lên xem vết chân của cái xác tướng quân Võ Chính. Tôi giật mình. Những vết chân đó rất giống những vết chân máu in trên nền nhà bê tông ngay trước mắt tôi lúc này đây. Phải chăng cái xác đó đã quay lại ?

4h30' Trời lúc này cũng đã bắt đầu tảng sáng. Cái ánh nắng đã bắt đầu le lói xua tan đi sự âm u, kỳ bí của bóng đêm. Khi bình minh lên con người cũng sẽ trở nên sáng suốt hơn, bình tĩnh hơn. Lúc này trong đầu tôi đang chắp nối và suy diễn về mọi thứ đã xảy ra. Tôi không thể có được một lời giải thích hợp lý. Và tôi đành phải chấp nhận một phương án phi lý nhất. Tôi nói với cả đội:

- Cái xác đó đã quay lại, tướng quân Võ Chính đã trở lại thăm chúng ta. Cái xác đó đi ra từ khu rừng, đến phía sau nhà Rông. Rồi nó biến thành một con cáo, chồn ... gì đó, nhảy theo cửa sổ vào nhà Rông của chúng ta. Cái xác đã lục tung mọi thứ, cắn, xé nát hết đồ của chúng ta rồi bỏ về mà không quên để lại một con rắn Hổ Mang. Chắc hẳn cái xác đó hận chúng ta lắm nên mới trả thù như vậy.

Ngập ngừng một chút, Thống cất tiếng nói:
- Em không nghĩ nó muốn trả thù. Có lẽ nó đang tìm kiếm một thứ gì đó nên mới lục tung đồ của chúng ta lên.

Lời của Thống nói từ trước đến nay vẫn luôn có lý. Một cái lý trong muôn vàn sự vô lý.

Hồi thứ 6: CỬU VĨ HỒ LY

Trời cũng gần sáng, Bằng đã giải quyết xong con rắn. Cậu ta đang lúi húi chuẩn bị lột da con Hổ mang xấu số. Bằng tuyên bố hôm nay cả đội sẽ có thêm vài ba món mới. Hình như Bằng đang rất hứng thú với những việc đánh đấm, mổ xẻ, đâm chọc kiểu như này. Tôi thấy ở cậu ta có một bản năng rất lớn, bản năng của một con vật săn mồi, một con Sói.

Việc của chúng tôi là dọn dẹp lại căn gác trên ngôi nhà Rông. Tùng chạy xuống sân bê một chậu nước lên để chuẩn bị lau sàn nhà đầy máu me nhớp nháp. Còn tôi và và Hiệp sẽ thu dọn lại đống balo, quần áo, chăn mà đã bị xé nát tả tơi. Chợt Thống ra hiệu cho chúng tôi ngừng lại.

- Sao vậy Thống? – tôi hỏi.
- Thầy cho em một lát, để em dọn sau cũng được.

Nói rồi cậu ta bước một cách thận trọng vào phòng. Thống trầm ngâm ngồi xuống bên vũng máu giữa sàn nhà. Thống quan sát tỉ mỉ đám máu khô đó rồi cậu ta lấy tay quẹt một chút máu đưa lên mũi ngửi. Ánh mắt của Thống chợt thoáng lên một tia sáng. Rồi cậu ta tiếp tục bới từng cái quần, cái áo, xem từng chiếc balo, từng manh chiếu, mảnh chăn ... Cậu ta xem xét tỉ mỉ như một điều tra viên đang khám nghiệm hiện trường.

- Thôi dọn đi rồi còn chuẩn bị ăn sáng! – Thống vừa đứng dậy vừa nói, có vẻ như công việc khám xét đã kết thúc.

Lau dọn sạch sẽ lại căn gác, cả đội đun nước nấu mỳ tôm ăn. Đây là lần đâu tiên tôi ăn trọn vẹn hai gói mỳ chua cay. Thống, Tùng, Hiệp cũng đều như vậy, chỉ có Bằng thì không. Vì cậu ta ăn hẳn những 3 bát. Mỳ là món mà tôi không ưa chút nào. Ăn vào sẽ rất nóng người và có thể gây ra hiện tượng táo bón. Nhưng hôm nay không hiểu sao từng sợ mỳ tôm lại ngon đến thế. Chắc hẳn do cả đêm hôm qua chúng tôi đã phải đi bộ gần chục cây số và chiến đấu với một con rắn. Hầu như tất cả đội đều lả đi vì mệt và vì đói.

Một ấm trà nóng như thường lệ lại được Hiệp bưng lên sau khi ăn. Cậu ta ít tuổi nhất đội, việc pha trà đều do cậu ta đảm nhận. Chậm rãi nhấp một ngụm trà trên miệng, Thống cất lời:

- Cả đội cứ yên tâm ăn uống, ngủ nghỉ bình thường nhé! Lên đặt lung nghỉ chút đi. Nay đi làm muộn cũng được. Đợi nữ từ bên đội một trở về rồi đi luôn thể.

Tôi vội hỏi Thống:

- Sao mà yên tâm được sau khi những chuyện này xảy ra? Mà tại sao nó lại xảy ra với chúng ta?
- Tại sao thì em chưa biết. Nhưng ít nhất em biết được một chút nó xảy ra như thế nào? – Thống trả lời tôi nhưng cũng là để trấn an tinh thần cả đội.
- Vậy em biết gì về chuyện này vậy Thống?
- Ít ra có vài thứ em biết được, thầy ạ! Thứ nhất: máu không phải là máu người.

Rồi Thống giải thích cho tôi và cả đội biết tại sao cậu ta lại chắc chắn về điều đó. Thống nói cậu ta là thằng rất thích ăn tiết canh, các loại tiết canh. Cứ con nào có thể đánh tiết canh thì cậu ta nhất định sẽ phải thử.

- Thế còn máu người? Ừ thì cho rằng em biết mùi vị máu của rất nhiều động vật đi. Vậy còn người thì sao? Đừng nói là em đã từng ăn tiết canh người đấy nhé! – Tôi tò mò vặn hỏi lại cậu ta.

- Tiết canh người thì em chưa ăn. – Thống vừa trả lời vừa cười. – Nhưng hồi bé có phải lúc chảy máu tay, bọn trẻ con chúng ta hay có cái trò đưa lên mồm mút để cầm máu phải không? Em sống ở trên núi đồi, chạy nhảy ngã sứt tay chân thường xuyên nên mút máu tay nhiều lắm rồi. Thầy chắc cũng vậy, nhưng thầy không để đến mùi vị của nó thôi.

Thống vẫn luôn có lý, ít nhất là đến giờ tôi vẫn không thể nào bẻ lại được cậu ta. Ngừng một lúc rồi Thống nói tiếp:

- Còn một điều nữa. Đúng là quần áo, chăn màn chúng ta đã bị xé nát, không phải là bị cắt. Nhưng có điều là mấy chiếc balo chỉ bẩn vì vấy máu chứ không bị rách nát. Miệng balo lại mở ra. Khi chúng ta đi khỏi nhà, quần áo để trong balo đều được đóng kín. Giả sử có một con Cáo, chồn vào nhà chúng ta. Nếu nó muốn xé mọi thứ thì nó sẽ phải xé tung cái balo ra trước rồi mới đến mớ quần áo.
Nhấp một ngụm trà nóng như là để một chút thời gian cho cả đội suy nghĩ. Rồi Thống nói tiếp, giọng chắc nịch:

- Có thể nói tóm gọn dễ hiểu hơn là đồ đạc của chúng ta đã bị con quái đó mở ra, từng chiếc balo một, lôi từng bộ quần áo ra rồi mới xé vụn. Điều này không kỳ quái sao? Một con chồn, cáo nào đó mở hành lý để lấy từng món đồ ra cắn xé!

Lời cậu ta nói khiến tôi phải suy nghĩ. Nhưng tôi cũng nghĩ mà không ra, vì căn bản chẳng có chút manh mối nào cả. Mọi việc trước mắt vẫn cứ phải để xem như thế nào đã.

Quần áo và đồ đạc chúng tôi gần như đã hỏng hết. May mà đội nữ vẫn còn ở dưới đội một chưa về. Tôi gọi cho hai cô giáo để nhờ chạy ra chợ trung tầm gần đấy mua đồ dùng cá nhân cho đội. Cũng may chỉ là quần áo, màn chiếu ... đều là những thứ không đến nỗi đắt tiền lắm. Tham gia Mùa Hè Xanh chúng tôi đều chỉ mang quần áo cũ để lao động, xong chiến dịch là sẽ bỏ đi luôn.

Ngày hôm đó chúng tôi vẫn đi làm bình thường như mọi khi. Buổi chiều hôm đó cả đội chúng tôi có thêm món chả Rắn băm và món cháo rắn để thay đổi khẩu vị. Đích than Bằng vào bếp để chế biến hai món ăn này. Những ngày tiếp theo cũng không có gì xảy ra. Mọi thứ trở lại nếp sinh hoạt như thường ngày.

Tuy nhiên chúng tôi đã bắt đầu cẩn thận hơn và để ý đến những việc xung quanh khu nhà. Sau bữa cơm chiều hôm đó, cả nhóm lại ngồi lại với nhau. Thống là người đầu tiên cất lời:
- Mấy ngày qua mọi người có để ý điều gì lạ không?

Cả đội trầm ngâm không đáp lời. Bản thân tôi cũng chưa nhận thấy có điều gì lạ. Im lặng một lúc rồi Thống lại nói tiếp:

- Chúng ta có thể đang bị theo dõi. Mọi việc làm của chúng ta đang bị giám sát.
- Ai vậy? chúng ta bị ai theo dõi vậy? – Tôi hỏi Thống lòng không khỏi cảm thấy bất ngờ.
- Một người trung niên, tầm thước, khuôn mặt luôn đăm chiêu khó gần. Em đã quan sát người này. Mỗi ngày người này đều đi qua khu nhà của chúng ta vài ba lần. Có những lần ông ta dừng xe lại và quan sát căn nhà của chúng ta từ xa. Một lần ông ta còn lúi húi ghi chép gì đó vào một cuốn sổ nhỏ.

Tôi khá bất ngờ về những gì Thống quan sát được. Tôi thắc mắc hỏi cậu ta xem là sao mà cậu ta có thể phát hiện ra người đàn ông đó. Tôi cũng để ý nhưng không thể nhận ra. Thống nói là nếu chỉ đứng trong nhà nhìn ra thì không thể thấy được. Vì ông ta đứng ở chỗ khuất, lại đứng từ xa nhìn vào. Thống nói cậu ta phát hiện nhờ một lần tình cờ đi về muộn. Lúc đó trời đã chạng vạng tối, Thống không về sớm như thường lệ, cậu ta đi vào bản thăm hỏi vài ba hộ gia đình khó khan. Vừa để nắm bắt tin tức cũng là vừa để xem họ có cần đội Tình nguyện giúp đỡ gì không. Giúp đỡ đồng bào dân tộc nghèo khó cũng là một trong những nhiệm vụ của chúng tôi.

Trên đường trở về nhà Rông cậu ta nhìn thấy từ xa có một người đàn ông dựng một chiếc xe bên cạnh khóm tre bên vệ đường. Người đàn ông này dáng điệu nhấp nhỏm, đứng ngồi không yên. Ông ta luôn hướng mắt về phía khu nhà của chúng tôi, rồi có lúc đi đi lại lại như suy tính điều gì đó. Lúc Thống đi lại gần, chợt ông ta nhận ra cậu ta là đội trưởng đội Tình nguyện. Người đàn ông đó hơi thoáng có chút bất ngờ. Ông ta gật đầu chào và mỉm cười với Thống rồi lên xe đi thẳng vào trong bản, dáng điệu rất vội vàng.

- Ông ta sống trong bản, có mấy lần em đã gặp trong đó. Nhưng ông ta không phải là người gốc ở đây. Ông ta không phải người dân tộc Chăm trên này. – Thống chậm rãi nêu ra suy đoán của mình. – Người đàn ông đó có nhiều nét giống chúng ta. Nếu như em đoán không sai thì ông ta cũng là người Kinh như chúng ta. Ông ta từ dưới xuôi chuyển lên đây cư ngụ và sinh sống.

- Mai sẽ đến lượt Tùng và Hiệp làm công tác dân vận. Nhân việc đó Tùng và Hiệp sẽ qua hỏi thăm người dân về người đàn ông đó nhé. – Bằng nói. – Hỏi xem nhà ông ta ở đâu? Lai lịch ông ta thế nào? Từ đâu đến và hiện giờ đang làm việc gì? Tốt nhất là đưa theo 1 hoặc 2 bạn nữ đi cùng. Nữ vốn sẽ thuận lợi hơn nam giới khi hỏi thăm về thông tin của người khác.

Ngày hôm sau Tùng, Hiệp cùng với hai bạn nữ chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 1 nam và 1 nữ. Họ lập tức vào bản để dò hỏi về người đàn ông đó. Thông tin của hai nhóm thu được cũng không có gì là quan trọng. Người đàn ông đó tên là Khang. Ông ta đúng là không phải người ở đây. Cách đây 5 năm ông ta từ dưới xuôi lên để lập nghiệp. Quê gốc ông ta ở đâu thì không ai biết. Ông ta sống bằng nghề thu mua hoa quả và nông sản trên này rồi chuyển xuống dưới xuôi bán. Ông sống trên này một mình, không gia đình vợ con. Thi thoảng có những bữa ông ta biến mất cả tuần, cả tháng trời. Mọi người vẫn đồn là ông ta về thăm vợ con ở dưới xuôi. Dưới đó ông đã có gia đình đầy đủ. Còn tại sao ông ta lại bỏ vợ con lên đây ở một mình thì đó vẫn là một điều bí ẩn. Gọi là bí ẩn vì người bình thường chẳng ai làm như thế. Và chúng tôi đi đến kết luận rằng: có lẽ ông ta chỉ tò mò về chúng tôi chứ chẳng có gì khác. Đi Mùa hè xanh năm nào chúng tôi cũng bị nhiều đối tượng để ý. Những chuyện như vậy cũng không quá lạ. Nếu có một nhóm người nào đó tự nhiên xuất hiện ở địa bàn của các bạn trong một thời gian không ngắn thì các bạn có chú ý đến họ không?

Hôm trước đội một đã tổ chức tiệc liên hoan mời chúng tôi. Lần này đến lượt đội hai của tôi tổ chức để đáp lễ họ. Để chuẩn bị cho bữa tiệc Thống đã lên chợ trung tâm mua 7 con gà đem về, vừa là để chuẩn bị thết đãi đội một và khách mời. Cũng vừa là để nuôi rồi ăn dần trong suốt thời gian chúng tôi ở lại đây làm tình nguyện.

Bằng đã rào thành một khu nhốt gà ở cuối góc sân sau nhà Rông. Đàn gà được chúng tôi nuôi nhốt ở đó. Lịch hẹn liên hoan giao lưu hai đội đã được chốt vào chiều thứ 7. Khách mời cũng đã được thông báo. Cho đến chiều thứ 6 mọi việc vẫn diễn ra bình thường. Chiều hôm đó cả đội nghỉ sớm để chuẩn bị lấy sức cho ngày hôm sau, thứ 7. Sau bữa cơm Thống phân chia nhiệm vụ nấu nướng cho các bạn nữ. Tùng, Hiệp sẽ đảm nhiệm việc xách nước và nấu nước. Còn Bằng đương nhiên buổi sáng sẽ phải dậy sớm để cắt tiết gà. Có vẻ cậu ta luôn hào hứng với những công việc đâm chém.

Tối hôm đó chúng tôi đi nghỉ sớm. Trước khi đi ngủ, Bằng, Thống và tôi đi kiểm tra lại một lượt xung quanh khu nhà Rông. Không có gì lạ, chuồng gà cũng vẫn còn nguyên vẹn. Đồ đạc cũng vẫn ngăn nắp không hề xáo trộn. Đêm thứ sáu, trời đen như mực, không trăng không sao. Gió trên miền núi vẫn thổi thành từng cơn vù vù trên đầu chúng tôi. Cây cối xung quanh lay động xào xạc. Thỉnh thoảng có những cơn gió to làm ngọn cây rạp xuống. Nhìn từ xa giống như những cái bóng khổng lồ ngả nghiêng vẫy gọi. Mọi thứ vào ban đêm đều trở nên kỳ bí.

Cả ba chúng tôi tiến lại gần đoạn mương nước nơi đặt cỗ quan tài. Dưới mương nước cỗ quan tài vẫn nằm lặng lẽ ở đó. Một vài nhành cây chúng tôi phủ lên để nguy trang nay đã khô héo. "Chắc mai phải lấy thêm lá cây để phủ lên cho dày lên mới được"- tôi thầm nghĩ.

Lúc đó Bằng và Thống đã quay lại nhà Rông để chuẩn bị đi ngủ. Còn tôi vẫn nán lại một chút để có một khoảng thời gian và không gian riêng tư. Không phải là dành cho suy nghĩ, vì thực tình cho đến giờ tôi có nghĩ được gì đâu. Tôi cần sự riêng tư đó chỉ vì một lý do hết sức đơn giản: đi vệ sinh. Tôi chọn một lùm cây bụi thấp nhỏ gần cái mương nước.

Đúng vào cái lúc mọi thứ đã sẵn sang, đạn đã lên nòng chuẩn bị khai hỏa thì tôi chợt thấy một cái gì đó động đậy lào xào phía trước mặt tôi. Cách chỗ tôi đứng tầm 50 mét là một vạt cây bụi thấp nhưng um tùm rập rạp. Nếu đi tiếp nữa sẽ là cánh rừng mà chúng tôi hôm trước đã đi lạc vào. Tiếng động lào xào càng lúc càng to và gần. Tôi thấy rõ các khóm cây cũng rung động theo tiếng lào xào đó.

"Hẳn là một con gì đó đang rình mò quanh nhà của chúng tôi. Con vật đó chắc cũng không hề nhỏ." - Tôi nghĩ vậy.
- Bằng, Thống! quay lại đây, có cái gì đó này! – Tôi gọi với theo hai bạn sinh viên.

Bằng và Thống nghe thấy tôi gọi liền vội vã quay trở lại ngay.
- Có chuyện gì vậy thầy ? – Thống hỏi
- Có cái gì đó đang bò trong lùm cây trước mặt thì phải? Hình như là một con thú!

Rồi tất cả chúng tôi đều nhìn về phía đám bụi cây um tùm trước mặt. Tất cả đều sững sờ và kinh ngạc. Cách chúng tôi chừng 20 mét, trong một lùm cây bụi thấp lè tè chỉ tầm ngang lung, có hai chấm sáng đỏ to bằng miệng chén, đỏ rực ... Hai chấm sáng đó như đang nhìn chòng chọc vào chúng tôi. Thỉnh thoảng nó lại còn đong đưa sang trái, sang phải, đưa lên đưa xuống ...

- Này, có phải mắt con gì đó không? Mắt gì mà to và sáng thế? – tôi hỏi.
- Em cũng chưa nhìn thấy mắt con gì đỏ rực là lớn đến như này! Nếu mắt to như thế này thì người con đó chắc cũng phải cỡ như con Hổ. – Bằng đáp lời tôi.
- Hổ? ở đây làm gì có Hổ, Báo? Trước khi lên đây chúng ta đã khảo sát địa bàn trước rồi mà?
- Đúng là ở đây không có Hổ, Báo, cũng không có Gấu. Động vật to lớn nhất trong khu vực này theo em biết chỉ có ... - Thống ngập ngừng trả lời tôi.
- Là con gì vậy? – Tôi hỏi vội cậu ta, hy vọng đó không phải là một loài dã thú nguy hiểm.
- Là, là ... con NGƯỜI ! – Thống đáp.

Mắt người ? Tôi chưa bao giờ thấy mắt người nào lớn như vậy. Cũng chưa hề biết rằng mắt người trong đêm lại đỏ rực như hai hòn lửa đang xuất hiện trước mắt tôi.

Bằng vội cúi xuống. Cậu ta làm gì vậy? hay Bằng lại muốn làm liều rồi ? Tôi thấy Bằng vụt đứng lên, trong tay cầm một cục đá to bằng nửa cái cốc. Cậu ta vươn người rồi ném thẳng hòn đá về phía hai con mắt đỏ rực đó. Một cú ném thẳng và rất mạnh.

"Bịch!", có lẽ viên đá của Bằng đã trúng vào con thú đó. Đôi mắt đỏ rực đó tắt ngúm. Rồi tôi thấy lùm cây lay động dữ dội. Con thú hình như đã trúng thương, bị đau nên quằn quại quẫy. Rồi chúng tôi thấy nó có vẻ lùi dần ra xa khỏi đám bụi cậy đem ngòm. Tôi thở phào:
- Nó bỏ đi rồi! không hiểu là con thú gì vậy ?

Đúng vào lúc đó, bất chợt nổi lên giữa khung trời tĩnh mịch một âm thanh "Khục, khục" trầm đục. Rồi ngay sau đó một tràng cười thé thé mạn rợ cất lên phá tan không gian tĩnh lặng của đêm tối: "khà khà khà ... khà khà khà ...!". Rồi tiếng cười đó lại chuyển thành những tiếng gầm gừ: "Grừ Grừ Grào ... Hừ hừ hờ hờ!". Những âm thanh quái dị liên tục vọng lên trong đêm tối, rồi từ từ bé lại và mất hút trong mà đêm tĩnh lẵng của núi rừng Tây Nguyên.

- Cái gì vậy ? đó là tiếng gì vậy ? – tôi vội hỏi Bằng và Thống.
- Em cũng chưa nghe thấy tiếng đó bao giờ! Tiếng đó vừa giống tiếng thú hoang, nhưng cũng vừa giống tiếng Người. – Thống đáp.
- Thầy có nghe thấy con vật đó cười không ? – Bằng hỏi tôi. – Tiếng cười đó the thé như thể muốn nhạo báng chúng ta. Nhưng có lẽ em đã ném trúng, nó đã bỏ đi rồi. Để sáng ngày mai em qua đó xem dấu vết nó là con gì?

Đêm tối lại trở về tĩnh lặng. Tôi và hai bạn sinh viên lặng lẽ trở về nhà Rông mà lòng vẫn phấp phỏm hồ nghi. Đến lúc đặt lưng xuống ngủ, cứ mỗi lẫn nhắm mắt lại thì hình ảnh hai con mắt đỏ rực đó lại hiện ra. Rồi tiếng cười the thé quỷ mị đó lại vang lên trong đầu tôi. Có phải đó chính là con quái đã thả rắn vào nhà Rông của chúng tôi hay không ? ... Quá mệt mỏi, tôi thiếp đi vào giấc ngủ lúc nào không biết.

..............

- Thầy! thầy! dậy ngay đi thầy!
Tôi nghe thấy tiếng người đang lay gọi tôi hết sức khẩn cấp. Choàng tỉnh, tôi nhận ran gay đó là Bằng. Liếc nhìn đồng hồ tôi thấy mới 5h kém. Tôi vội hỏi Bằng:
- Có việc gì vậy Bằng? vẫn còn sớm mà ?
- Thầy đi theo em xuống dưới nhà, đêm qua đã có chuyện xảy ra rồi.

Tôi vội vàng đứng dậy theo Bằng xuống phía dưới nhà. Khi đó cả đội vẫn còn đang chìm trong giấc ngủ. Bằng dẫn tôi ra thẳng sân sau, nơi có khu chuồng nhốt gà. Đến nơi tôi đã thấy Thống ở đó. Thống đứng lặng người như một bức tượng, vẻ mặt cực kỳ căng thẳng. Hẳn cậu ta đang suy nghĩ rất nhiều về một điều gì đó.
- Có chuyện gì sao? Thống ! – tôi cất tiếng hỏi.

Thống không trả lời mà ra hiệu cho tôi tiến lại gần chuồng gà rồi chỉ vào phía bên trong chuồng. Phía trong chuồng gà là một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt tôi. Đàn gà chúng tôi mua đã không còn một con. Hay nói đúng hơn, chúng vẫn đấy nhưng không còn một con nào sống sót. Cả đàn gà 7 con đã bị giết sạch, không phải là bị ăn thịt, mà là bị xé thịt. Từng mảng chân gà, đầu gà văng tứ tung. Ruột gan, tim phổi của chúng rải khắp mặt đất trong chuồng gà. Máu me vương vãi khắp nơi ...

- Gà đã bị giết hết rồi! – Thống chậm rãi nói.
- Liệu có phải bị chồn, cáo ăn thịt không? – Tôi hỏi.
- Không thầy ạ! Em đã xem kỹ rồi. Chúng bị xét nát tét ra, tim gan, ruột, phổi ... cũng bị moi ra vất tứ tung. Nhưng không phải bị ăn, mà là bị phân thây. Còn điều nữa, thầy nhìn kỹ trên mặt đất xem. – Nói rồi Thống chỉ tay về phía chuồng gà.
Tôi vội nhìn theo tay của Thống và chợt nhận ra một điều nữa còn kinh khủng hơn. Trên mặt đất, lẫn với đám tim gan, lông lá của gà còn có những đám lông ngắn màu vàng đục pha lẫn màu đỏ sẫm. Nhìn đám lông đó giống như lông của loài chó hay cáo hơn.

Rồi Thống lại chỉ vào những đám màu đen dài thành vệt trên mặt đất. Tôi căng mắt ra nhìn kỹ rồi như không còn tin vào mắt mình nữa. Tôi lắp bắp hỏi Thống:
- Cái này hình như là, là ...
- Tóc người thầy ạ! Đó là đám tóc rối của người.

Cái chuồng gà của chúng tôi giờ đây rõ ràng đã trở thành một bãi chiến trường lẫn lộn giữa gà, chồn cáo và người. Rồi Bằng nói với tôi rằng: sáng sớm nay cậu ta dậy sớm định ra chuồng bắt gà cắt tiết để chiều liên hoan giao lưu hai đội. Khi ra đến nơi thì thấy cả đàn gà đã bị xé nát, thây gà vương vãi tứ tung. Rồi Bằng vội chạy lên gọi tôi và Thống xuống xem có chuyện gì xảy ra.

Lúc đó trời đã tảng sáng, ánh bình minh đã xoa đi cái âm u bí hiểm của bóng đêm. Mọi thứ đã trở nên rõ ràng dưới ánh sáng. Đúng vào lúc chúng tôi còn chưa kịp hiểu điều gì đã xảy ra với đàn gà thì có một tiếng động loạt xoạt rất to ở bụi cây phía trước mặt. Đó cũng chính là bụi cây mà tối qua chúng tôi đã nhìn thấy đôi mắt đỏ rực. Nhưng giờ trời đã sáng, tôi đã có thể nhìn rõ hơn bụi cây đó.

- Có tiếng gì vậy ? – tôi hỏi.
- Hình như là tiếng của con gì đó đang di chuyển. – Bằng trả lời, vừa dứt lời cậu ta đã băng lên phía trước, xông thẳng về phía bụi cây.

Tôi và Thống cũng bám sát ngay phía sau Bằng. Có cậu ta đi đầu chúng tôi cũng luôn vững tâm hơn. Một loạt những tiếng loạt xoạt vang lên trong những bụi cây. Hình như con vật đó đã thấy chúng tôi lao về phía nó. Tôi cũng rất tò mò muốn biết nó là con gì?

- Có thể nó là con đã cắn chết gà của chúng ta. – Bằng nói như gầm lên. – Bất kể nó là con gì thì cũng phải bắt bằng được. Nay không có gà ăn thì cũng phải có chó, có mèo, chồn, cáo ...

Rồi bất chợt tôi thấy con vật đó chui hẳn ra khỏi những khóm cây. Nó bỏ thạy về phía cánh rừng rậm. Dưới ánh nắng của buổi sớm mai cả tôi, Bằng và Thống đều đã có thể nhìn thấy rõ con vật đó. Một con vật hình thù cỡ to như một con chó Begie cỡ lớn, màu lông đỏ hung, nhưng dọc theo sống lưng lại là một đám lông màu vàng nhạt rất kỳ lạ. Con vật đó đầu giống một con chó nhưng hai tai lại nhọn hoắt vểnh lên. Nó giống như tai của những con Cáo mà tôi vẫn thường hay thấy trong chương trình Thế giới động vật. Thoáng một cái con vật đó đã mất dạng phía sau cánh rừng hun hút.

Tôi thấy Bằng và Thống đứng khựng lại, nhìn chằm chằm theo cái bóng của con vật đó. Rồi cả hai cùng quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt kinh ngạc. Tôi liền hỏi:
- Hình như nó là một con cáo phải không?
- Cáo mà cũng không phải là cáo thầy ạ! – Thống đáp. – Thầy có kịp nhìn thấy gì đặc biệt không? Thầy có kịp thấy đuôi của nó không?

Tôi không kịp để ý đến đuôi của con Cáo đó lắm, thực ra do tôi bị cận bẩm sinh. Hiện giờ tôi đang đeo kính số 6 nên thị lực tôi vốn không được tốt. Tôi khó có thể nhìn rõ được vật gì, nhất là vật đó di chuyển với một tốc độ rất nhanh. Tôi chỉ thấy lờ mờ đám lông đuôi con cáo đó rất dày, hình như đuôi nó to và dày hơn bình thường rất nhiều lần. Tôi vội hỏi:

- Đuôi con Cáo đó có gì đặc biệt vậy ?
- Nó có đuôi, nhưng không phải chỉ có một đuôi. – Bằng đáp lời tôi. – Nó có nhiều đuôi. Em chưa bao giờ thấy con vật nào có nhiều đuôi như nó. Hình như là tận 6 cái đuôi.
- Không phải là 6 đuôi, mà là 9 đuôi !. – Thống chậm rãi trả lời.
- Làm gì có con vật mà nhiều đuôi đến thế? – Tôi không khỏi ngỡ ngàng. – Thầy chưa từng biết đến con vật nào có 9 đuôi cả.
- Có đấy thầy, tuy không phải là 9 đuôi nhưng có 9 cái khác. – Thống nói.- chẳng hạn như là Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao của Sơn Tinh đó.

Đến giờ này mà Thống vẫn còn nói đùa được thì hẳn bản lĩnh của cậu ta cũng không phải tầm thường. Tôi vặn lại cậu ta rằng đó không phải là đuôi, làm gì có con nào có 9 đuôi. Thống quay sang nhìn tôi rồi tủm tỉm cười:

- Có thầy ạ! Có Cáo chín đuôi đó!
- Cáo chín đuôi? Cáo chín đuôi là cáo gì ?
- Là CỬU VĨ HỒ LY đó thầy!

Tôi vẫn chưa rõ Cữu vĩ hồ ly là cái giống gì thì thấy Bằng tỏ ra hậm hực:
- Phải bắt bằng được con quái này thầy ạ! Dù nó có là cái giống gì thì em cũng truy đến cùng.
- Vậy phải bắt nó làm sao? Con cáo đó đã bỏ vào trong rừng rồi ?
- Chim có tổ, cáo có hang mà thầy! Nhất định em sẽ tìm được hang của nó. Giờ về gọi thằng Tùng và Hiệp, rồi tất cả chúng ta sẽ cùng vào rừng truy tìm theo dấu vết của nó. Nhất định hôm nay phải bắt bằng được. Gà của chúng ta nó thịt hết rồi! Phải bắt con Cáo này về nấu giả cầy mới được. – Bằng tuyên bố.

Nói rồi cậu ta xộc thẳng về nhà Rông để gọi Tùng và Hiệp. Chỉ thoáng chốc sau đã thấy Bằng, Tùng và Hiệp quay trở lại chỗ chúng tôi đứng. Mỗi người đều cầm trên tay một cái cuốc. Tôi và Thống cũng vơ lấy hai cái xẻng để cầm đi theo. Cả đội quyết định tiến vào cánh rừng để tìm con Cáo chín đuôi đó.

Lần mò theo hướng đi của con Cáo chúng tôi đã tiến sâu vào cánh rừng rậm rạp. Bằng quan sát từng khóm cây, bụi cỏ xem có dấu vết hay manh mối gì của con cáo không. Nhưng con cáo đó không hề để lại dấu vết gì. Ở đây rừng rậm, lá cây lại rụng đầy mặt đất nên việc xác định vết chân không hề dễ dàng như trên nền đất mềm.

Chúng tôi vừa đi vừa lấy cuốc và xẻng để phát quang cây cối dọn đường. Cây ở đây vừa rậm rạp lại vừa cứng. Hiệp và Tùng phải chạy về nhà để lấy thêm vài con dao phát rẫy để có thể mở đường giữa nhưng khóm cây chằng chịt. Chợt tôi thấy Bằng vứt dao rồi băng về phía trước. Hình như cậu ta đã đánh hơi được cái gì đó. Cậu ta có bản năng của một con thú săn mồi và cậu ta luôn có thể xác định được vị trí của con mồi. Cả đội vội bám sát theo Bằng. Bằng thoắt thoắt vượt qua mấy bụi cây rồi nhào vào một khóm rừng rậm rạp. Thoắt một cái đã thấy Bằng mất dạng giữa những đám cây cối rậm rạp um tùm. Tôi đang tự hỏi cậu ta chui vào đấy làm gì ?

- Mọi người vào đây xem. Có lẽ đây là hang của con Cáo ấy. – Giọng Bằng gọi với ra.

Cả đội lập tức dùng dao phạt bớt đám cây cỏ để mở một con đường tiến sâu vào. Vượt qua vài ba khóm cây rậm rạp chúng tôi đã đến chỗ Bằng. Đến nơi chúng tôi thấy Bằng đang ngồi chồm hỗm như một con chó đang săn mồi. Cậu ta chỉ về phía trước mặt rồi nói:

- Hang cáo đó!

Nhìn theo hướng Bằng chỉ tôi thấy một cái cây rất to. Thân cây cỡ phải ba người ôm đứng sừng sững trước mặt chúng tôi. Nhưng cái hang Bằng nói không phải ở trên cây, mà là trên mặt đất sát với gốc cây. Một cái hang đất to cỡ một người lớn chui vừa. Miệng hang đem ngòm, tối om nhìn không rõ đáy. Bên ngoài cửa hang có thấy rõ nhưng vết chân cáo còn in hằn trên nền đất. Một vài khúc xương gà, xương bò hoặc lợn nằm lăn lóc trên miệng hang. Không còn nghi ngờ gì nữa rồi. Đây chính là hang Cáo.

- Giờ tính sao đây ?. – tôi quay sang hỏi Bằng.
- Bắt thì khó lắm. con Cáo này thành tinh rồi nên ranh lắm đấy. – Bằng tưng hửng đáp lời. – Nhưng làm thịt nó thì được. Em có cách.
- Cách gì vậy? – Tôi tò mò hỏi.
- Nó nằm trong hang, giờ tuy không vào bắt nó được. Nhưng vẫn có thể giết nó. Chúng ta sẽ hun nó như hun chuột. – Bằng trả lời giọng cương quyết. – Hun một lát nó chết ngạt em sẽ lôi nó ra rồi làm dăm ba món thịt cầy cho cả đội.

Miệng nói tay làm, cậu ta dặn Tùng và Hiệp đứng canh chừng cửa hang rồi cùng Thống vác dao đi thẳng vào rừng. Chừng 15’ sau đã thấy Bằng và Thống trở lại, trên vai hai người đều có một bó củi tươi rất to. Vứt bó củi xuống đất, xếp củi ghé sát vào miệng hang Bằng giải thích với tôi:

- Nếu để lấy lửa thì dùng củi khô, còn để lấy khói thì phải dùng củi ướt thầy ạ. Củi ướt khó châm nhưng khi cháy sẽ nhiều khói. Khói bốc lên xông vào trong hang sẽ làm con Cáo mất Ôxy mà ngạt thở. Nếu nó xông ra thì ở ngoài ta phục sẵn cuốc xẻng mà đập chết. Còn bằng không nó sẽ chết ngạt trong hang. Để hôm nay xem mày mấy đuôi nha Cáo ! khặc khặc!

Nói rồi cậu ta xếp đặt mỗi người một cái cuốc cầm sẵn trong tay. Nếu con Cáo xông ra thì chúng đã mai phục ở ngoài, cứ nhằm đầu mà bổ xuống.

Chỉ thoáng chốc đám củi tươi trước cửa hang đã được đốt lên. Củi bén nhanh, khói dày đặc và nghi ngút thổi thốc vào hang. Tôi thầm nghĩ: “kiểu này mà không chết ngạt mới lạ”. Rồi tôi thấp thỏm ngóng đợi con Cáo với chín cái đuôi kia xông ra. Chắc tôi cũng không dám đập nó đâu, cử để mấy cái việc sát sinh kia cho mấy đứa sinh viên làm. Nhưng ăn thịt cầy, thịt cáo thì tôi không bao giờ từ chối. Ở Hà Nội hầu như tháng nào tôi cũng phải qua quán Sơn Hải thịt chó để thưởng thức cái thú ẩm thực khoái khẩu đó.

Chờ đợi, tay tôi nắm chặt cán cuốc. Xung quanh cả đội nam cũng sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. 5 phút đã trôi quá, rồi 15 phút, 20 phút … cũng trôi qua. Đã hơn nửa tiếng đồng hồ hun Cáo, tôi hết kiên nhẫn rồi quay sang hỏi:
- Sao không thấy nó ra ? hay là nó không có ở trong hang ?
- Có thể nó không có ở trong hang, nếu nó ở trong hang thì chắc chắn đã chết ngạt rồi. – Bằng quả quyết.- Để hun thêm chút nữa rồi em sẽ vào tìm.

Hun khói thêm gần 15’ nữa chúng tôi dập lửa và dọn đống củi trước cửa hang. Giờ đến lượt công việc khá phức tạp, chui vào hang bắt Cáo. Tôi thầm nghĩ: nhỡ nó chưa chết, chui vào đó nó cắn cho thì chỉ có nước đi bệnh viện, Hang cáo chật hẹp thế này thì sao mà cựa quậy được.

Bằng vẫn là người xông xáo lên trước. Cậu ta cầm lấy cái cuốc, cuốc dăm ba nhát để mở rộng miệng hang ra. Rồi Bằng lại lấy một đoạn cây dài, thò vào hang để thăm dò động tĩnh trước. Không thấy có gì bất ổn, Bằng xắn tay áo, ghé vai đưa một tay vào sâu trong hang để khua khoắng. Chợt thất mắt cậu ta sáng rực lên:
- Hình như em tóm được nó rồi thầy ạ!

Cả đội đều tỏ hân hoan khi nghe thấy Bằng nói vậy.
- Tóm được rồi ah? Nó có to không ? – tôi vội hỏi.
- Tóm được rồi! Nhưng … hình như nó chết cứng rồi! Em thấy cứng lắm, không phải mềm như da lông động vật. – Bằng hơi thoáng tỏ vẻ ngạc nhiên. – Để em lôi nó ra ngay đây.

Rồi Bằng dùng sức kéo thật mạnh cái xác con Cáo đó ra. Vừa kéo ra khỏi hang Bằng vứt ngay cái xác con Cáo đó xuống đất trước mặt chúng tôi. “Bụp !”, cái xác đó đập mạnh xuống dưới đất, lăn lóc ngay phía dưới chân tôi.

Tất cả mọi ánh mắt đều tập trung vào con Cáo đó. Con yêu quái đã thả rắn vào nhà chúng tôi, đã giết hết đàn gà của chúng tôi. Tôi muốn xem thật rõ nó có mấy cái đuôi … Rồi đúng vào lúc đó, tất cả đội như chết sững. Nhìn cái xác cáo, rồi chúng tôi lại nhìn nhau mà không nói nên lời. Nhìn xuống con cáo một lần nữa, tôi thấy toàn thân ớn lạnh. Một cảm giác kinh ngạc đến sững sờ xâm chiếm toàn bộ cơ thể tôi.

Tôi chậm rãi cầm con Cáo lên đưa cho Thống. Đó đúng là một con Cáo. Một con Cáo có chín cái đuôi màu đỏ sẫm. Tôi đã đếm rất kỹ. Nó có chín cái đuôi. Chính là CỬU VĨ HỒ LY đây rồi. Vừa gượng cười tôi vừa đưa cho Thống xem con cáo. Nó là cáo mà không phải là cáo. Vậy nó là cái giống gì ? Nó chỉ là một bức tượng cáo bằng đất nung. Một bức tượng Cửu Vĩ Hồ Ly.

- Chúng ta vừa bắt được một bức tượng Cáo chín đuôi. – Thống khẽ mỉa mai.
- Hay là con quái thành tinh đó biết chúng ta hun nó nên đã sử dụng kết Kim Thiền Thoát Xác mà để lại đây một bức tượng. Còn nó thì đã cao chạy xa bay? – Hiệp đưa ra một giả thiết đầy kỳ quái.

Chẳng ai trả lời câu hỏi đó của Hiệp cả. Chúng tôi bỏ về với một bực tượng trong tay nhưng trong lòng đầy hậm hực. Vậy là mất cả chì lẫn chai, mất cả Gà, lẫn Cáo. Chúng tôi đành gọi điện thông báo cho đội một buổi tiệc hôm nay sẽ hoãn lại. Chúng tôi phải nói dối họ rằng do chuẩn bị không kịp nên phải để sang tuần sau. Chiều hôm đó chúng tôi ngồi họp lại với nhau để bàn về những việc đã xảy ra trong mấy ngày hôm nay.

- Chuyện con cáo kia là như thế nào? – tôi hỏi. – Đàn gà của chúng ta chết gì lý do gì vậy? rõ ràng sáng nay cả Thống và Bằng đều đã nhìn thấy một con vật sống quanh quẩn bên khu nhà của chúng ta. Vậy mà đi bắt nó thì chỉ tìm được một pho tượng đất nung.
- Có thể con sáng nay chúng ta nhìn là con khác. Nhưng nó là con gì thì em cũng chưa thể xác định được. – Thống đáp. – Tuy nhiên chúng ta có thể hỏi thăm để biết được trong khu rừng kia có những con thú gì sinh sống.
- Hỏi ai bây giờ ?
- Hỏi người sống ở đây lâu năm và có nhiều kinh nghiệm với rừng núi. – Bằng trả lời tôi. – ông trưởng thôn: BA NHA.

Đội Nam chúng tôi quyết định tối nay sẽ qua nhà trưởng thôn Ba Nha chơi. Vừa là để thăm hỏi sức khỏe ông Ba Nha cũng vừa là để tìm hiểu thông tin về cánh rừng phía sau nhà Rông.

Nhà ông Ba Nha nằm sâu trong bản, cách nhà Rông của chúng tôi tầm một cây số. Ba Nha là trưởng thôn nên điều kiện sống cũng khá hơn hẳn những gia đình dân tộc khác. Trưởng thôn là theo cách gọi của người Kinh, còn ở đây người ta vẫn gọi ông là Già làng. Nhà ông Ba Nhà nằm trên lưng một quả đồi. Ba Nha sống trong một căn nhà Rông to đẹp và bề thế, cột nhà làm bằng những cây gỗ Lim rắn chắc. Ông ở với người vợ của mình, con cháu của Ba nha cũng sống ở xung quanh nhà ông ta.

Bên cạnh căn nhà Rông của Ba Nha sống còn có một căn nhà Rông khác nhỏ hơn như cổ kính hơn. Trên cửa và xung quanh căn nhà đó tô vẽ những hình ảnh, ký hiệu lạ mắt. Tôi có thắc mắc về căn nhà đó thì được thống giải thích rằng: đó là nhà dùng để thờ cúng, dùng để thực hiện các nghi thức tín ngưỡng của người Chăm trên này. Vì Ba Nha là già làng nên ông ta có thêm một căn nhà như vậy. Thường thì già làng cũng là người đứng đầu để tiến hành các phong tục, nghi thức tín ngưỡng của người dân trên này.

Ba Nhà mời cả đội chúng tôi vào nhà. Ông ta đem một vò rượu cần ra để mời chúng tôi. Ông nói đây là vò rượu ngon, chỉ để đem ra uống vào những dịp trọng đại hay khi nhà có khách quý. Đã vào nhà là phải uống rượt, đó là tục lệ người dân trên này. Do vậy chúng tôi cũng chẳng khách khí, mỗi người cầm một ống cắm vào vò rượu và hút ừng ực. Rượu quả thật ngon. Nếu không phải là rượu được mời thì tôi đã làm một hơi thật dài rồi đến đâu thì đến.

Sau dăm ba câu chuyện thăm hỏi xa giao, chúng tôi liền hỏi Ba Nha về những câu truyện truyền thuyết nơi đây, về những vấn đề tâm linh, tín ngưỡng gắn với khu rừng nơi này. Bất chợt khi chúng tôi hỏi đến câu chuyện về con Cáo trong khu rừng thì Ba Nha trầm mặt xuống. Dáng điệu ông ta trở nên căng thẳng, ngập ngừng như có điều khó nói. Rồi ông ta quay lại với lấy chiếc ống điếu. Rít một hơi dài, Ba Nha chầm chậm nhả từng bụm khói vào không khí. Ông ta kêu người nhà cất rượu rồi pha một ấm trà rất to. Ba Nha ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống quanh ông ta. Rồi ông cất tiếng hỏi:

- Các bạn thật sự muốn biết câu chuyện về con cáo núi Sơn Định chứ? Câu chuyện này vốn không nhiều người ở đây biết được. Khu rừng này đúng là có truyền thuyết về một con cáo thiêng. Nhưng nó không phải là cáo bình thường. Nó là Hồ tiên hoặc cũng có thể gọi là Hồ tinh.

Rồi ông ta nói với chúng tôi rằng vốn trước kia, từ rất xa xưa, trong khu rừng đại ngàn này đã có một con quái thành tinh. Nó không phải là Hổ, báo, gấu hay mãnh thú. Nhưng nó là một con vật cực kỳ tinh ranh và khôn ngoan. Đó là một con cáo. Con cáo đó nhờ tu luyện lâu năm mà thành tinh, không những hiểu được tiếng người mà còn có thể biết trước được sự việc. Con cáo đó còn có thể biến hóa mà đội lốt người tác yêu tác quái gây hại dân lành.

Ông Ba Nha kể lại rằng: hồi ông còn bé theo cha lên rừng săn thú. Đã có một lần ông thấy tận mắt con Cáo đó. Khi đó hai cha con ông đi săn trong rừng. Cả ngày mò mẫm mà chỉ săn được mấy con sóc, dũi. Hai cha con đành quay trở về bản. Trên đường về cả hai đều cảm thấy khát nước. Liền đó hai cha con ông rẽ ra qua bờ suối để uống. Trời hôm đó đã đổ về chiều muộn, ánh nắng vàng vọt, nhợt nhạt chiếu lên khu rừng âm u. Khi hai cha con ra đến bờ suối thì nhìn thấy ở phía bên kia một con Cáo lông đỏ rất to cũng đang uống nước. Cha của Ba Nha tỏ ra mừng rỡ, lần này hẳn không phải về tay không rồi. Nói đoạn ông lấy ngay khẩu súng kíp trên vai, lên đạn sẵn sàng rồi từ từ bó sát mép suối, đến thật gần mục tiêu. Ông giương súng nhắm thật kỹ. Con cáo dường như không biết gì, vẫn cúi đầu uốn nước.

“Đoàng !”, một tiếng nổ vang động khu rừng tĩnh mịch. Cha Ba Nha vốn là thợ săn khét tiếng trong vùng, phát súng ông bắn ra không thể nào trượt, hơn nữa cự ly lại rất gần chỉ khoảng chục mét. Con cáo chợt giật bắn mình, lùi lại đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh. Ba Nha nói, lúc đó rõ ràng ông ta thấy ở giữa đầu con cáo có một lỗ như vết đạn. Rồi một dòng máu ứa ra từ cái lỗ trên đầu con Cáo đó. Vậy là phát đạn hẳn đã trúng chính giữa sọ của con Cáo. Cha của Ba Nha hình như cũng đã nhìn thấy phát đạn đó đã trúng đích. Nhưng thay vì mừng rỡ ông lại sững sờ kinh ngạc. Chẳng một con vật gì nhận một phát đạn giữa sọ mà còn sống được.

Nhưng con cáo này vẫn còn sống. Thậm chí nó còn tỏ ra không hề hấn gì. Rồi hình như lúc đó con Cáo đã nhận ra kẻ bắn nó đứng bên kia của bờ suối. Nó há mồm tru lên một tràng dài. Mắt nó long lên sòng sọc, bắn những tia nhìn đầy căm hận nhưng cũng đầy khinh miệt về phía hai cha con Ba Nha. Chợt con cáo đó dựng đứng thẳng lưng lên, đứng bằng hai chân như con người. Nó hua hua bàn chân trước chỉ về phía cha Ba Nha. Rồi con Cáo ngoác cái miệng đỏ lòm đầy răng nanh cưới khanh khách: “khục khục ! Khà khà! Ha ha ha …!”. Một tràng cưới quái dị cất lên từ trong cổ họng của con Cáo. Tiếng cười đó nghe như tiếng của người chứ không phải là của Cáo. Tiếng cười đầy vẻ diễu cợt và mỉa mai. Rồi con cáo ngoảnh thân lại, phóc một cái đã nhảy vào đám bụi cây ven bờ suối để chạy thẳng vào cánh rừng. Lúc nó quay người lại cả hai cha con đều nhìn thấy rõ túm lông đuôi to, dày và lòa xòa của nó. Đó là một búi đuôi chứ không phải một cái đuôi. Con cáo có rất nhiều đuôi. Nó vừa chạy vừa cười rú lên “Há há ! khà khà !” vang động cả khu rừng.

Hai cha con đứng đó như trời trồng, tim đập chân run. Cha của Ba Nha đã không còn giữ được khẩu súng trên nay nữa. Súng rơi lăn lóc dưới bờ suối. Phải một lúc sau lấy lại được bình tĩnh hai cha con mới dắt nhau về bản. Sau hôm đó, Ba nha nói, cha của ông lăn ra ốm nặng, nằm liệt giường, chân tay không nhấc nổi. Mọi việc vệ sinh, ăn uống đều phải nhờ người nhà giúp đỡ. Kể đến đây tôi thấy ông Ba Nha thở dài, mắt nhìn bang quơ vào một nơi xa thẳm như đang hồi tưởng lại một đoạn ký ức hãi hùng.
- Rồi sau thế nào nữa bác? – tôi hỏi ông Ba Nha.
- Sau đó thì một chuyện lạ lùng đã xảy ra với gia đình tôi. – Ba Nha đáp lời.

Ông kể rằng: cha của ông nằm ốm liệt giường đúng 7 ngày 7 đêm thì tự nhiên khỏi bệnh. Ông cụ tự đứng dạy, ra ngoài lấy cơm ăn uống như bình thường, không có chút biểu hiện gì của người mới ốm dậy. Nhưng ông cụ không nói năng gì với vợ con. Cha Ba Nha ăn xong liền khoác tay với lấy khẩu súng kíp rồi bỏ đi một mình lên rừng. Chuyện ông một mình lên rừng đi săn vốn là chuyện rất bình thường ở đây. Có khi ông lên rừng đi săn cả tuần mới về nhà, về được vài ngày rồi lại đi. Mọi người chỉ lấy làm lạ chứ không can ngăn. Rồi người ta thấy ông đi thẳng theo hướng ra con suối. Chiều hôm đó, có một tiếng súng nổ vang ở hướng bờ suối, nơi mà hai cha con đã gặp con Cáo.

Linh cảm thấy sự chẳng lành, cả nhà Ba Nha cùng dân bản đổ đi tìm cha của ông. Họ men theo con suối, đi theo hướng có tiếng súng nổ. Chẳng mấy chốc cả đoàn người tìm kiếm đã đến được đoạn suối nơi hai cho con nhìn thấy con Cáo lạ. Kể đến đây nét mặt Ba Nha thoáng có chút đượm buồn.

- Rồi các cậu có biết thế nào không? – Ba Nha quay lại hỏi chúng tôi, rồi tự mình trả lời. – Người ta tìm thấy xác cha tôi bên bờ con suối đó. Đúng cái chỗ con Cáo ngồi uống nước. Mặt ông úp xuống dưới suối, thân vắt vẻo trên bờ, khẩu súng săn nằm lăn lóc bên cạnh. Nhưng ông không chết vì ngạt nước.

Ngừng một chút như để hồi tưởng lại cảnh tượng hãi hùng năm xưa, Ba Nha nói tiếp:
- Khi người ta đỡ xác cha tôi lên thì thấy trên trán ông có thủng một lỗ, máu từ lỗ đạn đó ứa ra đầy mặt con suối. Chỉ một lỗ duy nhất, chính giữa trán. Khẩu súng kíp đã không còn đạn ở trong. Nơi đây lúc đó cũng không có người khác, chỉ có một mình cha tôi. Người ta đã kết luận cha tôi tự tử. Ông đã tự bắn vào đầu mình bằng chính khẩu súng săn của ông. Một phát duy nhất, giữa sọ, chết ngay lập tức. Nhưng đó là chuyện của cách đây nhiều năm. Sau này mặc dù đi rừng nhiều nhưng tôi cũng không hề gặp lại con Cáo lông đỏ đó một lần nào nữa.

Rồi ông kể sau này lớn, ông đã đi khắp nơi để nghe ngóng, tìm hiểu về loài cáo đó. Rồi có một dịp, ông gặp một cụ già người dân tộc sống một mình trên núi tận trong vùng Đặk Lak, gần biên giới Campuchia. Ông cụ nói rằng đó là con Cáo thành tinh. Truyền thuyết vẫn gọi nó là Hồ yêu. Con cáo đó tu luyện lâu năm mà có thể dùng phép thuật mà sai khiến được người. Nó đã sử dụng yêu phép mê hoặc cha của Ba Nha, dụ ông ra bờ suối tự sát để trả thù việc ông đã bắn nó khi trước. Rồi ông cụ chỉ dạy cho Ba Nha cách phá giải yêu phép của cáo tinh phòng trường hợp sau này có ai đó bị nó đoạt hồn mê nhập.

Đó chỉ là lời kể, chẳng có gì có thể chứng minh đó là sự thật. Nhưng ông Ba Nha luôn tin rằng, con cáo đó giờ vẫn còn lẩn khuất trong khu rừng phía sau nhà chúng tôi. Tuy không thể tìm lại được con Cáo đó, nhưng Ba Nha nói đã từng vài ba phen phải sử dụng đến những gì ông cụ kia truyền dạy, để giải cứu cho người dân bị Cáo tinh nhập xác đoạt hồn.

Rót cho mỗi người một chén trà nóng, Ba Nha trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang nói với cả đội:
- Còn một điều nữa rất ít người ở đây biết, nhưng tôi sẽ nói cho các bạn. Điều này cũng liên quan đến con Cáo tinh đó.
- Vâng ! bác cử kể cho chúng cháu nghe. – Tôi tò mò đáp lời.
- Hẳn các bạn đã nghe đến câu chuyện về một chàng thanh niên bị Ma giấu vào bụi tre rồi chứ. Bụi tre đó nằm sau một ngôi cổ miếu hoang tàn phía thượng nguồn của con suối. Lai lịch ngôi cổ miếu đó có lẽ ở đây giờ chỉ có mỗi tôi biết.
- Ngôi miếu đó là như thế nào vậy bác? – tôi hỏi vội.
- Ngôi miếu đó vốn có từ rất lâu đời rồi. Trước kia nơi này rừng rậm, dân cư thưa thớt, miếu nằm trong tận rừng sâu nên ít người qua lại hương hỏa. Hầu như chỉ có người đi rừng là biết đến sự tồn tại của ngôi miếu này. Cha tôi là thợ săn chuyên đi rừng, tôi đã từng có lần được cha dẫn lên đây. Hồi đó ngôi miếu vẫn còn khá nguyên vẹn. Giờ ngôi miếu đổ nát nên người dân mới không biết miếu thờ ai. Người ta vẫn đồn đoán đó là miếu thờ Thổ công, thổ địa hay thờ Thần Bạch Hổ, thờ Ma rừng … nhưng đều không phải vậy.
- Vậy ngôi cổ miếu này thờ gì vậy bác?
- Ngôi miếu đó thờ một con Cáo. Một con cáo chín đuôi có sắc lông màu đỏ sẫm. Miếu Hồ Ly Tinh. – Ba Nha nói như đinh đóng cột.
- Làm sao mà bác biết được đó là miếu Cáo tinh ? trên miếu có ghi chữ gì không? – tôi tò mò thắc mắc.
- Miếu không có chữ. Nhưng hồi bé lên đó cùng cha tôi cũng tò mò ghé mắt vào ngôi miếu. Trong miếu có đặt một pho tượng trên khám thờ. Một pho tượng Cáo chín đuôi bằng đất nung màu đỏ sẫm, nhìn rất sinh động. Rồi sau khi cha tôi chết, có lần tôi quay lại ngôi miếu đó thì thấy miếu đã đổ nát tan hoang như một đống gạch vụn. Bát hương, đĩa, cốc vỡ nát nằm lăn lóc tứ tung trên mặt đất trước miếu. Duy chỉ có pho tượng Cửu vĩ Hồ Ly kia là biến mất. Tôi đã cất công tìm khắp nơi xung quanh nhưng không thấy. Dạo đó tôi nghĩ có thể bọn buôn bán đồ cổ đã mò tới đây mà đập phá ngôi miếu để lấy tượng đem bán trục lợi. Nhưng cũng không có cách nào truy xét ra được. Bức tượng Cửu vĩ Hồ ly màu đỏ sẫm đó coi như đã tuyệt tích. Từ đó về sau cũng không có ai dựng lại ngôi miếu đó nữa.

Nghe ông Ba Nha kể đến đây cả đội chúng tôi sững sờ nhìn nhau. Phải chăng đó chính là bức tượng mà chúng tôi hôm nay tìm thấy ở hang cáo trong rừng. Bức tượng đó đúng như những gì Ba Nha mô tả. Cũng may mà chúng tôi vẫn chưa hề nói gì với ông ta về việc tìm được một pho tượng cáo. Pho tượng đó Thống vẫn cất trên tầng gác của căn nhà Rông. Một thoáng im lặng bao trùm lên không gian của cuộc nói chuyện.

Chợt lúc đó phía ngoài có tiếng lao xao, huyên náo. Có một người thanh niên dân tộc hớt hải chạy vào nói thì thầm vài ba câu bằng tiếng Chăm với Ba Nha. Mặt ông Ba Nha đang từ đỏ hồng bỗng chuyển sang tái nhợt nhạt. Ông ra hiệu cho người thanh niên đó ra ngoài trước, rồi ông quay lại phía chúng tôi.
- Có chuyện rồi đây! Nếu các cậu còn hồ nghi về câu chuyện vừa rồi thì đi theo tôi. Tôi sẽ cho các cậu xem.

Tôi vội hỏi ông định đưa chúng tôi đi xem cái gì?, thì Ba Nha trầm giọng trả lời ngắn gọn:

- Yêu Cáo Nhập Hồn!

(Còn tiếp)

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Info