ZingTruyen.Info

Đạo mộ bút ký full (chính truyện + Ngoại truyện + đoạn tín)

Tàng Hải Hoa Quyển I-Diêm Vương kỵ thi

kanda_yuu

Tàng Hải Hoa Quyển I

Giới thiệu tóm tắt nội dung:

Cuộc sống yên bình năm năm của Ngô Tà, đột nhiên bị người của Kim Vạn Đường đến thăm mà phá vỡ. Kim Vạn Đường hóa ra cũng biết được bàn vẽ hạt tử (con bọ cạp) trên Nguyệt Quang Thạch đã bị mang ra khỏi Trương Gia Cổ Lâu có liên quan đến thời thơ ấu của Muộn Du Bình.

Để truy tìm manh mối, Ngô Tà đi Nepal trước, sau đó lại chuyển tới Mặc Thoát ở Tây Tạng. Tại Mặc Thoát, các manh mối có liên quan tới Muộn Du Bình cứ ùn ùn kéo đến! Sự việc càng không thể cứu vãn, khi tại Cát Lạp tự Lạt Ma - Ngô Tà lấy được bút ký của Muộn Du Bình, biết được nguyên nhân hậu quả năm đó Muộn Du Bình tiến vào Tuyết Sơn. Điều khiến cho Ngô Tà khiếp sợ là, ở trong một quyển sổ khác cậu ta đã thấy được "Chung cực"- sâu bên trong lòng Tuyết Sơn mênh mông kia, lại có một cách cửa Thanh Đồng cực lớn khác!

Và đoàn người qua đường bí ẩn tụ tập tại Cát Lạp tự, tất cả những chuyện này là do trùng hợp hay là có người cố ý an bài? Cho đến cuối cùng cái đồ án hạt tử thần bí kia là có ngụ ý gì? "Chung cực" cho đến cuối cùng là cái gì?

Vì sao Ngô Tà là người duy nhất có thể cứu vớt được Trương gia? Những người này có thực sự là được Trương gia phái đi và bọn họ có thể tin được hay không? Bọn họ đang có mưu đồ bất chính hay là đang cố hoàn thành sứ mệnh của mình?

Đây là một đoạn hành trình hoàn toàn mới, Ngô Tà cùng với Bàn Tử đi theo bước chân của Muộn Du Bình vào sâu bên trong Tuyết Sơn, lúc này đây, Ngô Tà có thể tìm được lời giải cho tất cả bí mật hay không?

Quyển 1: Diêm Vương kỵ thi

Tàng Hải Hoa

Ba ngày tĩnh lặng

1

Trong phòng rất ấm áp, cho dù khí trời bên ngoài có giá lạnh cách mấy thì nơi đây vẫn khiến cho lòng bình lặng và tĩnh tại. Không hề bị sự lạnh giá đêm qua làm cho mệt mỏi.

Tiểu Lạt Ma biết Trương Khởi Linh còn chưa học xong, cậu ta nhìn thấy hắn mới sáng đã ra khỏi cửa như bình thường, đi tới trước mặt tảng đá ở trong sân, đẽo gọt nó mà không hề có mục đích gì, Thượng Sư nói, hình dạng cuối cùng của tảng đá này, chính là thứ tồn tại ở trong lòng của Trương Khởi Linh.

Trương Khởi Linh cần phải biết mình là ai, hắn cũng cần phải hiểu thật rõ, khái niệm của từ "Tưởng".

( Tưởng ở đây bao gồm cả mong muốn, nhớ nhung, hy vọng, suy nghĩ,... là cảm xúc của trái tim.)

Tiểu Lạt Ma cảm thấy rất kỳ lạ, hắn và những người khác hoàn toàn không giống nhau, những người khác từ khi sinh ra đều được thiên phú, biết được bản thân mình cần phải làm những gì, muốn cái gì, đây là một loại dục vọng và động cơ. Thế nhưng cái người tên là Trương Khởi Linh này, dường như trời sinh đã không có cách nào hiểu rõ được hai điều này.

Nếu như ngươi không chủ động đi tới nói chuyện cùng với hắn, thì hắn có thể ngây người suốt cả ngày, sư huynh đồng môn của cậu đều nói Trương Khởi Linh giống như người gửi thư mà quên mất nơi cần phải gửi tới, nhưng mà Tiểu Lạt Ma không cho là như vậy, Tiểu Lạt Ma nghĩ, nếu như người gửi thư không biết nơi cần gửi, hắn sẽ giống như kiến bò trên chảo nóng, bởi vì ít ra họ còn phải tìm cách đem đồ vật đưa đến nơi cần gửi. Nhưng Trương Khởi Linh lại giống như Phật vậy, nếu như trong trời đất này không cần hắn, thì hắn sẽ ở nơi nào đó, ngay cả suy tính dục vọng cũng không có.

Nhưng mà Thượng Sư lại nói hắn cũng không phải là Phật.

Trước có, sau này không có, mới là Phật, mà ngay từ khi còn nhỏ mà đã không có dục vọng thì chính là tảng đá.

Trương Khởi Linh cần phải tìm được "Tưởng" của mình, vì thế Thượng Sư mới để cho hắn rèn luyện trước tảng đá trong sân kia mỗi ngày, chỉ cần trong nội tâm hắn có một tia "Tưởng" nào đó đủ để tảng đá kia có một hình dáng. Nó khi ấy thực sự sẽ rất có ý nghĩa.

Đã hơn một năm, tảng đá kia càng ngày càng nhỏ đi, chỉ có điều nó vẫn như cũ không hề có bất kỳ hình dạng nào hoàn chỉnh.

Cho nên Trương Khởi Linh vẫn như trước không thể đi gặp người phụ nữ ấy.

2

Khoảng thời gian người phụ nữ ấy ở trong chùa, so với Trương Khởi Linh thì bà ấy còn muốn rất nhiều rất nhiều, nghe nói là bà ấy chính là ở trong một đoá hải hoa dưới lớp băng, được đào ra ngoài. Người phụ nữ này cũng không phải là bị rơi xuống đó rồi bị nhốt chết, mà là được an táng trong một huyệt mộ đã đóng băng.

Bên trong núi Nam Gia Ba Ngói không chỉ có cái bóng kia, có một phiến Tàng hải hoa ở rất sâu trong tầng băng tuyết, nơi đó ẩn tàng rất nhiều bóng đen, nghe nói đó là lăng mộ của một bộ tộc, và cũng chỉ có ngôi miếu Lạt Ma này, mới biết nơi đó có tồn tại, vào năm cậu vừa được 16 tuổi, ngay vào ngày sinh nhật của mình, cậu được báo cho biết bí mật này, thế nhưng cậu chưa một lần được đi xem qua.

Chỉ tới tháng 7 hằng năm, bôn ba một tháng vào núi, mới có thể đi đến nơi đó. Những bóng đen này đều được chôn thật sâu bên dưới lớp băng, Thượng Sư ở trong chùa mỗi mười năm mới đều chỉ được vào đó một lần, để làm việc gì thì cậu cũng không biết. Con đường đi đến nơi ấy, chỉ những vị Thượng Sư có trí tuệ cao nhất mới có tư cách biết được.

Mười năm trước, Thượng Sư đi vào, rồi đem ra một thi thể bị đóng băng. Lúc đó cậu chỉ mới có sáu tuổi, rõ ràng cậu vẫn còn nhớ rõ, hình dáng của người phụ nữ kia. Cậu nghe được Thượng Sư cùng với đồng môn nói chuyện, người phụ nữ này, chưa chết, nhưng mà cũng không phải là còn sống.

Bà ấy được đặt ở trong một gian phòng, Tiểu Lạt Ma chỉ biết đó là một người phụ nữ xinh đẹp, làn da vô cùng trắng, không giống với màu da của người Tạng, bà nằm ở trên một lớp lông cừu được đưa vào gian phòng một cách cung kính, toàn bộ quá trình diễn ra bà ấy chỉ giống như đang ngủ, khẽ động mà cũng không hề nhúc nhích.

Còn gian phòng kia, từ đó về sau cũng không có ai đi vào nữa.

Mãi cho đến chín năm sau, Trương Khởi Linh đi tới ngôi chùa này, hắn miêu tả tướng mạo người phụ nữ kia.

Nhưng mà những Thượng Sư trong chùa cũng không để cho hắn gặp người phụ nữ kia.

Một trong những vị Thượng Sư liền bảo Trương Khởi Linh phải ở lại nơi này một năm: "Ngươi không khác gì một tảng đá, gặp hay không gặp, cũng đâu có gì khác nhau."

3

"Nếu anh đã tới nơi này, tìm người phụ nữ kia, vậy thì trong lòng anh chắc chắn là có nghĩ tới, vậy thì vì sao cho đến bây giờ cái gì anh cũng không khắc ra được vậy?" Lúc ấy Tiểu Lạt Ma còn trong khoá học có từng hỏi Trương Khởi Linh chuyện này vào giờ nghỉ trưa.

Trương Khởi Linh ngồi trong sân, đang tự mình đập một tảng đá tương đối lớn nằm giữa đống đá vụn. Không trả lời.

Tiểu Lạt Ma đã quen với phản ứng như vậy của hắn, tự động nói: "Anh là từ đâu tới, vì sao lại nảy sinh ra ý nghĩ muốn đi đến đây. Bắt đầu từ đâu mà anh lại nghĩ tới điều đó. Làm sao có thể nói anh là một tảng đá được chứ? Cách nghĩ của các Thượng Sư, thực sự không hiểu nổi."

Trương Khởi Linh nhìn cậu một chút, từ chối cho ý kiến.

Hắn ăn một miếng bánh bột thanh hoa, rồi đem đồ vật gói lại thật cẩn thận để qua một bên, lại bắt đầu tiếp tục gõ vào hòn đá.

Tiểu Lạt Ma tiếp tục nhìn hắn, cùng lúc đó một người mặc chiếc áo lam bào liền đi tới sau lưng cậu.

Người này là thợ mộc do Lạt Ma miếu mời đến, thợ mộc mặc lam bào này chính là người giỏi nhất, nhà bọn họ đã truyền tới đời thứ chín, nhưng tay nghề vẫn vô cùng hoàn hảo. Thợ mộc vỗ vỗ vai Tiểu Lạt Ma, bảo cậu không nên quấy rầy Trương Khởi Linh.

"Cậu ta là hoàn toàn không có mục đích gì mà đi tới đây, sau đó lại đột nhiên nhắc tới cái tên đó." Thợ mộc nói với Tiểu Lạt Ma: "Thậm chí cậu ta cũng không biết đó là một cái tên."

"Tại sao ngài lại đi đến ngôi miếu này. Trong miếu có chỗ nào bị hư hỏng sao? Hay là lại có đá tảng từ trên núi rớt xuống."

Người kia nhẹ giọng nói: "Thượng Sư cho gọi tôi tới, nghĩ ngơi rồi chỉnh sửa lại gian nhà ở phía sau, sà ngang và bếp lò."

"Gian nhà nào vậy?"

Thợ mộc nhìn Trương Khởi Linh một chút, Tiểu Lạt Ma lập tức hiểu ra. Cậu có chút nghi ngờ hỏi, "Cuối cùng Thượng Sư cũng thừa nhận là anh ấy đã có "Tưởng" rồi sao?"

Cậu nhìn thấy thứ mà Trương Khởi Linh khắc ra, là một hình dạng kỳ quái không hề có bất kỳ quy tắc gì, cái hình dáng này so với khi vừa mới bắt đầu vào một năm trước, hình như không có chút khác biệt nào.

Người kia chỉ chỉ lên mặt đất, dưới ánh mặt trời giữa trưa, Tiểu Lạt Ma thấy được cái bóng của khối đá kỳ quái mà Trương Khởi Linh điêu khắc ra, thế mà cái bóng lại có hình dáng của một người, giống như là Trương Khởi Linh đang ngồi ở trên tảng đá vậy. Nhất định là mỗi ngày vào giờ nghỉ trưa, hắn nhìn cái bóng của mình, sau đó dựa theo cái bóng mà bắt đầu tạc ra thứ quan trọng nhất.

Tiểu Lạt Ma nở nụ cười, từ trong nội tâm cậu nảy sinh một niềm vui nho nhỏ thay cho Trương Khởi Linh.

"Ngươi sửa Phật là sửa như thế nào vậy?" Thợ thủ công hình như lại có chút xúc động, hắn hỏi Tiểu Lạt Ma.

Tiểu Lạt Ma cười hắc hắc, không trả lời. Người kia lại tiếp tục nói: "Rất nhiều người đều nói, các cô gái ban đầu cũng không có tâm, cho nên cũng không có ai làm tổn thương được các nàng, thế là ác ma tạo ra con trai, một người con trai khôi ngô tuấn tú theo đuổi để làm cho các nàng có tâm, cho đến khi các nàng đã có tâm, tất cả mọi thứ trên thế giới này đều có thể làm thương tổn các nàng. Cho nên -- chúng ta làm cho một người có tâm, có lẽ là sẽ dễ dàng làm cho hắn tổn thương hơn đấy."

4

Đêm hôm đó, Trương Khởi Linh được đưa vào căn phòng đã phong bế mười năm trước, gặp được mẹ của mình.

Khi đó đối với hắn mà nói, tất cả vẫn như cũ có vẻ là đã bắt đầu quá vội vàng, mà còn làm cho hắn không có cách nào giải thích được.

Bạch Mã cũng chưa hoàn toàn tỉnh lại, đem dược tính của Hoa tàng hải rút ra, nàng đã thực sự rất gần với cái chết, chỉ còn có ba ngày. Nhưng mà nàng đợi được ba ngày này, đã phải chờ trong thời gian quá lâu.

( Bạch Mã ở đây là đá Mã Não Trắng không phải nghĩa là Ngựa trắng)

Trương Khởi Linh cũng không lấy được bất kỳ tin tức nào từ miệng Bạch Mã.

Hắn thậm chí còn không nghe được mẹ mình gọi cho dù là từng tiếng một.

Hắn cũng không có cảm giác được, như những người khác đã từng nói, mẹ hắn sẽ mang đến cho hắn một mối liên hệ duy nhất trên thế giới này.

Thứ duy nhất mà hắn cảm giác được, là một thân thể đang chậm rãi khôi phục lại hô hấp, gương mặt tái nhợt kia chỉ phục hồi lại một chút huyết sắc, cũng ngay trong chớp mắt lại thay đổi trở nên băng lạnh.

Đây là tất cả, vẫn có vẻ đã bắt đầu quá vội vàng.

Bạch Mã biết tất cả chuyện này sao?

Như vậy là đã theo như giao ước của bà ấy, trong lúc an nghỉ sẽ tỉnh lại, bà ấy thực sự đã không còn bất kỳ cơ hội nào để mở mắt nữa. Thế nhưng bà biết, lúc này Lạt Ma sẽ theo như giao ước làm cho mình tỉnh lại, con trai của Bạch Mã nhất định sẽ ở bên cạnh bà.

Đó nhất định là một đứa trẻ sinh động, cảm giác được hỉ nộ ái ố trong cuộc sống này, bà có thể cảm giác được sự ấm áp của con trai mình. Hơi thở của hắn, nhịp tim của hắn, hắn thực sự đã tới.

Bạch Mã đã dùng hết tất cả các biện pháp, để mình có thể chờ đợi được ba ngày này, tuy rằng không đủ, hoàn toàn không đủ, nhưng nàng vẫn muốn nhìn thấy tất cả giai đoạn đứa trẻ này lớn lên, tất cả chỉ trong một cái chớp mắt. Thế nhưng, ba ngày, sự yên tĩnh này, chỉ có tiếng tim đập và tiếng hít thở trong ba ngày, đã là tất cả những gì bà có thể làm được.

Trương Khởi Linh cầm lấy tay của mẹ hắn, hắn không biết tại sao mình lại muốn làm như vậy, hắn nghĩ đây là tất cả, nó vẫn còn quá mức hấp tấp.

Hắn cảm thấy một tình cảm mà hắn chưa từng trải qua, hắn cảm giác mình đang cầm lấy dấu vết cuối cùng của mình trên thế gian này, một tia nguyện ý cuối cùng của hắn đã trở lại.

Không có ai đi tới căn phòng này, không có bất kỳ âm thanh nào xung quanh nơi này.

Ba ngày vắng vẻ.

"Ngươi không thể là một tảng đá, bởi như vậy mẹ của ngươi, sẽ không - cảm giác được sự tồn tại của ngươi." Một năm trước, Thượng Sư đã nói với hắn rằng: "Ngươi phải học được ý nghĩa của từ "Tưởng", suy nghĩ nhớ nhung, mẹ của ngươi sẽ tặng cho ngươi một món quà duy nhất cũng là món quà sau cùng, đó là lấy lại cho ngươi trái tim đã bị những người đó che lấp."

5

Ba ngày sau, Trương Khởi Linh đi tới phía trước tảng đá kia, hắn theo thói quen cầm lấy đục, bắt đầu đẽo gọt tảng đá.

Trước đây hắn không biết mình tạc thứ này, là vì cái gì.

Hắn tạc được vài cái, chợt phát hiện trong tay mình chính là cái đục, hiểu được bản thân mình đang làm việc gì. Đồng thời cũng vào lúc này, trong lòng dâng lên một cảm giác đau khổ không thể ngăn lại, và cảm giác đó vẫn cứ thế tiếp tục tuôn trào mãi.

Giữa cơn tuyết lớn, hắn ngồi xuống, cuộn mình lại thành một đoàn.

Chương 1: Khởi nguyên

Muốn bình tâm tĩnh khí viết xuống những cố sự này thực sự rất khó, lúc này tôi đã cố ý đè nén cảm xúc của chính mình xuống, mới viết xuống được câu nói đầu tiên này.

Rất nhiều chuyện, sau khi đã xảy ra, ngươi cũng không nguyện ý viết lại nó, bởi vì ngươi biết, tuy rằng quá trình của những chuyện này đáng để cho người khác biết đến, nhưng để ghi lại quá trình đó, sẽ làm cho ngươi phải trải qua những đau khổ này một lần nữa, lo lắng, nghi ngờ, thậm chí đôi khi ngươi sẽ lại rơi vào tình cảnh khi ấy. Đây cũng không phải là những trải nghiệm vui vẻ gì.

Lúc này ngươi sẽ nghĩ đến số mệnh, bởi vì đối với tôi mà nói, nếu như tôi được sinh ra trong một gia đình bình thường, vậy cho dù trong lòng tôi có mong muốn được trải qua việc này, cũng không có cơ hội, mà thực sự là tôi lại cố tình được sinh ra trong cái gia đình rất đặt biệt như vậy. Nguyên nhân của sự đặc biệt này, là từ chỗ ông nội tôi, đúng hơn là do đặc trưng nghề nghiệp của ông, có điều nếu nó cũng được coi là một loại nghề nghiệp.

Dùng cách nói của thời đại này, thì ông nội tôi chính là trộm mộ tặc.

Vào những năm bốn mươi năm mươi thế kỷ hai mươi, ở thành Trường Sa, ông nội tôi là một trộm mộ tặc rất có danh tiếng, đó cũng chính là thổ phu tử theo cách gọi của người địa phương. Cả nhà chúng tôi đối với giai đoạn này của ông hiểu rất rõ, là vì sau khi Trung Hoa thành lập chế độ mới, có một thời gian dài ông tôi là đối tượng truy nã của bộ công an, đến những năm thập niên sáu mươi lệnh truy nã này mới được bãi bỏ.

Chuyện của ông vào những năm đó, trong nhà tôi cũng không biết quá rõ, phần lớn chuyện tôi biết được, đều là nghe từ người cùng thế hệ với bố mẹ tôi nói tới, hoặc nghe trộm từ những cuộc nói chuyện của ông với các chú. Ngoại trừ một số chuyện gì đó bên trong gia tộc ra thì công việc trộm mộ ngày trước của ông, gần như ông không hề nhắc tới.

Lúc ấy tôi liền hiểu ra, trong lòng ông nhất định đã cất giấu rất nhiều bí mật. Bởi vì, chuyện đào trộm cổ mộ những năm tháng đó đã trải qua thời gian rất lâu rồi, hơn nữa lại có rất nhiều bí mật chưa rõ ràng, hơn nửa thế kỉ sau, nhất định nó sẽ biến thành trò cười, đây cũng chính là quy luật của thời gian.

Thế nhưng, mãi cho đến khi ông nội tôi qua đời, mấy chuyện này vẫn được giấu kín như bưng, không muốn nhắc lại, vấn đề này thực sự không được bình thường . Chúng tôi vẫn thường nói bí mật hay lệnh cấm được bãi bỏ cũng không khác gì thuốc nhuộm đã bị pha loãng, theo thời gian trôi qua, luôn luôn có một phần sẽ trở thành khoảng trắng trong thế giới này. Cho dù trong lòng ông tôi có nhiều chấp niệm hơn nữa, những chuyện đó đã trải qua nhiều năm như vậy, ít nhiều gì trong lòng ông nó cũng bị phai nhạt rồi. Thế nhưng, thực sự thì một chút cũng không phải.

Trong quá trình ông nội làm trộm mộ năm đó, nhất định đã xảy ra sự việc gì vô cùng đặc biệt, chuyện này quan trọng đến mức, ngay cả thời gian cũng không có khả năng làm nó phai nhạt đi.

Điều làm tôi càng thêm khẳng định vào phán đoán của mình, là ông nội tôi có một bản di ngôn vô cùng kỳ quái.

Ông tôi qua đời rất bình thường, cũng giống như bất kỳ người già nào khi biết mình đã gần chết, vào thời điểm ông gần ra đi, đã không còn bao nhiêu sức lực mà sợ hãi nữa, ông lấy tất cả sức lực cuối cùng của mình, dồn vào việc nhắn nhủ chuyện hậu sự.

Câu đầu tiên mà ông nói, khiến phần ký ức này cho đến bây giờ vẫn còn rất mới với tôi, ông nói: "Không thể ngờ ta thật sự đã có thể chết được rồi."

Câu nói này cũng không có ai chú ý tới, chỉ cảm thấy ông người đã cao tuổi, trước khi chết tinh thần không được tỉnh táo, nên lời nói có chút thất thường.

Cha tôi liền thở dài, cha cũng không nói cái gì đặc biệt cả, chỉ nói: "Chúng con đều ở chỗ này, con và lão Nhị, lão Tam đều ở chỗ này, cháu trai ông cũng ở đây rồi."

"Ta muốn dặn dò một chút." Ông nội nói, từ những lời này tôi có thể phán đoán, kỳ thật ý nghĩ của ông rất rõ ràng,"Những gì mà ta để lại, không được coi là nhiều, thế nhưng phần lớn trong số chúng đều là đồ có giá trị, ba anh em các con tự mình chia cho nhau, con cái nhà người khác thì ta không yên tâm, nhưng ba anh em các con thì ta rất yên tâm."

Cha tôi liền gật đầu, ông tiếp tục nói:"Sau khi ta chết, trong vòng hai giờ phải hoả táng."

Yêu cầu này có chút kỳ quái, nhưng mà lúc này không thể không nghe theo lời ông, cha tôi lại phải gật đầu."Trong lúc hoả táng, các con phải cam đoan rằng, trong phạm vị ba mươi mét gần lò hoả táng không được có người, không được phép nhìn cảnh tượng trong lò thiêu." Ông nội tôi tiếp tục nói.

Điều kiện này cũng được đáp ứng, nhưng mà sau khi ông nói xong, mọi người trong nhà đều cảm thấy nghi ngờ. Chúng tôi đều im lặng chờ đợi, chờ ông giải thích một chút. Hoặc là tiếp tục nói gì đó.

Nhưng mà, sau khi ông tôi nói xong, thì không hề nói thêm gì nữa, mắt cũng không có nhắm lại, mà chỉ là nhìn chúng tôi.

Buổi tối ngày hôm đó thì ông nội tôi qua đời, cha tôi là người con rất hiếu thảo, dựa vào di ngôn của ông mà làm xong hết mọi việc ông dặn dò. Chỉ là thời gian đi tìm nhà tang lễ quá gấp, phải mất rất nhiều tiền mới chen vào lò thiêu trước một đoàn. Bởi vì là hỉ tang, cho nên cũng không có ai quá mức thương tâm. Chỉ có điều trong lúc hoả táng, chúng tôi đều bị cha và các chú chặn ở bên ngoài, mãi cho đến khi tro cốt được đẩy ra thì mới cho vào.

Vì vậy mà tuy là mọi người đều cảm thấy kỳ quái, nhưng nguyên nhân tại sao ông nội tôi lại yêu cầu như vậy, cuối cùng cũng không ai biết được.

Chuyện này, cũng bởi vì bản tính của tôi không muốn truy tìm nguyên nhân đến cùng, dần dần theo thời gian liền quên mất. Bây giờ nghĩ lại, thật ra dấu vết của tất cả mọi chuyện đã xảy ra gần đây, đều đã xuất hiện xung quanh tôi khi đó. Tôi không phải là người ở trong cuộc, không hề biết được bất kỳ sự thật gì, nhưng khi vừa trở thành người trong cuộc, phút chốc nhớ lại mọi chuyện, lại phát hiện ra chỗ nào cũng có manh mối.

Sau khi ông nội tôi qua đời cha tôi được chia cho một phần tài sản, đều là những tài sản tương đối trong sạch. Cha tôi cả đời làm khảo sát địa chất, hoàn toàn không biết chút gì về đồ cổ, nên vẫn cứ để mặc đó, sau này thấy tôi tốt nghiệp đại học không có việc gì làm, nên dứt khoát giao hết cho tôi quản lý.

Cửa hàng bị bỏ hoang một phần là do tính cách của cha tôi, còn tôi tuổi trẻ nhiệt huyết, sau khi tiếp nhận cửa hàng đã quyết định đổi mới, muốn làm cho nó phát triển hơn. Tôi tìm đến thằng bạn của mình, hai người bắt đầu cùng nhau thực hiện kế hoạch, đi khắp nơi thu mua đồ tốt, kết quả, liên tục bị lừa phải trở về, làm cho toàn bộ vốn lưu động của cửa hàng cùng với một khoảng tiền nhỏ của tôi gửi trong ngân hàng một đi không trở lại. Hai đứa chúng tôi bí quá hoá liều, kết quả đành cùng với mấy người anh em họ đi trộm cổ mộ. Tôi không dám nói với cha mẹ về chuyện cửa hàng làm ăn thua lỗ, may mà một nửa cửa hàng này là của tôi, chỉ cần đóng một nửa tiền thuê và phí điện nước là được. Tôi vốn định đem một nửa mặt bằng bên kia trả lại (cuối cùng là vẫn phải trả), sau này nghĩ lại một chút, khi ông nội tôi quản lý thì nó là một cửa hàng, tuy rằng cha tôi không giỏi, nhưng ít nhất vẫn không phải trả lại một nửa mặt tiền cửa hàng, bây giờ nó vào tay tôi, lại mất đi một nửa, nhất định tôi sẽ bị cha mắng chết.

Vì thế tôi chỉ có thể cố gắng gánh vác, vẫn vượt qua được cho dù rất vất vả. Cái việc buôn bán đồ cổ này có khi chỉ trong một đêm trở nên giàu có, hoặc trong một đêm mất hết cũng là chuyện thường hay xảy ra, có điều là nhất định phải có vốn lưu động, nếu không làm nghề này còn không bằng bán trứng luộc nước trà. Khi đó tôi đã dựa vào danh tiếng của ông nội tôi, mỗi tháng ít nhiều gì cũng có vài người ngưỡng mộ danh tiếng của ông tôi mà tìm đến. Tôi lấy tên tuổi của ông ra để lừa gạt, cuối cùng cũng có chút thu hoạch. Về sau, thì tôi gặp được cái lão già tên là Kim Vạn Đường kia.

Lúc ấy nguyên nhân mà lão Kim Vạn Đường kia tìm đến cũng là để tìm ông nội tôi, khi đến cửa hàng tôi, lão có đem theo một phần của Sách Lụa Chiến Quốc, muốn nhờ ông tôi giám định. Đối với chuyện này của ông, tôi cũng hiểu được sơ sơ, đó là một đêm mấy chục năm về trước ông đi trộm một cổ mộ có huyết thi, cuối cùng cầm ra một phần sách lụa đầy máu, trong sự kiện năm ấy ông nội của ông, cha và anh trai của ông đều chết hết. Vì thế tôi đối với vật này vẫn có chút kiêng kỵ, chỉ có điều tình hình buôn bán ế ẩm khiến cho tôi có chút ý nghĩ xấu với phần sách lụa Chiến Quốc kia của lão, tôi lén chụp lại một bức ảnh, chuẩn bị làm đồ dỏm bán lấy tiền, lại phát hiện ra một chuyện không ngờ tới, phần sách lụa Chiến Quốc này, là bản đồ của một toà cổ mộ.

Cũng không biết có phải là vì mang gen di truyền của trộm mộ tặc, hay là túng quá mà phát điên, ma xui quỷ khiến thế nào, tôi lại tham gia vào lần đi trộm mộ đó. Đồng thời cũng ngay trong lần đầu đi trộm mộ đó, tôi gặp được Trương Khởi Linh.

(Yay!!!!!!!! :D )

Những chuyện sau đó vô cùng rắc rối phức tạp, chỉ riêng phần của tôi cũng đã có thể viết được hơn cả trăm vạn chữ rồi, tôi và Trương Khởi Linh cũng trở thành bằng hữu (không biết có phải là bằng hữu thật hay không nữa, bây giờ nghĩ lại, tôi cũng có chút thê lương). Dần dần về sau tôi phát hiện, Trương Khởi Linh cũng giống như ông nội tôi, hình như đều phải gánh vác một bí mật tuyệt đối không thể tiết lộ. Hơn nữa, tôi phát hiện tất cả những bí mật của Trương Khởi Linh, cùng với bí mật của ông nội tôi phải gánh vác có cả ngàn mối liên hệ với nhau.

Tôi bất đắc dĩ phải đi điều tra về anh ta, rất nhanh tôi kinh hãi phát hiện ra rằng Trương Khởi Linh lại là người cùng thế hệ với ông nội tôi, cũng có liên hệ với gia đình tôi, trong những hoạt động của ông nội tôi và chú Ba, người này đều lấy bộ dạng của một người xa lạ mà xuất hiện qua.

Anh ta cùng với ba đời nhà chúng tôi đều có xuất hiện qua, hơn nữa điều đáng sợ nhất là, ông nội tôi đã qua đời rất nhiều năm, nhưng anh ta vẫn sống và nhìn cũng bằng tuổi với tôi.

Tuy rằng tôi tin anh ta chắc chắn không có ác ý gì với tôi, nhưng mà, rốt cuộc người này là ai? Mục đích của anh ta là cái gì? Đến cùng là Ngô gia chúng tôi đang lao theo điều tra những bí mật của anh ta, hay là anh ta vẫn luôn luôn hiện diện xung quanh Ngô gia chúng tôi? Điều này cũng không có ai biết được.

Anh ấy và ông nội giống nhau, đều phải gánh vác một bí mật, có phải là bọn họ mang cùng một bí mật hay không?

Tôi lại càng không biết.

Nhưng vì sao năm đó ông tôi để lại một di ngôn kỳ quái như vậy, tôi ở giữa những việc này, từ từ cũng tìm được đáp án. Năm đó ông tôi cùng với những người cùng thế hệ đã làm ra đủ chuyện không thể tưởng tượng nổi, rồi bị sa vào âm mưu đáng sợ, dần dần mọi thứ đã xuất hiện ra.

Chuyện xưa vẫn chưa kết thúc, còn kết cục của chuyện đó, cùng với tất cả bí mật đều được Trương Khởi Linh đem theo rồi biến mất không còn tung tích. Không cho tôi biết bất kỳ chuyện gì, đồng thời cũng phát hiện, thật ra thì đối với tôi mà nói ngay cả mọi chuyện về anh ta cũng vẫn là câu đố như trước.

Tôi không biết, có thể sau này khi tôi có con, trong cuộc đời của con mình, người này có còn xuất hiện nữa không, nếu có thì vẫn mang gương mặt trẻ tuổi kia chứ. Nhưng mà tôi khẳng định, bất kể là trên vai người này phải gánh vác bí mật gì, bất kể là anh ta có liên hệ với gia tộc tôi hay không, tôi hy vọng rằng trước khi sinh mệnh của tôi kết thúc, sẽ chấm dứt được tất cả chuyện này.

Tôi hy vọng rằng mình có thể gặp lại anh ta một lần nữa, hiểu rõ những bí mật của anh ấy.

Chương 2: Chuyện kỳ lạ thứ nhất (thượng)

Trước tiên xin được nói về một sự kiện kỳ lạ như sau.

Thị trấn Mã Bá nằm ở nơi giao nhau tại tỉnh Giang Tô và huyện An Huy, thuộc tỉnh Hoài An, trong phạm vi thị trấn Mã Bá, có một vùng tên là Mã Am, trước khi thành lập Tân Trung Hoa, nơi này đã từng xảy ra một sự kiện kỳ quái.

Trấn Mã Bá này vào thời Tần Thủy Hoàng thuộc quận Đông Dương, tập trung rất nhiều mộ cổ thời Tần Hán, từ xưa đến nay trộm mộ tặc kéo tới nơi này rất đông, vì thế, người dân bản xứ luôn luôn đề phòng với trộm mộ tặc, cũng vô cùng quen thuộc. Lúc ấy ở Mã Am có một cường hào (địa chủ), tên là Mã Bình Xuyên, rất có tiếng trong vùng, nắm trong tay việc buôn bán thuốc phiện ở địa phương. Mã gia đã cố thủ vùng này trong nhiều thế hệ, phần mộ tổ tiên rất trù phú: Vào thời đại đó, chiến tranh loạn lạc không ngừng, Mã Bình Xuyên đã nhận nuôi rất nhiều lính đào ngũ, phân phát súng ống, có một thời gian thôn Mã Am trở thành một vùng tập hợp lực lượng vũ trang rất vững chắc.

Mà phía sau thôn Mã Am, có một khu nghĩa trang, mộ phần tổ tiên của Mã gia cũng nằm ở nơi này. Nhưng vì đề phòng trộm mộ tặc, vẫn sai rất nhiều người đến canh gác.

Đến một năm kia, ngay tại khu nghĩa trang này, phát sinh một sự kiện kỳ lạ.

Chỉ trong một đêm, mấy trăm mẫu ruộng phía sau thôn, bao quanh khu nghĩa trang, toàn bộ hoa màu đều chết héo hết.

Việc này đã gây ra sự hoang mang rất lớn cho người dân trong vùng, Mã Bình Xuyên nghĩ rằng là do phong thuỷ mộ phần tổ tiên của mình có vấn đề, liền nhanh chóng mời mấy thầy phong thuỷ nổi tiếng nhất vùng đến, cùng nhau xem xét cẩn thận, muốn tìm ra biện pháp hóa giải, nhưng cuối cùng vẫn không điều tra được nguyên nhân.

Mã Bình Xuyên là người trước nay luôn làm việc rất dứt khoát, lập tức bỏ ra một số tiền lớn, tìm mua một vùng đất khác trù phú cùng phong thuỷ tốt, rồi hạ lệnh di dời mộ phần.

Chỉ trong một thời gian ngắn, vùng đất phía sau thôn khói lửa khắp nơi, giống như là đang có chiến tranh. Mã gia chuyển mộ phần bên nội trước tiên, sau đó mới đến ông bà bên ngoại, họ đều tự mình đi mời thầy phong thuỷ đến, làm lễ pháp sư cúng bái để dời mộ, đốt pháo rộn ràng cả một vùng.

Ban đầu là mở mộ phần bên nội, Mã Bình Xuyên quyết định làm thật phô trương, ra lệnh cho binh lính xếp thành mấy hàng bắn súng chỉ thiên, đầu tiên hắn mở phần mộ tổ của ông cố mình, thì phát hiện ra đào sâu hơn mười mét mà vẫn không thấy quan tài đâu cả.

Làm sao trong mộ phần tổ tiên lại không có quan tài.

Mã Bình Xuyên giận dữ, hạ lệnh mở hết mộ phần tổ tiên ngay trong ngày hôm đó, sau một hồi bụi đất tung bay mịt mù, bọn họ liền giật mình phát hiện ra, phần đất chôn cất tổ tiên mà mình đã cúng bái mấy trăm năm nay, bên dưới tất cả các mộ phần, rốt cuộc lại không có cỗ quan tài nào.

Mã Bình Xuyên giận dữ không thể nén được, liền bắn chết mấy tên bính lính trông coi mộ địa, rồi hạ lệnh tiếp tục đào hết những mộ phần trong khu nghĩa trang lên, coi thử có quan tài ở bên dưới hay không. Hắn nhất định phải điều tra cho ra chuyện này rốt cuộc là như thế nào, chẳng lẽ thật sự có trộm mộ đã biến phần mộ tổ tiên của họ thành máy rút tiền tự động, hay là do mấy kẻ trông coi khu mộ địa này nhiều năm đào trộm?

Sau một hồi điều tra rõ ràng, Mã Bình Xuyên mới phát hiện ra, tất cả quan tài tổ tiên không nằm trong khu mộ địa, mà lại tập trung hết bên dưới mấy mẫu ruộng hoa màu bị héo.

Dường như sau khi chuyện này kết thúc trong lòng Mã Bình Xuyên luôn cảm thấy băn khoăn, những thầy phong thuỷ ở trong vùng sau khi tham dự biết được chuyện này, cực kỳ lo lắng sẽ mất mạng, đều chạy trốn cả. Cũng có không ít thầy phong thuỷ ở vùng khác cho rằng đây là một cơ hội hiếm có, liền mạo hiểm chạy tới. Lằng nhằng cả tháng trời, đến lúc làm cho Mã Bình Xuyên buồn phiền trong lòng, bị lừa đến mức quá bực tức, phải ra lệnh đóng cửa chối khách, chỉ cần nhìn thấy thầy phong thuỷ đi tới thì đánh đuổi đi.

Đóng cửa ở trong nhà được ba ngày, trong lúc Mã Bình Xuyên đang tập Thái Cực quyền ở ngoài vườn, đột nhiên nhìn thấy trên nóc nhà mình có một đứa trẻ đang ngồi.

Đứa trẻ này, vẻ mặt rất điềm tĩnh, ngồi ở trên hiên gác mái, mặc áo trường sam* màu xanh, dáng vẻ chỉ chừng mười mấy tuổi. Nhìn Mã Bình Xuyên, không nói gì.

( Trường sam là một loại áo dài của nam vào thời đó.)

Làm Mã Bình Xuyên sợ hết hồn, lập tức gọi tới cảnh vệ tới, cứ tưởng là Hồ tiên hay là thứ gì đó không sạch sẽ. Chuyện kỳ lạ xảy ra liên tiếp mấy ngày nay, làm cho hắn vô cùng nhạy cảm với mấy việc này.

Thật ra, hắn nghĩ như vậy thì cũng không phải không có nguyên nhân, bởi vì nhà hắn được canh giữ rất nghiêm ngặt, bình thường thì đừng nói là một tên tiểu mao tặc, ngay cả mèo hoang còn không vào được. Trong khi đây chỉ một đứa trẻ còn nhỏ như vậy, làm sao nó có thể đi sâu vào trong sân thế chứ? Mấy tên cảnh vệ này rốt cuộc làm ăn cái kiểu gì vậy không biết?

Một đứa trẻ mới có mười mấy tuổi đột ngột xuất hiện ở trong này, chỉ có thể là yêu quái mà thôi!

Nhưng hắn nhìn thật kỹ lại đứa trẻ này, thì phát hiện là người sống, hơn nữa còn có hô hấp, thật sự là một người đang ngồi ở trên mái nhà.

"Tiểu tử thối, ngươi là từ chỗ nào đi vào đây vậy?!" Mã Bình Xuyên ngay từ khi còn trẻ đã rất thích trẻ con, sau khi đã nhìn rõ ràng thì bắt đầu cảm thấy hiếu kỳ, giữ tên cảnh vệ đang định trèo lên bắt đứa trẻ lại, ngẩng đầu lên hỏi chuyện với đứa bé.

Đứa nhỏ vẫn không nói lời nào, chỉ đưa tay chỉ về một hướng, lúc ấy Mã Bình Xuyên không hề ý thức được, nơi mà đứa bé đang chỉ là phần mộ địa tổ tiên mình.

"Ngươi có biết đây là nhà của ai không, sao ngươi lại dám tuỳ tiện xông vào chứ?" Mã Bình Xuyên càng nhìn đứa trẻ này, càng thấy rằng thằng quỷ nhỏ này lớn lên rất sạch sẽ, không khỏi cảm thấy vui mừng.

(Cho phép nói một câu thôi: Ý ông muốn bắt zề nuôi chớ gì.... =_=, huhu ta cũng muốn bắt về nuôi lắm, trùi ui!!! Tiểu Ca lúc còn nhỏ chắc dễ thương lắm.... aaaa~~~~)

Lúc này đứa trẻ mới nói: "Tôi biết quan tài tổ tiên của các người ở đâu."

Mã Bình Xuyên nhíu nhíu đầu mày, hắn thực sự cảm thấy rất phiền khi nghe tới vấn đề này, chỉ là nhìn thấy đứa trẻ này, trong lòng lại cảm thấy buồn bực không biết đây là cái loại tình huống quái quỷ gì. Có điều, nếu là thầy phong thuỷ nói tới chuyện này chỉ đơn giản là để lừa tiền, nhưng một đứa trẻ mới có mười mấy tuổi nói tới chuyện này, lại khiến cho người ta có cảm giác cuống cuồng sợ hãi.

Từ trước đến nay thế lực của Mã Bình Xuyên làm chủ cả một phương, đương nhiên sẽ không dễ gì bị mấy việc này hù doạ được, quát: "Tiểu tử, mấy câu này là ai dạy cho ngươi, mấy lão già đó dám lấy mấy cái thứ chó má* nhạt nhẽo kia lừa gạt tiền của ta, ngay cả tiểu quỷ nhà ngươi cũng dám bép xép sao?"

(Nguyên văn là dương cụ => nhưng bất lịch sự quớ, nên em đổi thành chó má*. Lão này nói chuyện với trẻ con mà cũng chửi tục, không thể chấp nhận được mà)

Đứa trẻ tuyệt nhiên lại không hề sợ, thản nhiên nói: "Tôi đã tới được nơi này, muốn tiền thì có thể tuỳ ý lấy. Tôi chỉ tới đây nói cho các người biết, tôi biết mấy cái quan tài kia đi đâu rồi."

Mã Bình Xuyên nghĩ cũng đúng, ngay cả nội viện cũng đã đến rồi, phòng thu chi lại ở ngay bên kia, tiểu quỷ này muốn tiền thì có thể trực tiếp xuống lấy, hơn nữa nó đã vào được chỗ này, đương nhiên cũng có thể đi ra ngoài mà thần không hay quỷ không biết.

Kinh nghiệm bản thân nói cho hắn biết, đứa trẻ này nhất định cũng không hề đơn giản, liền kiềm hãm bản tính của mình lại, hỏi:"Vậy ngươi nói đi, quan tài trong mộ phần tổ tiên của Mã gia chúng ta, đang ở chỗ nào chứ?"

Đứa trẻ nói: "Bây giờ tôi nói nhất định là ông không tin, ông không ngại cùng tôi đi một chuyến tới mộ địa chứ." Mã Bình Xuyên nhìn cảnh vệ một chút, lại liếc nhìn đứa trẻ một cái, cái tên tiểu quỷ này cứ thản nhiên nhìn hắn như vậy, khiến cho hắn có cảm giác đây là một kiểu khiêu khích rất khó chịu.

Song đây cũng không phải là một kiểu trao đổi công bằng, Mã Bình Xuyên nghĩ rằng, nhất định trong bụng tiểu quỷ này cảm thấy hắn không phải là một người đáng sợ, nên mới có thể nhìn hắn bằng một ánh mắt như vậy, hơn nữa còn có cảnh vệ ở đây, hắn phải cân nhắc một chút, ở trong vòng mười dặm, tám thôn nơi này, cho dù có gió thổi cỏ lay hay cái gì, hắn sẽ là người đầu tiên biết được. Hắn sợ cái gì chứ, chẳng lẽ lại sợ có người ở trong mộ nhảy ra ám toán hắn?

Có sóng to gió lớn gì mà hắn chưa từng thấy qua, nếu như thật sự có người muốn ám toán hắn, vừa đẹp, cũng có dịp để cho binh lính dưới tay hắn luyện tập một chút. Chứ cứ hèn nhát ở trong này, bị cảnh vệ nhìn thấy, không khỏi có chút mất mặt.

Mã Bình Xuyên liền nói với cậu bé: "Được, cứ quyết định vậy đi, ngươi xuống đây, phải cưỡi ngựa đi sao?"

Cậu bé không nói lời nào, trực tiếp phi thân từ trên mái nhà xuống dưới, động tác nhẹ nhàng như một con báo, cũng chỉ gật đầu.

Mã Bình Xuyên triệu tập một nhóm cảnh vệ, rồi leo lên ngựa đem theo đứa bé, một mạch lao đi đến vùng ở gần mộ địa. Trên mộ địa, đứa trẻ chỉ chỉ mấy mẫu ruộng đã khô héo xung quanh, nói với hắn: "Ông xem, những mẫu ruộng này đã chết héo cả rồi."

"Có mù đâu mà không thấy." Mã Bình Xuyên nói,"Tiểu quỷ, tốt nhất ngươi đừng có đùa giỡn với ta, nếu không lão tử sẽ bắn chết ngươi ngay tại chỗ đấy. Nói mau, quan tài đi đâu vậy?"

"Ông nhìn kỹ xem, mấy mẫu ruộng bị chết héo này, giống cái gì?" Đứa trẻ nói.

Mã Bình Xuyên nhìn những mẫu ruộng hoa màu bị khô héo xung quanh, nhưng thật ra hắn cũng không có nghĩ tới phải xem hình dạng của mấy cái ruộng khô này. Nhưng mà nơi bọn họ đang đứng không đủ cao, căn bản không thể nhìn ra nó là cái giống gì, vì thế hắn nháy mắt ra hiệu cho một tên cảnh vệ, người kia lập tức trở người leo lên một cây đại thụ gần đó, thoáng cái đã leo lên tới ngọn cây, nhìn ra bốn phía xa xa, rồi nói to xuống: "Ông chủ, như là một con hạt tử!" (Bọ cạp, là con bọ cạp đó :D )

Mã Bình Xuyên nhíu mày, nghĩ thật sự còn có cách giải thích này sao, cũng không cố quay lại nhìn là cái hình gì, lập tức xông tới dưới tàng cây, cũng cắn răng cố gắng trèo lên cây. Vừa đi lên tàng cây nhìn xuống, trong lòng không khỏi lộp bộp một chút, quả nhiên, hình dạng của mấy mẫu ruộng bị chết héo kia, giống y như một con bọ cạp cực kỳ to lớn đang giương nanh múa vuốt.

Hắn liền quay về đứa bé đang ở phía dưới, rống to:"Đây là cái chuyện quái quỷ gì vậy?"

Chương 3: Chuyện Kỳ lạ đầu tiên (hạ)

Hình dạng này vô cùng tinh tế, tuyệt đối không phải là do tự nhiên hình thành. Nhưng mà, nếu thật sự có người muốn làm mấy chuyện này, hơn nữa chỉ trong một đêm mà khiến cho hoa màu héo tới mức như vậy, làm sao có thể làm được chứ?

"Ở dưới mặt đất nơi này, có chôn một vật gì đó cực kỳ lớn." Đứa trẻ nói, "Ông nhìn đi, thứ ở trên mặt đất là 'cái bóng' của nó."

Mã Bình Xuyên từ trên cây tuột xuống, lại leo lên ngựa, vẻ mặt lúc này đã rất khó nhìn. Đầu tiên, hắn có chút hối hận vì sao bản thân quá sơ suất, không phát hiện ra cái hình dạng bí ẩn này sớm hơn. Thứ hai, những gì đứa bé này nói vẫn làm cho hắn có chút bán tín bán nghi.

Cái này là có ý gì? Bên dưới mặt đất có chôn một thứ gì đó cực lớn, mà cái hình bóng này lại là hình một con bọ cạp. Mà tại sao "cái bóng" này lại khiến cho hoa màu bị héo được? Dưới đất có chôn thứ gì chứ, chẳng lẽ là một con bọ cạp khổng lồ sao?

Chuyện này sao có thể được, một con bọ cạp cực lớn chôn dưới đất, giờ ngoại trừ bỏ trốn thì cũng không thể làm được cái gì hơn nữa.

Hắn quay lại hỏi đứa bé, thì thấy đứa trẻ đã thúc ngựa đi ở phía trước, đi một mạch xuống chân núi, quay lại nói với Mã Bình Xuyên: "Khu nghĩa trang này của các người, xây ở bên trên một ngôi cổ mộ, phạm vi hoa màu chết héo mà ông thấy, chính phạm vi của địa cung cổ mộ kia. Đại khái cổ mộ này nằm sâu ở bên dưới bốn mươi mét, địa cung này được xây thành hình bọ cạp vô cùng quỷ dị, không biết là có dụng ý gì." Dừng lại một chút, đứa bé lại tiếp tục nói: "Hoa màu nơi này bị héo, là vì trong lúc xây dựng cổ mộ, bên trong đặt một loại cơ quan, mới đây do có trộm mộ đi vào trong cổ mộ, làm cho cơ quan hoạt động, vì thế có một lượng lớn khí độc chảy ra bốc hơi lên, làm cho hoa màu ở bên trên chỉ trong một đêm bị độc chết."

"Tiểu quỷ, làm sao ngươi biết được mấy chuyện này?" Mã Bình Xuyên nói,"Chẳng lẽ mắt ngươi có thể nhìn xuyên qua sao?"

Đứa bé nhìn hắn một cái, thản nhiên nói: "Bởi vì tôi chính là tên trộm mộ kia."

Mã Bình Xuyên nhíu mày, kéo ngựa dừng lại, thủ hạ của hắn cũng đồng loạt dừng ngựa theo, đứa bé đang đi thấy ngựa xung quanh dừng lại cũng kéo ngựa dừng lại. Nó quay lại nhìn về phía Mã Bình Xuyên, hắn liền hỏi: "Ngươi nói cái gì? Tiểu quỷ, ngươi có biết nói linh tinh sẽ có hậu quả gì không? Đây chính là phần mộ tổ tiên Mã gia chúng ta, ngươi mới nói với ta là, chính ngươi đã quật khai phần mộ tổ tiên nhà ta làm cho cơ quan hoạt động, không những làm kinh động tổ tiên nhà ta, mà còn làm cho hoa màu của ta bị độc chết sao?"

"Tôi không có nói linh tinh." Đứa trẻ kia nói, "Hơn nữa tôi vẫn chưa có nói xong, bây giờ tôi mới nói cho người biết, quan tài của tổ tiên các người đang ở đâu."

Mã Bình Xuyên gật đầu, tay đã đặt lên cây súng lục ở bên hông, nói: "Được, vậy ngươi nói đi, quan tài đi tới chỗ nào? Có quan hệ gì với cái con bọ cạp này?"

"Bị ăn." Đứa bé kia nói, "Toà cổ mộ dưới kia đã đem mấy cái quan tài tổ tiên của nhà các người, 'Ăn' hết cả rồi."

"Ăn?" Mã Bình Xuyên cảm thấy tình hình quá mức quái dị, hắn như vậy mà lại cùng với một đứa trẻ mới hơn mười tuổi nói chuyện rất nghiêm túc, đã vậy còn bị khí thế của tên tiểu tử này áp chế hết mức. Mà kỳ lạ nhất là, hắn phát hiện, tất cả những gì tên nhóc này nói, lại làm cho hắn có chút tin tưởng. Hắn siết chặt cây súng trong tay, muốn làm cho mình quay về thế chủ động: "Tại sao lại nói là 'ăn' chứ? Cổ mộ này là vật sống sao?"

Đứa trẻ lắc lắc đầu: "Tôi không biết."

"Không biết?"

"Tôi chỉ biết ông có thể tìm được mấy cổ quan tài này ở đâu thôi, nhưng lại không biết vì sao quan tài lại bị toà cổ mộ lớn ở dưới đất kia ăn mất." Đứa trẻ nói, "Nếu như bây giờ ông khai quật nơi đây, ông sẽ phát hiện tất cả quan tài đều dính ở bên ngoài tường cổ mộ hình bọ cạp dưới kia, giống như là bị thứ gì đó hút vào vậy."

Đứa trẻ này thực sự rất điềm tĩnh, sự điềm tĩnh này vượt xa người bình thường, càng lúc càng khiến cho Mã Bình Xuyên cảm thấy không được thoải mái.

Nếu như ngươi nhìn thấy một đứa trẻ còn rất nhỏ nhưng lại không hề sợ ngươi một chút nào, cho dù ngươi có giỏi mấy cũng phải thận trọng một chút, bởi vì cái loại biểu hiện "Không sợ" này không thể giả vờ được. Thực sự không sợ nhất định chỉ có thể được sinh ra từ một tâm hồn mạnh mẽ không gì có thể sánh được, một người như Mã Bình Xuyên, vốn đã quen dùng quyền thế áp chế người khác, nhưng thật ra nội tâm lại không có bao nhiêu khí lực.

Sau khi đứa trẻ nói xong, quay lại nhìn về phía Mã Bình Xuyên, nói: "Tôi có một việc, cảm thấy cần phải thông báo cho ông một tiếng. Trong phạm vi mấy chục dặm nơi này, chưa tới mấy tháng nữa sẽ không còn một ngọn cỏ, dù là mấy chục năm sau cũng không thể phục hồi lại như cũ được, mọi người còn ở đây, có thể họ sẽ không thể chết yên bình được. Nhân khẩu ở đây lại rất đông, ông làm chúa của một vùng, thật sự sẽ có thể làm được chút gì đó, hoặc có lẽ tình hình cũng không đến nỗi như lời tôi nói."

"Làm như thế nào?" Mã Bình Xuyên hỏi,"Tiểu quỷ, ngươi tìm đến ta nói mấy chuyện này, nhất định là có mục đích, nếu không ngại hãy nói rõ sự việc đi."

Đứa trẻ nói: "Tôi có mấy người đồng đội, hiện tại vẫn còn kẹt ở trong cổ mộ dưới kia. Tôi ở trong cổ mộ đã thấy quan tài tổ tiên nhà các người, biết là vọng tộc Mã gia các người ở nơi này, vì quan tài chạy tới đây mà xảy ra hỗn loạn, nên mới đến thông báo một tiếng. Đồng thời, tôi muốn ông giúp tôi hai việc. Thứ nhất, chuẩn bị cho tôi bảy ngày lương khô, một thanh đoản đao nặng sáu cân, đèn dầu và một túi bột than, tôi muốn đi xuống cứu bằng hữu của tôi, cũng sẽ nghĩ cách phong kín mấy cái lỗ hổng trong cổ mộ. Thứ hai, xin ông hãy đào mấy cái lỗ gần mép vùng hoa màu bị héo này, dùng cây gậy trúc dài năm trượng đổ vôi vào trong, rồi cắm xuống, chỉ chừa lại một ngón tay (một tấc), càng dày càng tốt."

"Tại sao phải làm như vậy?"

"Để hạn chế phạm vi hoạt động, thứ ở bên dưới rất hung, nhất định phải vây chặt, rồi giải quyết nó ở trong này." Đứa trẻ nói, "Tôi từ bên trong đi ra, nói với ông mấy việc này, không phải là dễ dàng gì, lúc này bằng hữu của tôi đang bị nhốt ở bên dưới, chưa biết sống chết thế nào, nhưng chuyện này là do chúng tôi mà ra, nhất định tôi sẽ giải quyết. Nếu như bảy ngày sau tôi không quay lại tìm ông, xin ông hãy gửi phong thư này về quê nhà giúp tôi."

Từ trong ngực đứa trẻ lấy ra một phong thư, đưa cho Mã Bình Xuyên: "Nếu bảy ngày sau tôi không có đi ra, nơi này, cố gắng tuyệt đối không được để cho con cháu của ông tới gần."

Mã Bình Xuyên nhìn lên bìa phong thư, người nhận thư là Trương gia ở Đông Bắc, liền nhíu mày nói: "Tiểu quỷ, rốt cuộc ngôi mộ bên dưới là của ai? Tại sao lại hung như vậy? Nếu như là đại phần mộ của tổ tông Mã gia, ta lại đi ngúp người ngoài đụng đến mộ phần tổ tiên hình như không được thoả đáng lắm?"

Đứa trẻ nói: "Mã gia nhà ông hưng thịnh như vậy, cái loại này tà huyệt này không có liên hệ đến nhà ông, các người xây mộ ở nơi này, không chừng chỉ là trùng hợp mà thôi. Toà cổ mộ bên dưới này, tuy không rõ mộ chủ là ai, nhưng nhìn hình dáng của mộ thất này nhất định không phải là người bình thường."

Mã Bình Xuyên ngẫm nghĩ, cái hắn đang suy luận là thứ khác, nếu như cổ mộ này không phải là của tổ tiên nhà hắn, quy mô cổ mộ này lại lớn như vậy, trong đó nhất định là có rất nhiều tiền bạc châu báu, chỉ trơ mắt nhìn tên tiểu quỷ này đem đi hết, vậy thì mình không phải là đồ đầu heo sao?

(sao giống Bàn Tử vậy trời -_-lll )

"Hôm nay tôi đã nói quá nhiều rồi, ông không cần hỏi nữa." Đứa trẻ nói, "Ông có thể giúp tôi hay không, cho một câu trả lời chính xác đi."

Ngay trong buổi tối hôm đó Mã Bình Xuyên đã chuẩn bị tốt những gì đứa trẻ muốn, đứa trẻ mang theo bánh màn thầu (bánh bao), rồi lập tức biến mất trong bóng đêm. Ngày hôm sau, hắn dựa theo những gì đứa trẻ đó hướng dẫn, hạ lệnh cho thủ hạ đi khắp thôn mua trúc dài và vôi, đem cả khu vực đó vây quanh một lần.

Ý nghĩ của Mã Bình Xuyên là, chờ cho đến khi tiểu tử này giải quyết xong chuyện ở bên dưới, khi nào đứa trẻ ra ngoài hắn sẽ bắt lại cho bằng được, buộc nó đem người của mình tiến vào cổ mộ, hoặc là dứt khoát lấy độc trị độc, buộc bọn chúng phải giao hết tiền của trộm được giao cho hắn, dù sao cổ mộ này cũng nằm ở trên địa bàn của hắn.

Nhưng mà, từ ngày hôm đó trở đi Mã Bình Xuyên không còn nhìn thấy đứa trẻ kia nữa.

Việc lạ đến đây vẫn chưa kết thúc, Mã Bình Xuyên là vì hám lợi tới mức lòng dạ trở lên xấu xa, hay là đối với toà cổ mộ bí ẩn dưới đất sinh lòng hiếu kỳ, mà nữa tháng sau, hắn hạ lệnh khai quật cổ mộ kia, muốn đào đỉnh của cổ mộ bí ẩn kia lên, xem thử rốt cuộc nó là cái dạng gì.

Nhưng ngoại trừ đào ra được một cái hố lớn cực sâu, thì không phát hiện cổ mộ nào cả, chỉ đào ra được hai con bọ cạp bằng sắt màu đen dài hai trượng. Tiếp tục đào sâu xuống bên dưới hai con bọ cạp bằng sắt kia, bùn đất cứ liên tiếp sụp xuống, hơn nữa việc này đã làm kinh động đến các thế lực ở khắp nơi, cũng mò đến thăm dò, Mã Bình Xuyên thấy vậy biết việc này không thể làm tiếp nữa, đành phải đem bùn đất lấp cái hố lại.

Nhiều năm sau, Mã Bình Xuyên mới nhớ tới lá thư mà đứa trẻ nhờ hắn gửi giúp, hắn phái người đến địa chỉ ghi trên bìa thư, đồng thời cũng bắt đầu đi dò hỏi, lại phát hiện địa chỉ kia là một cái đại trạch viện cực lớn, chỉ có điều người đi - nhà trống. Người trong vùng nói, Trương gia ở nơi này vốn là một vọng tộc rất nổi tiếng, làm việc vô cùng khiêm tốn, thế nhưng không biết vì sao, thời gian trước đây lại đột nhiên suy tàn, từ đó cũng không xuất đầu lộ diện nữa.

Không ai biết, cuối cũng đứa trẻ kia đã đi đâu. Bên dưới mộ phần tổ tiên của Mã gia thật sự có một địa cung hình con bọ cạp hay không?

Mã Bình Xuyên cũng chỉ là suy đoán, đứa trẻ này hẳn là họ Trương, nếu như nó còn sống, nhất định là nó sẽ là một người vô cùng lợi hại.

Chương 4: Chuyện kỳ lạ thứ hai

Lại nói đến một sự việc kỳ lạ nữa.

Trần Tuyết Hàn thật ra cũng không biết Tây Tạng, sau khi hắn đổi nghề không đi lính nữa, mới đến Tây Tạng, hắn ở lại nơi đó đã hơn một năm, rồi lại ở Mặc Thoát ba năm, nhưng chỉ là nán lại mà thôi.

Ở Tây Tạng vào năm đó, sự khó khăn vượt quá mức con người có thể tưởng tượng được, nhưng mà, một khi đã thích ứng với nơi đó rồi, sẽ dễ dàng tự tìm được cho mình một lý do để ở lại.

Trần Tuyết Hàn cũng giống vậy, những gì hắn biết về Tây Tạng chỉ giới hạn ở nơi hắn thấy được, lý do để hắn lưu lại chốn này, cũng chỉ là thói quen.

Trong mắt hắn, đem mọi thứ ở Tây Tạng dùng lời văn mà viết xuống, thì nó sẽ là giống như là bỏ cái chính lấy cái phụ. Hắn không cần phải hiểu Tây Tạng, bởi vì Tây Tạng đối với hắn mà nói cũng không phải là một khái niệm, hắn thích nơi này là vì bản thân nó, chứ không phải cái tên. Đối với những lời nói ngưỡng mộ văn hóa thần bí ở Tây Tạng của du khách, hắn cũng không hề xem thường. Vậy vì sao hắn lại đến nơi này? Lý do là ở đây có bầu không khí vừa loãng vừa trong lành, ở trong Đại Tuyết Sơn mênh mông, yên tĩnh giống như Thiên Đường ở giữa cánh đồng tuyết bát ngát, ở nơi này không cần những lời khen ngợi khoa trương trong truyền thuyết.

Mấy năm trước đây, hắn dựa vào vài lần làm công ngắn hạn cho người dân bản xứ, cầm đồ khuân vác kiếm chút bơ và thịt dê. Sau này đến Mặc Thoát, hắn mở một tiệm cơm cũ nát, những năm đó cũng không có nhiều người dư tiền bại não đi đến Tây Tạng để tìm kiếm ý nghĩa của sinh mệnh như vậy, phần lớn khách của hắn chỉ là người nhà của của quân nhân đến thăm hay mấy người lính trạm biên phòng địa phương.

Trong một năm ở Mặc Thoát đã có tám tháng bị gió tuyết bao phủ, ở Đa Hùng Lạp Sơn tuyết còn nhiều và hung hiểm hơn nữa, trong những tháng đầy gió tuyết ấy, du khách đến rất ít, hắn sống một mình phía sau tiệm cơm, cái sự yên tĩnh này làm cho hắn say mê, hơn nữa cũng rất ít người sẽ đến quấy rầy sự yên tĩnh của hắn.

Hắn không biết sự ham muốn ở ẩn này của mình là từ đâu mà đến, có lẽ là do khi hắn còn nhỏ đã nằm mơ thấy bản thân mình đã từng đứng ở trên đỉnh Tuyết Sơn, đó là một sự điềm tĩnh rất siêu phàm, vì nguyên nhân đó mà hắn tìm đến nơi này.

Song, không phải năm nào, hắn cũng có thể hưởng thụ cái sự yên tĩnh này, vào mùa đông năm đó, lại có một ngoại lệ.

Mùa đông đó hình như đặc biệt dài đằng đẵng, nhưng Trần Tuyết Hàn đã không còn nhớ chính xác là tháng nào nữa, chỉ nhớ rõ tuyết rơi liên tục ba ngày, buổi sáng khi đang đứng quét tuyết, liền thấy một vị Lạt Ma kia đứng trước cửa tiệm cơm của hắn.

Đây là Lạt Ma ở Cát Lạp Tự, hình như tên là Trát Cát, trước đây đã từng lén cùng với Trần Tuyết Hàn uống rượu.

Cát Lạp Tự là miếu Lạt Ma ở trên đỉnh Tuyết Sơn, thời điểm khi Trần Tuyết Hàn làm khuân vác hắn vẫn thường xuyên đi qua chỗ đó, cũng rất quen thuộc với các Lạt Ma ở trong miếu.

Muốn từ Cát Lạp Tự đến nơi đây, phải đi nửa ngày. Lúc đó trời đã tờ mờ sáng, tuyết còn chưa dừng, trên người Trát Cát kết đầy hoa băng, rõ ràng là hắn đã xuống núi vào ban đêm. Cho dù có biết rõ đường đi ở núi Lạt Ma, nhưng ở giữa tuyết lớn mà xuống núi ban đêm cũng vô cùng nguy hiểm, Trần Tuyết Hàn đoán nhất định là đã xảy ra chuyện gì đó, mới có thể khiến cho hắn không thể không mạo hiểm đi suốt đêm xuống đây như vậy.

Dường như Trát Cát đã tiêu hao hết sức lực, chỉ đứng ở đó không hề phản ứng, Trần Tuyết Hàn dùng Tạng ngữ vẫn còn chưa sõi hỏi hắn làm sao vậy.

Trát Cát không có trả lời hắn, chỉ lấy ra một ít tiền nói: "Xin lấy cho tôi một phần ăn, tùy tiện cái gì cũng được, tôi còn phải gấp rút lên đường."

Trần Tuyết Hàn hỏi hắn: "Đi đâu vậy?"

Trát Cát nói: "Tôi muốn đi Mã Phổ Tự."

Mã Phổ Tự là một ngôi chùa lớn, ở bên ngoài Mặc Thoát. Trần Tuyết Hàn vô cùng kinh ngạc, vì hiện tại trong mùa này mà vượt qua Đa Hùng Lạp Sơn quá mức nguy hiểm, cho dù có lý do đặc biệt cỡ nào, cũng phải chờ tuyết ngừng rồi tìm người cùng đi, nếu không rất dễ gặp phải những hố tuyết, hơn nữa lúc này có rất nhiều chỗ trên sơn đạo cũng không thể nào nhìn cho rõ được.

Vì thế Trần Tuyết Hàn bảo Trát Cát đi vào trong nhà, chuẩn bị cho hắn vài ổ bánh mì Thanh Khoa, vừa làm vừa hỏi hắn có phải trong chùa đã xảy ra chuyện gì không.

Trát Cát lại len lén hỏi hắn, muốn lấy thêm mấy bầu rượu, mới nói: "Là như thế này, Thượng Sư muốn tôi đi đến Mã Phổ Tự nói cho bọn họ biết, người kia, đã trở về rồi."

Trần Tuyết Hàn càng nghe càng thấy kỳ quái, "Người nào? Người đó từ đâu đến? Có du khách vào núi sao?"

Vào mùa này, vẫn còn có người đến Mặc Thoát sao? Hiện tại tuyết ở trên Tuyết Sơn rất lớn, ngay cả dân bản xứ cũng không dám đi bừa vào, trừ phi có một đại đội người ngựa, chỉ có điều nếu xảy ra chuyện như vậy, nhất định hắn sẽ nghe nói tới, thế mà rõ ràng vẫn không có ai đồn thổi chuyện gì. Hơn nữa, lại đến một toà miếu Lạt Ma ở trên đỉnh Tuyết Sơn, việc có khách đi tới lại càng thêm kỳ lạ.

Trát Cát lắc đầu, bắt đầu gói mấy ổ bánh mì Thanh Khoa lại, nói: "Không phải là người từ bên ngoài vào núi." Nói rồi chỉ chỉ vào mênh mông Tuyết Sơn, "Là người từ bên trong Tuyết Sơn đi đến, tôi cũng không biết người đó rốt cuộc là ai."

Khẩu âm Tạng ngữ của Trát Cát có chút quái lạ, Trần Tuyết Hàn nghe là kỳ quá cũng không cảm thấy hứng thú, Trát Cát nhất định là người xứ khác, được cha mẹ đưa đến nơi này làm Lạt Ma. Tuy rằng Cát Lạp Tự cũng không được coi là chùa miếu lớn gì, nhưng Lạt Ma ở nơi này lại nổi tiếng là trí giả xa gần, đã có hơn một trăm năm rồi, vì thế có rất nhiều người đều đem con của mình đưa đến toà miếu ở trên đỉnh Tuyết Sơn này học tập đại trí tuệ.

Khách từ bên trong Tuyết Sơn đi đến, đây có lẽ là một cách nói bí ẩn, những câu nói của Lạt Ma vốn có rất nhiều điều cực kỳ khó hiểu, mà thật ra ý nghĩa bên trong cũng rất sâu xa.

Trần Tuyết Hàn biết chuyện xảy ra trong miếu, chắc hẳn việc Thượng Sư nói Trát Cát cũng không rõ lắm, hơn nữa hỏi nhiều cũng không được lễ độ mấy. Vì thế giúp Trát Cát sắp xếp cái túi, đem rượu và thức ăn bỏ vào.

Hắn vẫn làm theo thói quen của mình, đi cùng Trát Cát một đoạn, giúp hắn đeo cái túi lên lưng, điều này cũng chính là một cách lễ Phật, tuy rằng Trần Tuyết Hàn không tin vào Phật, nhưng hắn cảm thấy cách này làm cho bản thân trở nên yên lòng.

Tuyết lúc này đã rơi ít một chút, Đa Hùng Lạp Sơn ở phía xa xa trắng xoá một vùng, cùng với mây trời trắng xám hoà thành lẫn với nhau, kiểu cảnh sắc này khiến cho tâm hồn con người rạo rực. Bọn họ cũng không có nói chuyện, chỉ có tiếng bước chân giẫm lên nền tuyết, đi được một giờ, Trát Cát dừng lại, Trần Tuyết Hàn nhịn không được, hỏi có nên tìm vài người dân trong thôn đi cùng sẽ ổn thoả hơn.

Trát Cát quay lại nhìn Trần Tuyết Hàn cười cười, lắc đầu nói: "Không cần lo lắng, tôi nhất định sẽ thuận lợi làm xong mọi chuyện." Hắn nói một cách rất bình thản, tuy rằng cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng trong lòng lại tràn ngập vui sướng. Nói xong cậu hành lễ với Trần Tuyết Hàn, có ý tạm biệt.

Trần Tuyết Hàn cũng đáp lễ với cậu, trong lòng lại có chút nghi hoặc, ruốt cuộc trong Lạt Ma miếu đã xảy ra chuyện gì, lại có thể làm cho vị tiểu Lạt Ma này để lộ ra vẻ mặt bình thản như vậy?

Hắn có phần thất thần, lẳng lặng nhìn theo bóng Trát Cát đi càng lúc càng xa, đột nhiên, Trát Cát quay đầu hướng về phía hắn nói một câu.

Hắn nghe không hiểu là có ý gì. Câu nói kia bị gió thổi tán đi trong hoa tuyết. Cho đến khi hắn muốn chạy đuổi theo, thì vị Lạt Ma đã biến mất ở trong gió tuyết trắng xoá, giống như từ trước đến nay chưa từng tồn tại vậy.

Hai sự kiện này, xảy ra ở hai nơi cách xa nhau cả ngàn dặm, nhưng mà, bí mật bên trong hai chuyện này, tỉ mỉ kể lại, thì hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi. Ngôi cổ mộ bí ẩn ở Trung Nguyên và vị khách đến từ sâu bên trong Tuyết Sơn ở Tây Tạng, hai chuyện này có mối liên hệ gì với nhau mà người khác không biết? Bí mật lớn nhất ẩn nấp ở phía sau lịch sử Trung Hoa, có thể đây sẽ là cơ hội để tìm ra lời giải.

Chương 5: Bắt đầu luân hồi

Sau khi xảy ra chuyện kia, tôi mới bắt đầu sắp xếp cận thận lại sự việc, rồi cầm bút ghi lại, mà hoàn toàn là vì sự việc đã phát triển theo hướng không thể tưởng được, tuy rằng những tiến triển của việc này không có kinh tâm động phách như suy nghĩ trước đây của bản thân, nhưng nó lại mang đến một lượng tin tức vượt xa dự tính của tôi.

Sau khi tôi trải qua sự kiện đó, đã hiểu rõ một đạo lý, có rất nhiều câu đố và chân tướng của sự việc ngươi không cần phải dồn hết tâm trí đi truy tìm nó làm gì, chờ cho đến khi tất cả bụi cát phủ trên nó rơi xuống, cũng sẽ theo thời gian dần trôi qua mà hiện ra thôi.

Có một nhà hiền triết đã từng nói rằng, chỉ khi nào thuỷ triều rút xuống mới có thể thấy được người nào không có mặc quần. Hoặc tôi dùng một ví dụ khác thích hợp hơn để hình dung, chính là vào thời điểm ngươi đang cố gắng đi tìm một thứ đồ gì đó, bình thường cho dù ngươi có lật tung tất cả xó xỉnh ở trong nhà mình cũng không tìm ra, nhưng khi ngươi không hề cố gắng đi tìm nó nữa, thì cuối cùng vào một thời điểm nào đó nó lại xuất hiện trước mắt ngươi. Có một số bí ẩn cũng là cái dạng này.

Sau chuyện đó, tôi đã từng suy sụp tinh thần một thời gian rất dài. Đoạn thời gian đó, tôi luôn luôn cùng lúc trải qua hai loại trạng thái, một là vô cùng uể oải, cái gì tôi cũng không muốn làm, chỉ muốn nằm ở trên cái ghế dựa, nhớ lại một đoạn thời gian trước kia, sau đó lại nghĩ nếu như khi đó không phải tôi lựa chọn trường hợp đó, thì sẽ không có kết quả như vậy. Nghĩ nếu không phải vì tôi một mực truy tìm đáp án, cũng không mắc phải chứng tự kỷ ám thị nặng như vậy, có lẽ tôi sẽ từng bước từng bước rẽ sang một cuộc sống khác, biết đâu so với bây giờ thanh thản hơn nhiều. Từ một phương diện khác mà nói, không biết một việc so với biết sơ sơ hay biết rõ vẫn là tốt hơn rất nhiều, hiểu được so với không hiểu được thì đau khổ hơn rất nhiều.

Còn một trạng thái khác chính là tôi càng không ngừng tự động viên bản thân mình, nói với chính mình rằng có một số việc cho dù không muốn làm, tôi nhất định cũng phải làm.

Cho nên trong lòng của tôi vẫn luôn ở một trạng thái mâu thuẫn như vậy, ngay cả trong lúc tôi đang quản lý cửa hàng của chú Ba. Ban đầu, bởi vì không có Phan tử, rất nhiều chuyện tôi chỉ có thể tự mình làm, mỗi một bước đi đều rất gian nan. Khi tôi cảm thấy quá mệt mỏi nghĩ rằng phải từ bỏ, tôi liền nhớ tới bài hát Phan tử cho tôi nghe lúc trước.

"Tiểu tam gia phải đi về phía trước, Tiểu Tam gia không thể lui về phía sau."

Tôi không có tư cách lui về phía sau.

Trong lĩnh vực làm ăn này, cái mà tôi nói là đi về phía trước thực ra cũng chỉ là làm một số chuyện nhỏ mà thôi. Nếu như ngay cả trên lĩnh vục này mà tôi còn muốn lui về phía sau, thì thực sự tôi đã có lỗi với rất nhiều người. Cho nên tôi phải cố gắng.

Đến quý thứ hai của năm thứ hai, có rất nhiều chuyện đã được tôi sắp xếp hoàn thiện. Tôi phát hiện được một bí quyết, ban đầu khi ngươi đã làm một việc rất hoàn chình rồi, thì sẽ phát hiện, đặc biệt sau khi ngươi đã nhảy qua được giai đoạn tích luỹ phát triển đến một trình độ nhất định, thì sự việc lại càng thêm đơn giản, bởi vì ngươi có cơ hội phạm sai lầm, ngươi có cơ hội quay đầu, mà nếu như tình hình là toàn bộ lợi ích ngươi có được lớn hơn hao tổn mà ngươi đã bỏ ra, thì cái hệ thống này của ngươi mới có thể sống sót được. Hơn nữa, rất nhiều kinh nghiệm của chú Ba dần dần tôi cũng chạm tới được.

Đến quý thứ ba, tôi dần dần đem một nhóm thủ hạ không quá hợp với mình mà loại bỏ đi, từng chút từng chút thay thế bằng người của mình, tuy rằng nói tình hình khi đó không có chú Ba nhưng bắt đầu làm việc này cũng không dễ dàng gì, chỉ có điều chuyện trao đổi mua bán vẫn hoạt động hết sức thoải mái.

Thấy tiền bạc chảy vào liên tục không ngừng, dần dần tôi đối với năng lực của mình cũng tin tưởng thêm một chút. Tôi phát hiện ra mình cũng không vô dụng như mình nghĩ trước đây - thì ra bản thân thật sực cũng nghĩ ra cách để thành công, hơn nữa cũng không quá khó khăn.

Sau khi tất cả mọi chuyện đã phát triển theo hướng ổn định rồi, một mặt tôi vừa đào tạo thêm thủ hạ, một mặt lập kế hoạch sau này, cũng dành một chút thời gian đi thăm hỏi mấy người bạn cũ của mình. Hay gặp nhất chính là bọn Tiểu Hoa. Cho đến bây giờ Tiểu Hoa vẫn còn phải dưỡng thương ở trong bệnh viện, trước đây vì tôi suy sụp tinh thần quá nhiều nên cũng không hề quan tâm đến thương thế của hắn. Tiểu Hoa cũng không phải là một nhân vật vô cùng quan trọng, thậm chí chuyện mà đội hắn đã trải qua trong Trương gia cổ lâu tôi cũng không biết được gì nhiều.

Tú Tú vẫn luôn chăm sóc cho Tiểu Hoa, tôi không đi tới tìm hắn cũng phần nào là do cô ấy, bởi vì chuyện của Hoắc Lão bà đối với cô ấy quá mức kích động. Thế nhưng trong thời gian tôi quản lý việc kinh doanh ở cửa hàng của chú Ba, tôi đã học được rất nhiều đức tính đáng quý, nói ví dụ như chuyện đối mặt với đau khổ. Tôi biết, khi thời cơ đã đến, trốn tránh chính là một phương pháp giải quyết tồi tệ nhất.

Chỉ khi nào để cho đau khổ phát ra, mới có thể làm cho nó dần dần giảm đi được, kềm nén thì lại không có tác dụng gì nhiều, khi đau khổ đạt tới mức đỉnh điểm thì tự nhiên sẽ dần hạ xuống.

Sau vài lần đến thăm hỏi, sự không thoải mái của tôi đôi với Tú Tú cũng biến mất vài phần. Tôi ở lại Bắc Kinh một thời gian, chuyên đi giúp Tiểu Hoa giải quyết một số công việc của gia tộc. Bởi vì khi đó tôi dựa vào thế lực và quan hệ của chú Ba ở phía Nam, dần dần lời nói cũng có chút quyền lực, nó giúp tôi có nhiều tư cách hơn để đi hỗ trợ người khác.

Mà thực ra mấy cái tư cách này tôi cũng không cần, thế nhưng cũng có lúc, hình như cũng không thể nói không cần dùng đến.

Sau khi giải quyết xong tất cả mọi chuyện, tôi mới bắt đầu cùng bọn Tiểu Hoa thảo luận những việc đã xảy ra lúc trước, tôi kể lại một số chi tiết mà tôi gặp ở bên trong Trương gia cổ lâu cho bọn họ biết: Phát hiện trong quan tài có vài món đồ trang sức của người Tạng và hai cái vòng ngọc, cùng với một vài cố sự cuối cùng của tôi với Muộn Du Bình.

Sau khi Tiểu Hoa nghe xong rất xúc động, hình như hắn đối với tất cả những bí mật này có chút chán ghét, Tiểu Hoa nói với tôi bình thường cũng sẽ không xuất hiện cảm xúc như vậy, đối với hắn mà nói, ngay cả cuộc sống của hắn cũng đã xảy ra không ít chuyện không muốn trải qua, từ việc khi còn nhỏ phải tiếp quản gia tộc, tham gia vào các cuộc đấu tranh, đủ các chuyện ghê tởm hắn cũng đều đã trải qua. Vì thế Tiểu Hoa cũng sẽ không đi chán ghét một lối sống nào đó nữa, mà bây giờ lại có cảm xúc như vậy, có thể thấy được mức độ nghiêm trọng của sự việc.

Tôi lấy mấy món trang sức người Tạng cầm được ở trong quan tài đưa cho Tiểu Hoa xem, còn cái nào không đem theo thì tôi vẽ ra. Sau khi Tiểu Hoa xem xong, nói với tôi: "Đây là những vật trang sức trong hệ thống Phật giáo ở Tây Tạng, nhưng chỉ có thể nói lên rằng chủ của cỗ quan tài đó có hứng thú với văn hoá Tây Tạng, chứ không thể chứng minh được thêm cái gì hết."

Tôi nói với bọn họ: "Nếu đã ở trong quan tài, tôi cho rằng, những vật chôn cùng này ít nhiều gì cũng sẽ có ý nghĩa đặc biệt nào đó. Nói ví dụ như, nếu là Tiểu Ca chết, vật bồi táng của anh ta nhất định sẽ là Hắc Kim cổ đao. Còn nếu là Trần Bì A Tứ, có lẽ là Thiết Đản tử (viên bi sắt). Từ những vật bồi táng trên, chúng ta mới có thể bắt đầu suy ra được một ít thông tin của chủ nhân nó."

Tiểu Hoa nói: "Ý cậu nói ông ta có huyết thống của người Tạng sao?"

Tôi nói: "Có lẽ có một thời gian rất dài ông ta đã hoạt động ở vùng đất của người Tây Tạng."

Tiểu Hoa thở dài một hơi, nói: "Thế lực của Trương gia vô cùng cường đại, có một số người trong bọn họ hoạt động ở Tây Tạng, điều đó cũng không có gì kỳ lạ cả."

Tôi nói: "Không phải là tôi cảm thấy kỳ lạ, chỉ là tôi cảm giác các loại này trang sức thực sự rất thường gặp, nếu người chết đã chọn vật này để chôn cùng, thì biết đâu trên những món trang sức này sẽ có một vài manh mối mà chúng ta không biết. Nếu cậu biết người nào hiểu rõ về những thứ này, có thể đưa bọn họ đến đây xem thử. Chúng ta không thể bỏ qua bất kỳ thứ gì có thể có manh mối."

Đương nhiên Tiểu Hoa cảm giác khả năng thành công không lớn, tôi không biết vì sao hắn lại có phán đoán như vậy, có lẽ, sau khi đã trải qua nhiều việc trước đó, tôi vẫn có thể giữ được sự hiếu kỳ, đối với bản thân tôi nó cũng chính là một căn bệnh rồi. Song, Tiểu Hoa cũng không hề ngăn cản tôi.

Sau khi chúng tôi kiểm tra cẩn thận những món trang sức, một đầu của những trang sức Tây Tạng này đều vô cùng lớn, hơn nữa đều được chế tác đặc biệt thô. Phần lớn những chi tiết trên đó đều là những thứ biểu tượng mang ý nghĩa Cát Tường truyền thống của người Tạng, cẩn thận quan sát, thậm chí có thể phát hiện cũng rất nhiều chi tiết không lệ thuộc về Tạng truyền Phật giáo mà thuộc về bổn giáo Mật Tông Phật Giáo Tây Tạng.

Chương 6: Vận mệnh lặp lại

Vào một buổi chiều nắng ấm, tôi nằm nghỉ ngơi trong bóng râm của căn phòng nhỏ.

Thật sự là nghỉ ngơi sao? Chắc cũng có thể coi là vậy, tuy rằng tôi vẫn thường xuyên nhớ tới những việc đã trải qua khiến tôi đau đầu, nhưng mà, trong lòng tôi thực ra hiểu rất rõ, chung quy những cái này cũng chỉ là hồi ức mà thôi.

Nói cách khác, tự hỏi mấy điều này, cũng không có nghĩa là tôi sẽ phải chống lại ai đó, có thể nói, tương lai sẽ đem đến sự nguy hiểm gì cho tôi. Vì vậy, tôi liền an tâm suy nghĩ.

Tuy rằng ở chỗ mát trong phòng, thế nhưng tôi vẫn không chịu nổi cảm giác oi bức, cả người đều rã rời lại có chút buồn ngủ. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy có người gõ cửa.

Lúc này là giữa trưa cửa hàng đang lúc nghỉ ngơi, vì không tự mình bán hàng, tôi cũng không muốn đi ra mở cửa làm lãng phí hơi lạnh của máy điều hòa. Tôi liền gọi Vương Minh vài tiếng, phát hiện cậu ta không đi ra mở cửa, cũng không trả lời tôi, thật không biết có phải đột nhiên phát bệnh tim mà chết không nữa,(ác mồm ác miệng thế -_-ll ) tôi chỉ có thể vực lại tinh thần, đi ra ngoài xem.

Vừa mới đi ra tới bên ngoài, tôi liền thấy một bóng người quen thuộc xuất hiện ở trong cửa hàng của tôi.

Ngời này là một lão già, vừa nhìn thấy tôi liền toét miệng cười, để lộ ra một hàm răng vàng.

Tôi gần như hít vào một ngụm khí lạnh, thấy Vương Minh đang nằm ngủ gục ở trên bàn máy tính không khác gì con lợn chết, tôi lập tức đi tới đạp cậu ta một cái gọi dậy.

Lão già thấy hành động của tôi, vừa định nói chuyện, thì tôi liền đi tới gọi Vương Minh dậy, kêu lên: "Dậy,đóng cửa thả chó, đuổi hắn ra ngoài cho tôi!"

Chính là cái tên rùa già này, khoảnh khắc hắn bước vào cửa hàng tôi năm đó, đã làm thay đổi vận mệnh cả đời tôi. Tôi tuyệt đối sẽ không cho phép tình huống này xảy ra thêm lần nữa.

Vương Minh còn đang mơ mơ màng màng chưa tỉnh ngủ, từ trước bàn máy tính ngồi dậy, liếc mắt nhìn tôi, hình như là hoàn toàn không hiểu được là tôi đang nói cái gì. Thấy tôi không nói gì nữa, lại lập tức nằm sấp xuống tiếp tục ngủ (^^) cậu ta chưa tỉnh ngủ thì phải. Tôi cũng không đợi để nói rõ cái gì với cậu ta, liền trở mình đi tới trước quầy, hướng về lão già kia quát lớn: "Lão cút đi cho tôi, lập tức rời khỏi tầm mắt của tôi ngay đi."

Lão Răng Vàng kia cười ha hả một tiếng, nói: "Tiểu ca, chúng ta đã lâu không gặp, trước giờ vẫn khoẻ chứ? Tính tình của cậu hình như hoàn toàn không thay đổi, vẫn giống y như mấy năm trước."

Tôi nói: "Ông đừng có nói nhảm nhiều như vậy, đời này của lão tử đây, con mẹ nó.. trên cơ bản đều bị con rùa nhà ông huỷ. Ông biết không? Những đại anh liệt nhà tôi, toàn bộ họ đều vì ông mà chết, nhân lúc khi tôi còn chưa nổi sát tâm, ông khôn hồn thì nhanh chóng rời khỏi tầm mắt của tôi."

Răng Vàng nói: "Cậu đừng có nói khoa trương vậy chứ, chuyện của mấy đại anh liệt nhà cậu, có liên quan gì đến tôi."

Tôi cũng không biết vì sao nổi cáu lên lúc này, nói xong liền hiện ra điệu bộ chỉ chực xông lên tát lão. Lão già thấy tôi thực sự không mua sổ sách, lập tức khoát tay nói: "Từ từ, dù gì cũng phải từ từ, tôi đây là có chút thông tin quan trọng, tôi có lòng tốt mới đến đưa cho cậu đấy."

Tôi nói: "Tôi không muốn biết bất kỳ tin tức nào của ông hết, tôi chỉ cảm thấy sự xuất hiện của ông là một chuyện cực kỳ xấu." Nói rồi tôi liền đẩy hắn đi.

Răng Vàng một mực bám chặt vào quầy hàng không chịu ra, vội nói: "Khoan! Khoan đã! Có tín vật ! Nhìn thấy tín vật cậu sẽ biết tầm quan trọng của việc này." Nói rồi lão rùa thò tay vào trong ngực lấy ra một cái điện thoại di động đưa cho tôi.

Lòng tôi nói: Lần trước cho tôi xem đồng hồ, lần này cho tôi xem di động, thật ... con mẹ nó, công nghệ càng lúc càng cao. Nhưng vừa thấy, tôi liền phát hiện đó là cái di động mà Tiểu Hoa vẫn thường dùng. Tôi nhận lấy bật lên xem, bên trong đã có sẵn một tin nhắn, trên đó viết: "Vạn Kim Đường vì đọc thấy quảng cáo trên báo mà tới đây, hình như có manh mối quan trọng nào đó, tôi đã nghe qua một lần, thật giả còn chưa rõ, tạm thời cậu nghe hắn nói sao đã, tôi giải quyết xong chuyện ở đây, lập tức đến Hàng Châu cùng bàn bạc với cậu kỹ hơn. Giải Vũ Thần."

Tôi đóng di động lại, thầm nghĩ: Khốn thật, lần này Tiểu Hoa tiến cử so với lần lão Dương giới thiệu càng làm cho người khác không có cách nào từ chối được.

Không thể không nể mặt mũi của Tiểu Hoa, trong lòng tôi suy nghĩ nên làm cái gì bây giờ, coi bộ phải nghe một chút vậy. Lão Răng Vàng này hiểu rõ cách đối nhân xử thế, đã có chuẩn bị từ sớm rồi à. Nhưng mà nhìn mặt hắn, tôi thật sự không nhịn được ý muốn tát lão một phát.

Vì thế tôi bảo lão rùa ngồi xuống, còn mình thì đi vào phòng trong uống vài ngụm nước lạnh cho tỉnh táo một chút. Vào phòng trong, có lẽ vì bên trong vốn rất mát mẻ, các ngọn lửa giận buồn bực trong lòng liền giảm được một nửa, thầm nghĩ chung quy cũng có rất nhiều chuyện đều là do tôi tự mình lựa chọn, trách tội lão ta cũng không phải cách, thật ra lão cũng chỉ là một trong những người bị hại.

Vì vậy tôi tự lừa gạt mình, sau khi cảm thấy bản thân đã bình tĩnh lại, tôi liền nhanh chân đi ra ngoài nhìn lão chằm chằm, hỏi: "Ông già, ông đang có manh mối gì thì nói ngắn gọn đi, tôi tin là đại tài Hoa Nhi gia đã trả tiền cho ông rồi, chung quy không cần tôi phải trả thêm cho lần nữa."

Răng Vàng nói: "Tiểu Ca, cậu nói như vậy, thực sự không phải làm tôi đây cảm thấy áy náy trong lòng sao, tôi đây là muốn đến đây bồi thường một chút. Không phải cậu đăng báo để tìm người xem xét con bọ cạp kia sao? Ui cha, thứ này có thể gợi lên một chuyện cũ khó quên của tôi?

Tôi nhìn sắc mặt của lão rùa, nghĩ bụng: "Ông nói mau đi, sau khi nói xong là tôi đã có thể quất ông một trận rồi."

Răng Vàng nói: "Lai lịch của cái bản vẽ bọ cạp này vô cùng cổ quái, tôi đoán cậu muốn tra lai lịch thứ này là có liên quan tới cậu nhóc nhà họ Trương, đúng không?"

Tôi không tỏ thái độ, sợ bị lão nắm bắt được tâm tư mình, thầm nghĩ: Chuyện của họ Trương tôi đều có hứng thú, còn cậu nhóc đó có phải là Muộn Du Bình hay không thì tôi cũng không biết.

Kim Vạn Đường tiếp tục nói: "Hôm nay tôi đến nói với cậu một sự kiện, không biết trước đây tôi đã từng nói qua với cậu chưa, hồi đấy tôi cùng với một nhóm người làm ở trong cửa hàng chuyên giám định ngọc lưu ly và đồ cổ, phiên dịch sách cổ buôn bán lời không ít tiền. Có một lần tôi đi đến nhà một ông chủ lớn, nghe nói người này là họ Mã, là một đại gia tộc rất thịnh vượng, sinh sống ở vùng Giang Tô, người này đã cho tôi xem một quyển hồi ký của ông nội hắn, muốn nhờ tôi giám định giúp xem có đáng giá hay không. Lúc đó tôi nghĩ gia đình hắn giàu có vô cùng, nhất định là một người rất có tiền, sau này tôi mới biết được, thật ra vào lúc đó gia đình họ đã không còn gì nữa. Hai đứa con trai của hắn bị nghiện thuốc phiện, có một đứa đã sắp không xong rồi, nên hắn mới dựa vào vật đó bán lấy tiền để cứu mạng con trai." Kim Vạn Đường hít sâu một hơi, "Sau khi tôi giám định xong, cũng đã đọc hết tập bút ký của người tên là Mã Bình Xuyên này, tôi còn nhớ rất kỹ bên trong đó cũng có ghi lại một cố sự giống như vậy."

Nói rồi, Kim Vạn Đường đã kể lại cho tôi một cố sự, chính là "Chuyện kỳ lạ thứ nhất" kia.

Sau khi tôi nghe xong, trong lòng không vui cũng không buồn, tôi lập tức cảm giác được, đứa trẻ kia, rất có thể là Muộn Du Bình trước đây.

Chuyện này xảy ra vào năm nào nhỉ? Trước khi thành lập Tân Trung Hoa sao? Quả thực là người này tuổi tác có một bó to luôn? Chỉ là hình như so với dự đoán trước đây của tôi thì có trẻ hơn một chút.

Người Trương gia thọ mệnh thường rất dài, thể chất lại đặc biệt, tôi gần như cũng không cảm thấy quá bất ngờ.

"Ông nói là, vào lúc ấy chỗ đó được gọi là thôn Mã Am sao? Bây giờ vùng này vẫn còn tồn tại chứ?" Tôi hỏi Kim Vạn Đường.

Lão gật đầu: "Vẫn còn, nhưng nếu cậu muốn đi, tôi cảm thấy không cần đâu. Bởi vì bên trong quyển bút ký, có viết sau khi bọn họ đào mảnh đất mồ tổ tiên kia lên, cũng không thấy ngôi cổ mộ nào cả, chỉ đào được một con bọ cạp bằng sắt. Nhưng trong quyển bút lý cũng không miêu tả lại chuyện xảy ra sau đó, về sau mới bắt đầu viết lại, thì cũng đã một năm sau khi xảy ra chuyện đó."

"Ý của ông là gì vậy?" Tôi hỏi.

Kim Vạn Đường nói: "Là sau khi bọn họ đào được con bọ cạp bằng sắt, có tiếp tục đào xuống nữa không, có tìm được địa cung hay không? Bên trên con bọ cạp có viết cái gì? Có xảy ra chuyện kỳ quái gì hay không? Những việc này đều không hề ghi lại. Nhưng chỉ có thể khẳng định là, trong một năm xảy ra việc đó, Mã gia đang từ cực kỳ hưng thịnh trở nên suy tàn, nhất định là đã xảy ra nhiều chuyện, chắn hẳn chuyện này có liên quan đến con bọ cạp kia." Lão nói, "Sau này, khi toàn quốc đã giải phóng, Mã gia chuyển đến Nepal ở."

"Nepal?"

"Đúng, Nepal." Kim Vạn Đường nói, "Cách đây không lâu tôi cũng vừa mới trở lại chỗ đó, có địa chỉ nhà của bọn họ, trong nhà bọn họ vẫn còn thấy được con bọ cạp sắt kia, mà ngôi nhà bọn họ đang ở hiện cũng được rao bán."

"Ông không có lừa tôi đấy chứ?" Tôi nói.

"Không hề." Kim Vạn Đường nói, "Nếu cậu đối với chuyện tôi nói có hứng thú, không ngại dời bước, phiền cậu đại giá, chúng ta xuất ngoại đi? Có tôi ngoại giao cho cậu, con bọ cạp sắt kia, tin chắc có thể dễ dàng lấy được."

Tôi ngẫm nghĩ, cảm thấy bây giờ đây chính là đầu mối duy nhất có liên quan đến quá khứ của Muộn Du Bình, có lẽ tôi cần phải đi một chuyến. Nhưng mà, tôi không thể đi cùng với Kim Vạn Đường, tôi làm ăn lâu như vậy, biết người như thế nào là hạng ruồi bọ chuyên bâu vào trứng gà có vết nứt, nếu lão rùa này đi cùng tôi, khẳng định là muốn cùng liên kết với Mã gia một đao làm thịt tôi. Nói không chừng còn có đủ các loại bẫy khác nhắm vào hầu bao của tôi nữa.

Vì thế cùng lão ta giao hẹn một thời điểm khác, nhưng tôi hành động trước, sớm hơn so với lão, ngay cả Tiểu Hoa tôi cũng không có thông báo, lập tức lên đường đi Nepal.

Nhưng mà, lần này lại hoàn toàn trở về tay không, nhà của Mã Bình Xuyên ở Nepal rất lớn, nhưng lại trống rỗng, vừa nhìn thì đã biết đã bị lấy sạch cả rồi. Tôi hỏi người xung quanh, họ đều nói không biết người nhà này đã đi chỗ nào nữa.

Cả nhà Mã Bình Xuyên, cũng giống như năm đó hắn cho người đi dò hỏi Trương gia vậy, trước đó tôi cũng đã dò hỏi ở nơi này, họ cũng đã mai danh ẩn tích.

Tôi cảm giác việc này có lẽ là một âm mưu cực kỳ lớn, bị tôi đoán được. Tôi lên đường đến đây trước thời hạn, bọn họ hoàn toàn không có chuẩn bị. Cũng có khả năng, sau khi Kim Vạn Đường đi, bọn họ mới phát sinh biến cố gì đó rất lớn.

Bị tôi đoán được.

Cuối cùng, lần tìm kiếm này, lại hoàn toàn biến thành một chuyến đi du lịch, sau khi tôi phát hiện hoàn toàn không tìm được gì, liền bắt đầu tham lam, hơn nữa còn sinh ra ý nghĩ viển vông muốn phát triển kinh doanh ở Nepal.

Lúc khảo sát, tôi phát hiện hệ thống ở Nepal hoàn toàn không thích hợp để buôn bán, chỉ thích hợp làm trạm trung chuyển. Hơn nữa trong lòng tôi cũng không thích hành động đem quốc bảo ra nước ngoài, liền không suy nghĩ sâu xa nữa. Đương nhiên, tại chỗ tôi ở cũng có không ít đồ cổ, tuy nhiên không biết là thật giả thế nào, những vật sưu tầm ở trong nước trên thị trường có thể bán được bao nhiêu tiền, thế nhưng, trong lúc tôi đang vui chơi ở đây, lại phát hiện được hành tung của Mã gia.

Ở đây tôi gặp được một người Hoa làm nghề kiểm kê đồ cổ tại địa phương, trong lúc cùng ông chủ đó nói chuyện phiếm tôi có nói mục đích đến nơi này của mình, ông chủ kia và Mã gia đã từng làm ăn với nhau, hiển nhiên là khi Mã gia bán của cải đổi lấy tiền mặt đã bán không ít đồ cổ cho ông ta. Người này nói cho tôi biết, khi nói chuyện cùng với người Mã gia, không biết họ cố ý hay vô tình có nhắc tới một vùng tên gọi Mặc Thoát.

Chương 7: Bức tranh ở Tây Tạng

Đó là bức tranh vô cùng kỳ lạ.

Cuối năm 2011, sau khi tôi từ Nepal trở về nước rồi đi đến Tây Tạng, dừng lại ở chân núi Tạp Nhĩ Nhân nghỉ ngơi hồi sức trong vòng một tuần.

Tôi không có bắt đầu tìm kiếm manh mối người Mã gia ngay, chung quy chuyến đi này quá sức mệt nhọc, tôi theo đề nghị của thủ hạ mình ở lại nghỉ ngơi, trước tiên giải quyết mấy thứ lỉnh kỉnh tôi thu được trong chuyến đi đến Nepal.

Lần này từ Nepal trở về tôi đem về một lượng lớn đồ trang trang sức có đặc trưng của Phật giáo Tây Tạng, muốn dùng chúng xem thử có đúng với kiểu dáng của mấy món trang sức lấy ra Trương gia cổ lâu và nguồn gốc của chúng có phải là từ nơi này ra hay không. Ở Mặc Thoát, tôi đem tất cả đồ trang sức sắp xếp vào ba bao lớn, chia ra gửi ra bưu điện đến ba địa chỉ khác nhau ở Hàng Châu, đồng thời cũng giúp giảm bớt gánh nặng cho chuyến đi.

"Bưu điện" ở Mặc Thoát có hai loại, đây cũng vì Mặc Thoát là một vùng tương đối đặc biệt. Nơi này quanh năm tuyết phủ, ra vào khó khăn, vì thế trước đây bưu điện chính quy ở đây chỉ có thể nhận thư từ tới mà không thể gửi thư từ đi, mãi cho đến vài năm gần đây, mới có một con đường nhỏ để trao đổi bưu kiện, nhưng xe bưu điện cũng chỉ giới hạn mỗi tuần có một chuyến.

Vì thế, ở địa phương còn có dịch vụ trao đổi bưu điện truyền thống, thật ra chính là tìm người thuận đường đem thư điện gửi đi. Vì thế nếu một đoàn người ra vào Mạc Thoát, giúp người khác đem bưu kiện đi gửi cũng là chuyện bình thường, có vài người nhân cơ hội làm trung gian kiếm thêm chút tiền. Cái "bưu điện" tôi tìm đến cũng chính là do những người như thế mở, tuy không phải là an toàn nhất, nhưng ít ra có thể bảo đảm được thời gian. Chỉ cần có người đi ra Mặc Thoát, thì sẽ biết được đại khái khi nào bưu kiện sẽ tới bưu điện bên ngoài, sau đó lại tiếp tục gửi đi thì cũng khá ổn thoả rồi.

Cách ra khỏi Mặc Thoát có xe, ngựa thồ và người khuân vác, mà xe cộ cũng không lui tới nơi này quanh năm, khi tôi đến cũng đúng vào mùa xe không thể ra vào, đoàn ngựa thồ đã sớm không còn tăm tích, cho nên chúng tôi chỉ có thể tìm tới lừa thồ hoặc là kiệu phu.

Tất cả bưu kiện đều phải do "Người phát thư" vác từng chút từng đi xuống núi, cho nên bưu kiện không thể quá nặng được, trong lúc họ đang chia cân nặng ba bao lớn bưu kiện của tôi ra cho đều, mất gần ba tiếng đồng hồ.

Cũng ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy bức tranh kia, nó được treo ở "Quầy bưu điện"-thật ra là treo trên bức tường ở phía sau cái bàn làm việc để một khối thuỷ tinh công nghiệp.

Mặt tường phía sau sơn màu xanh lá nhạt, trên đó treo vài thứ như: Một bức tranh chữ thuỷ mặc "Bay xa vạn dặm", có diều hâu cùng bốn đại tự, ba lá cờ thi đua song ngữ, đều là cái gì mà "Không nhặt của rơi" và "Đảm bảo an toàn" mấy từ ca ngợi linh tinh như thế. Ngoài ra, trên đó còn có một bức tranh sơn dầu.

Bức tranh này vừa nhìn là biết đó không phải là một tác phẩm của hoạ sĩ chuyện nghiệp, đó là một bức tranh thực sự rất bình thường, thậm chí cách vẽ có chút vụng về, trong tranh là một người đang nghiên mặt, từ mức độ bong tróc của bức tranh thì thấy, hình như nó đã được treo ở này trong một thời gian rất lâu rồi.

Được vẽ trong bức tranh kia là một người thanh niên. Tôi cũng không hiểu biết nhiều về hội hoạ phương Tây, nhưng nếu nói đến đạo lý của tranh vẽ, cũng có một trình độ hiểu biết nhất định. Tuy rằng nét vẽ bức tranh rất vụng về, nhưng vẫn có sự cứng cáp không giống với người khác.

Tôi không rõ cảm giác này từ đâu mà đến, người đang đứng trong bức tranh, trên người mặc một bộ trang phục Lạt Ma, thân dưới là một tấm Tạng bào, đứng ở trên núi, sau lưng có thể nhìn thấy được ngọn núi tuyết Tạp Nhĩ Nhân. Không biết là vẽ ánh nắng hoàng hôn hay là nắng sớm chói lọi bắt đầu ngày mới, mà đem toàn bộ bức tranh hoạ thứ tự, từ màu trắng chuyển dần đến màu vàng xám.

Kỹ thuật bức tranh tuy vụng về, nhưng cách sử dụng màu sắc như vậy tương đối táo bạo, trực tiếp miêu tả ra một khung cảnh nghệ thuật rất tuyệt diệu.

Tuy nhiên, cho dù là như vậy, cũng không thể nói bức tranh này có giá trị gì, cho nên điều làm cho tôi kinh ngạc, là vì tôi nhận ra người ở trong bức tranh này.

Đúng vậy, trên người này có đặc trưng và vẻ mặt của anh ta, làm cho tôi tuyệt đối không có bất cứ hoài nghi nào.

Chính là anh ta.

Thế nhưng đối với sự xuất hiện của anh ấy ở nơi này, tôi hoàn toàn không nghĩ tới, bởi vì người này không có bất kì lý do gì để xuất hiện ở Mặc Thoát cả, xuất hiện ở trong một bức tranh sơn dầu vụng về ở Mặc Thoát.

Đây bức chân tranh dung của Muộn Du Bình.

Đầu tiên tôi cố hết sức phủ nhận nó, bởi vì chuyện này quá kỳ lạ, thế nên, khả năng nhìn lầm vô cùng lớn, dù sao thì nó cũng chỉ là tranh vẽ, chứ không phải ảnh chụp. Trong tranh có nhiều chi tiết tương đối mơ hồ, mới tạo ra một hình ảnh giống hết như vậy cũng rất có khả năng sẽ xảy ra.

Thế nhưng, tôi phát hiện bản thân mình không thể rời mắt đi được. Tất cả chi tiết của người này ở trong tranh đều nói cho tôi biết, có điểm này quá giống. Đó chính là ánh mắt rất đặc biệt, tôi sống đến bây giờ, vẫn không hề nhìn thấy bất kỳ người nào có ánh mắt giống như Tiểu Ca. Bàn Tử đã từng nói qua, đó là ánh mắt không có liên hệ gì với tất cả mọi thứ. Trên thế giới ít ai có thể sống đến cùng mà không có bất kỳ mối liên hệ nào với thế giới này.

Thế nhưng, người trong bức tranh này, lại có ánh mắt như vậy.

Tôi nhìn cả nửa ngày, theo bản năng cảm giác được, người trong tranh tuyệt đối chính là anh ấy.

Vào năm năm trước, anh ta đã biến mất trong tầm mắt chúng tôi. Đương nhiên, tôi hiểu rõ chân tướng việc anh ta mất tích, về chuyện của anh ta, tôi còn có thể nói rất nhiều, nhưng cái này cũng không phải là ý nghĩa chính của cố sự đó. Việc mà trước đây anh ấy làm, dừng lại ở nơi này cũng không quan trọng, ý nghĩ của tôi khi nhìn bức tranh này là: Mặc Thoát có phải là một nơi nằm trong vòng tìm kiếm của anh ta? Muộn Du Bình đã từng xuất hiện qua nơi này, ý nghĩ này có đúng hay không, anh ta đến đây tìm kiếm một thứ gì đó, và có liên hệ với nơi này?

Lúc ấy tôi hỏi nhân viên làm việc ở bưu điện, tôi nhớ rõ đó là một ông lão, có gương mặt điển hình của dân tộc Tây Tạng, tôi hỏi ông ấy bức tranh này là do ai vẽ. Ông lão nhìn tôi rồi chỉ chỉ qua "Bưu điện" phía đối diện, dùng tiếng Hán không thuần thục nói cho tôi biết, tác giả của bức tranh này, tên là Trần Tuyết Hàn.

Tôi đưa mắt nhìn theo hướng tay ông ấy chỉ, liền thấy một người đàn ông trung niên, đang ngồi tiếp nước sôi ở trong phòng nồi hơi. Ông ta hẳn là người phụ trách trông giữ phòng nồi hơi, bên trong phòng có nước sôi để cung cấp cho người dân gần đó sử dụng, ba đồng một bình nước. So với tuyết lớn đang rơi ngoài trời, phòng nồi hơi khiến cho người ta phải toát mồ hôi, vì thế có rất nhiều người vây quanh bên cạnh nồi hơi để sưởi ấm, cách ăn mặc của những người này đều không khác biệt lắm, bởi vậy nhóm người này ở cùng một chỗ, cảm giác tướng mạo cũng gần giống như nhau.

Ông lão người Tạng này rất nhiệt tình, thấy tôi không phân biệt được người nào vào với người nào, liền xoay về phía phòng nồi hơi gọi to một tiếng: "Trần Tuyết Hàn!"

Âm thanh này to đến mức khiến cho dường như tuyết ở trên nóc bưu cục cũng bị chấn động rơi xuống dày đến mấy tấc, cái người tên là Trần Tuyết Hàn kia, nghe thấy ông lão người Tạng gọi to, ở trong đám người liền ngẩng đầu lên, có chút nghi ngờ nhìn về phía chúng tôi đang ở bên này.

Tôi lập tức bước đến, người kia có gương mặt đặc biệt ngăm đen, làn da thô ráp, nhưng mới nhìn qua, xem ra so với tuổi thì có trẻ hơn một chút.

Tôi dùng tiếng Hán nói: "Chào ông, cho hỏi bức tranh sơn dầu trong bưu điện kia có phải là do ông vẽ không?"

Trần Tuyết Hàn liếc mắt nhìn tôi, rồi gật gật đầu. Tôi phát hiện trong ánh mắt người này không có chút thần thái gì, đó là ánh mắt đặc biệt của người đã từng có cuộc sống vô cùng tĩnh lặng. Bởi vì cuộc sống quá mức tĩnh lặng, ông ta không cần thường xuyên phải suy nghĩ quá nhiều vấn đề, con người liền tiến vào một loại trạng thái đặc biệt điềm nhiên.

Tôi đưa thuốc lá mời ông ta, liền hỏi tỉ mỉ cặn kẽ về bức tranh kia. Biểu hiện của Trần Tuyết Hàn có chút bất ngờ, quan sát tôi một chút, đem nước sôi đổ vào nồi hơi rồi đóng cửa, hỏi tôi: "Cậu hỏi cái này để làm gì? Cậu biết người trong tranh sao?"

Giọng nói của ông ấy đặc biệt khàn, thế nhưng khi nói nhấn mạnh từ chữ cực kỳ rõ ràng. Tôi liền giải thích qua loa tình huống một chút, cũng nói đại khái hoàn cảnh và quan hệ của tôi với anh ta cho Trần Tuyết Hàn nghe.

Gương mắt Trần Tuyết Hàn liền hiện lên vẻ mặt kinh ngạc, cởi chiếc khăn lông màu trắng xuống làm thành ống giữ ấm tay, đi ra khỏi phòng nồi hơi, "Cậu nhận lầm người rồi, lúc tôi vẽ bức tranh sơn dầu này là vào hai mươi năm trước, khi đó cậu mới có mấy tuổi? Hơn nữa ,nếu là vẽ, giải thích rõ ràng hơn nó còn có một bức tranh gốc, bức kia lâu hơn."

Tôi có phần không ngờ tới việc này, không hề nghĩ bức hoạ kia được vẽ lâu năm đến như vậy, tuy rằng bức tranh kia nhìn qua cũng không có mới mẻ gì. Còn đối với việc ông ta hỏi, tôi không biết nên trả lời như thế nào, bởi vì thật sự là không thể nói chỉ vài ba câu thì có thể giải thích cho rõ ràng được. Cũng may hình như ông ấy cũng không thật sự muốn biết cái gì, tiếp tục nói: "Người này cùng với tôi không có quan hệ gì."

Ông ta lại chỉ chỉ ra bên ngoài cửa, nơi đó là cả một vùng tuyết trắng xoá, phía xa xa có một tòa Tuyết Sơn, "Tôi nhìn thấy bức tranh kia ở đó, nếu như cậu muốn biết thêm nhiều hơn, cậu có thể đến đó hỏi thăm các Lạt Ma một chút."

Tôi quay đầu nhìn theo hướng ông ta chỉ, nhìn đến nơi nằm giữa mưa tuyết lất phất, thấp thoáng có một toà kiến trúc lúc ẩn lúc hiện trong tấm màn trắng bạc.

"Đó là đâu vậy?" Tôi hỏi.

"Đó là miếu Lạt Ma." Trần Tuyết Hàn nói, "Chính tôi đã vẽ mô phỏng theo một bức tranh này của một vị Lạt Ma ở trong miếu."

"Khi đó có chuyện kỳ quái gì đã xảy ra sao? Hay là, Lạt Ma miếu kia có cái gì đó đặc biệt?" Tôi hỏi, bình thường anh ta xuất hiện ở đâu, bao giờ cũng sẽ phát sinh ra chuyện quái lạ. Hoặc là, bản thân cái miếu Lạt này Ma cũng rất không bình thường.

Trần Tuyết Hàn liền lắc lắc đầu, nghĩ nghĩ một chút mới nói: "Không có cáí gì kỳ quái cả, chỉ có một chuyện quái là, khi đó Lạt Ma nhất định muốn tôi phải vẽ lại bức tranh kia."

"Vì cái gì chứ?"

"Lạt Ma có thể nhìn đến nhân quả, ông ấy bảo tôi vẽ, tôi liền vẽ, không có vì cái gì hết. Ngài ấy có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ sau bức tranh này, tôi thì lại không thấy."

Trần Tuyết Hàn nói cho tôi biết, người thanh niên ở trong bức hình, chắc là khách quý của miếu Lạt Ma, nguyên bản của bức tranh là do vị Đại Lạt Ma vẽ trước khi để người này rời khỏi Mặc Thoát ba ngày, còn bức tranh kia là do hắn vẽ lại sau này. Vào mùa đông năm đó ông ta ở lại trong miếu một thời gian dài, tình cờ thấy được bức tranh kia trong phòng Đại Lạt Ma, Đại Lạt Ma liền một mực bảo ông vẽ. Vì thế ông ấy liền thử vẽ lại bức tranh kia.

Lúc này tôi mới hiểu rõ vì sao màu sắc của bức tranh kia lại táo bạo và sinh động đến như vậy, nhưng vốn kỹ thuật vẽ tranh lại có vẻ hơi vụng về.

Tây Tạng rất nhiều Lạt Ma đều có mỹ học và kiến thức vô cùng cao được dày công rèn luyện hằng ngày, rất nhiều Đại Lạt Ma đều có học vị của nhiều trường đại học danh tiếng nước ngoài, tôi nghĩ thành quả này là do chú tâm khổ tu phía sau cuộc sống "thanh tâm quả dục".

Khi đã hiểu rõ việc này, liền suy nghĩ lúc ấy anh ta ở lại trong miếu Lạt Ma trên ngọn Tuyết Sơn này rốt cuộc có thể đã xảy ra chuyện gì, liền có chút thất thần.

"Cậu muốn đi đến đó sao? Ba trăm đồng, tôi dẫn cậu đi." Ông ta nói, "Cái miếu Lạt Ma kia, không phải là người dân bản xứ, không có cách nào đi vào được đâu."

Có lẽ nhân quả mà Đại Lạt Ma nhìn thấy, chính là ba trăm đồng này. ( vẫn vui tính lắm :v )

Chương 8: Lạt Ma miếu

Chúng tôi dưới sự hướng dẫn của Trần Tuyết Hàn, trèo lên giữa những ụ tuyết nằm ngổn ngang. Trên bậc thang tuyết phủ rất dày, chỉ để lộ ra một con đường rất nhỏ đủ cho một người đi, bậc thang vô cùng dốc, gần như có thể coi là một đường thẳng từ trên cao xuống. tôi đem theo hai người thủ hạ, ban đầu bọn họ khăng khăng đòi đi theo tôi, lúc này đều đã hối hận chết đi được.

Đến trưa, rốt cuộc chúng tôi cũng đi tới trước cửa miếu Lạt Ma mà Trần Tuyết Hàn không ngừng lải nhải nói tới.

Trước đây tôi đã đi tham quan rất nhiều công trình kiến trúc khác nhau, kiến trúc đền miếu đủ các loại, trong số đó miếu Lạt Ma cũng không ít, nhưng kiểu kiến trúc này ở trước mắt lúc này, đúng là lần đầu tiên gặp.

Đầu tiên chính là một cái cửa miếu cực kỳ cũ nát, rất nhỏ, tấm gỗ cũng chỉ rộng bằng nửa thân người, nhưng phía sau chính là một cái sân viện nhỏ nhỏ, tuyết đã được quét sơ qua, để lộ ra rất nhiều cái cối xay bằng đá và bàn ghế đá. Ở phía cuối sân miếu, là một dãy nhà xây dựa vào vách núi, phòng ốc kéo dài một dãy không thấy được điểm cuối, có phần khá đồ sộ.

Cho dù là như vậy, tôi cũng biết, những kiểu chùa miếu này bên trong không có bao nhiêu không gian, tuy nhìn qua thì diện tích rất rộng, nhưng bởi vì xây tựa vào núi, nên kết cấu không gia bên trong cũng khá nhỏ.

Có ba vị Lạt Ma trẻ tuổi đang ngồi xung quanh cái cối đá sưởi ấm, thấy chúng tôi đi vào, cũng không có vẻ gì là ngoài ý muốn bao nhiêu, chỉ ngồi bất động không hỏi.

Trần Tuyết Hàn tiến lên giải thích lý do chúng tôi đi đến đây, họ toàn dùng Tạng ngữ để nói, tôi nghe không hiểu, sau đó có một Lạt Ma trong đó liền dẫn chúng tôi vào nhà.

Căn phòng có kiến trúc lớn nhất, chính là nơi cho các Lạt Ma học tập, sau nhà có một cái thang bằng gỗ, một đường hướng lên trên, chúng tôi cũng đi lên từng tầng từng tầng, cũng không rõ chúng tôi đã đi bao lâu, lướt qua bao nhiêu căn phòng, vị Lạt Ma dẫn đường phía trức mới dừng lại, tôi phát hiện cuối cùng chúng tôi cũng đã đến một căn phòng tối đen một mảng.

Trần Tuyết Hàn cùng vị Lạt Ma vô cùng kính cẩn lui xuống, ngay lúc này chỉ còn lại tôi và hai người thủ hạ, đứng ở trong một căn phòng tối đen, tôi nhìn quanh, lập tức phát hiện nơi này hình như là một gian thiền phòng, cả gian phòng tối mò chỉ có một nơi có chút ánh sáng.

Chúng tôi cẩn thận bước đến, lúc này tôi cũng đã dần thích ứng với ánh sáng bên trong, chậm rãi tôi thấy trong bóng tối có rất nhiều cái bóng mơ hồ - tất cả đều là những quyển kinh được xếp thành chồng. Tôi đi lướt qua, tiến tới nơi có ánh sáng, liền thấy đó là một cái cửa sổ.

Trên cửa sổ có rất nhiều tấm thảm lông dày che lại, nhưng thảm lông cũng đã quá cũ rồi, bị mục mát thủng rất nhiều lỗ nhỏ, ánh sáng chính là chiếu xuyên qua những lỗ thủng này.

Tôi suy nghĩ, muốn đến vén tấm thảm lông lên, để cho ánh mặt trời chiếu vào nơi này. Vừa định đưa tay vén lên, liền nghe thấy trong bóng tối phát ra tiếng người nói: "Không cần ánh sáng, đi đến đây."

Tôi bị giọng nói đó doạ cho sợ mất hồn, liền quay đầu lại nhìn, thấy ở trong góc tối, sáng lên một ánh lửa nhỏ, sau đó, chỉnh lại cho một chút ánh sáng mặt trời vào trong, ở ngay bên cạnh nơi đó, rốt cuộc tôi mới nhìn thấy được ngồi ở đó có năm vị Lạt Ma, toàn bộ dần dần sáng lên.

Năm vị Lạt Ma này nhất định là đang ở đây ngay từ đầu, bên trong quá tối nên tôi không nhìn thấy bọn họ, có lẽ đây chính là một cách tu luyện đặc biệt của họ, hình như chúng tôi đã quấy rầy bọn họ.

Tôi lại nhớ tới họ có nói "Đi đến đây", liền bước qua. Đi tới gần thì phát hiện, trong đó có vài vị Lạt Ma còn tương đối trẻ đang nhắm mắt lại, chỉ có một vị Lạt Ma khá lớn tuổi mở đôi mắt sáng ngời nhìn chúng tôi.

Chúng tôi liền đem ý đồ đến nơi này nói qua một lần, vị Lạt Ma cao tuổi này cũng nhắm hai mắt lại, nói: "Là chuyện đó, tôi vẫn còn nhớ rõ."

Tôi hơi bất ngờ một chút, tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ có biểu hiện vô cùng mạnh, nói ví dụ như, phát run nói với tôi: "Cậu..cậu..cũng biết hắn" hay vài kiểu đại loại như thế.

Thế nhưng ông ấy chỉ nhắm mắt lại, nói một câu: Là chuyện đó, tôi vẫn còn nhớ rõ.

Tôi cũng không để lộ ra là mình quá chú ý chuyện này, cũng giải bộ bình tĩnh.

Không ngờ sự thật lại thần kỳ như vậy, bỗng nhiên tôi hiểu ra đôi chút, có nhiều chuyện mà mình luôn cho rằng nó vô cùng quan trọng, nhưng đối với người khác, có lẽ ngay cả một cái hà hơi cũng không bằng.

Thực sự việc này tôi có thể hiểu.

ở bên trong phòng ngủ của Lạt Ma, chúng tôi uống trà bơ mới nấu, chờ ông ấy kể lại từng chút sự việc đó. Trong phòng ngủ có đốt lò than, cực kỳ ấm áp, tôi vừa hơi hơi toát mồ hôi, vừa nghe chuyện đã trải qua trong một lần Muộn Du Bình xuất hiện của ông ấy.

Đại Lạt Ma nói vô cùng đơn giản, gần như là thuận miệng nói thôi, nhưng đối với tôi mà nói, tôi không thể tránh khỏi, cho rằng đó là manh mối quan trọng nhất trong thiên hạ.

ở trong quá trình ông ấy kể lại, có một ít chỗ ngay cả bản thân Đại Lạt Ma cũng không hiểu rõ lắm, ông ấy lại cầm ra một quyển bút ký cuộn mà kiểm tra. Sau khi ông ấy nói xong, tôi cũng tự mình cẩn thận nhìn lại nội dung bên trong quyển bút ký này. Vì thế, nội dung mà tôi có được đến từ nhiều con đường, một phần là tôi tự mình xem ở trong quyển bút ký, một số là từ Đại Lạt Ma kể lại.

Bởi vì tin tức nhiều và ngẫu nhiên, bất kể là tự thuật hay trong bút ký, trong đó lẫn lộn Tạng ngữ là ngôn ngữ địa phương, cho nên rất nhiều tình tiết đều đã được phiến diện hóa rất nhiều, trong thời điểm tôi ngồi ở đây nghe kể lại sự việc, cũng bắt đầu sắp xếp lại một chút.

Hình huống xảy ra vào năm mươi năm trước, cho đến bây giờ Đại Lạt Ma còn nhớ rõ ràng như nó đang hiển hiện ở trước mắt. Đó đã là tuần thứ ba gió tuyết vô cùng lớn, muốn xuống núi thôi đã vô cùng nguy hiểm, cho nên tất cả Lạt Ma đều tiến hành chuẩn bị cho kỳ hạn một mùa đông khổ tu.

Khi đó Đại Lạt Ma tuổi còn rất trẻ, vẫn chưa trở thành Đại Lạt Ma trong miếu, nhưng để cho tiện phân biệt, tôi gọi Đại Lạt Ma khi còn trẻ lúc đó là Lão Lạt Ma.

Dựa theo tập tục của miếu, ngày hôm đó Lão Lạt Ma quét sạch sẽ tuyết ở trước cửa miếu, và đặt ba cái lò than lớn, không để cho tuyết lại phủ lên mặt đất lần nữa. Việc làm này đã có ngay từ khi Lạt Ma miếu được xây thành, mỗi mười năm thì có một lần, tuy rằng Lão Lạt Ma cũng không biết việc làm này là có ý gì, nhưng mà, các thế hệ Đại Lạt Ma đều tuân thủ nghiêm chỉnh.

Vào giữa trưa hôm đó, vào lần thứ tư đi thêm than vào lò, Lão Lạt Ma thấy được Muộn Du Bình đang đứng ở phía trước lò than sưởi ấm.

Muộn Du Bình mặc một bộ quần áo đặc biệt kỳ lạ, hình như là một cái áo ba-đơ-xuy quân đội rất dày, nhưng hoa văn trên quần áo lại là kiểu của người Tạng, sau lưng anh ta đeo một cái túi hành lý rất lớn, nhìn qua vô cùng nặng nề.

Mới nhìn thì Muộn Du Bình vô cùng to lớn, khi đó Lão Lạt Ma đã có một cuộc đối thoại với anh ta:

Lão Lạt Ma: "Khách quý từ đâu tới đây?"

Muộn Du Bình: "Tôi từ trong núi đến."

Lão Lạt Ma: "Khách quý đi đến chỗ nào?"

Muộn Du Bình: "Đi ra bên ngoài."

Lão Lạt Ma: "Khách quý là từ thôn bên ngọn ngúi đối diện đến sao?"

Muộn Du Bình: "Không, là ở nơi sâu nhất."

Sau khi nói xong câu đó Muộn Du Bình đưa tay chỉ về một hướng, đó là vùng sâu nhất bên trong Đại Tuyết Sơn, đối với Lão Lạt Ma, đối với người Mặc Thoát mà nói, bọn họ cũng đều biết, đó là một khu vực không người, bên trong không có cái gì cả.

Mà miếu Lạt Ma và khu vực đó, không có bất kỳ con đường nào nối liền đến, chỉ có một nơi có thể gọi là vách núi mà thôi, tuy cũng không phải thực sự là vách núi, nhưng bởi vì nó có lượng tuyết phủ và độ dốc rất cao, cũng chênh lệch nhau không nhiều, độ chênh lệch chỉ khoảng hai trăm mét, cực kỳ hiểm trở, đây là nơi nguy hiểm nhất ở Lạt Ma miếu.

Sẽ không có bất kỳ ai từ nơi này đi đến cả, Lão Lạt Ma cười cười, ông ấy cho rằng ngón tay của Muộn Du Bình nhất định là chỉ sai rồi. Nhưng rất nhanh sau đó ông ấy phát hiện không đúng, bởi vì ở nơi Muộn Du Bình đang đứng, chỉ có một đôi dấu chân lẻ loi, không có bất cứ đường kéo dài nào.

Hiện tại đang ở trong thời tiết tuyết rơi rất nhiều, muốn có hiệu quả như vậy, ngoài trừ Muộn Du Bình là từ trên trời rớt xuống thôi. Hoặc có thể, thật sự là từ trên vách núi leo xuống.

Lão Lạt Ma: "Vì sao quý khách lại dừng ở trước cửa miếu chúng tôi?"

Muộn Du Bình: "Nơi này ấm áp, tôi đến sưởi ấm một chút, sẽ lập tức đi ngay."

Muộn Du Bình chỉ chỉ vào lò than, Lão Lạt Ma bỗng nhiên có một ý nghĩ kỳ quái. Tập tục ở ngôi miếu này rất kỳ lạ, là cứ mỗi mười năm, đều phải để ba lò than lớn ở trước của miếu, chẳng lẽ là vì, nếu có người đi ngan qua, sẽ có nơi để sưởi ấm?

Hoặc có thể nói, có người hy vọng người đi qua cửa ngôi miếu Lạt Ma này, sẽ vì ba bếp lò này mà dừng lại?

Sau khi ngôi miếu này được xây xong, thì đã có quy tắc này, ông ấy vẫn cảm thấy cái quy tắc vô cùng kỳ quái, chẳng lẽ người xây dựng ngôi miếu này, thật lâu trước đây đã dự đoán được tình huống này sẽ xảy ra từ trước, cho nên đã định ra quy tắc này?

Lão Lạt Ma nhìn Muộn Du Bình, hai người không nói gì nhìn nhau một lúc, ông ấy cảm thấy có chút xấu hổ, nói: "Bên trong càng ấm áp hơn, quý khách có muốn vào trong nghỉ ngơi một lát không, uống một chén trà bơ rồi hẵng đi."

Lão Lạt Ma vốn là khách sáo hỏi một chút, Muộn Du Bình lại không hề khách khí, trực tiếp gật đầu nói: "Được."

Vì thế Lão Lạt Ma thuận theo đưa Muộn Du Bình đi vào trong miếu Lạt Ma.

Với tư cách là chủ nhân, hơn nữa đã lâu không có khách ghé thăm, tự nhiên ông ấy phải làm một người chủ địa phương tận tình một phen. Mời Muộn Du Bình làm ấm thân thể, sau khi uống bơ trà, ông ấy liền đưa Muộn Du Bình đi lại thăm thú các nơi ở trong miếu.

Cũng chính lúc này, Lão Lạt Ma không rõ là cố ý hay vô tình , luôn luôn muốn hỏi Muộn Du Bình một vài vấn đề, mà kỳ quái là, Muộn Du Bình cũng không hề giấu diếm, anh ấy nhiều lần nhấn mạnh nói rằng mình là từ sâu bên trong Tuyết Sơn đi đến, trong lời nói, không nhìn ra một chút dấu hiệu nào là đang nói dối hay giấu diếm gì cả.

Tuy rằng khi đó Lão Lạt Ma còn trẻ tuổi, nhưng dù gì cũng đã từng tu luyện qua, lòng hiếu kỳ đối với cuộc sống, luôn có một sự khống chế rất đặc biệt, ông ấy cũng không có tiếp tục hỏi nữa.

(Đáng lẽ sau chuyện này, nhiều nhất Muộn Du Bình cũng chỉ ở lại ngủ một đêm rồi sẽ rời đi ngay. Sau khi Muộn Du Bình rời đi, cuộc sống của Lão Lạt Ma cũng sẽ trở về quỹ đạo vốn có.)

Chương 9

Manh mối quan trọng về Muộn Du Bình

Buổi tối ngày hôm đó, Muộn Du Bình ở trong phòng Lão Lạt Ma nói cho xong mấy câu cuối cùng, rồi thể hiện ý muốn ngày mai sẽ rời đi, bày tỏ ý cảm tạ, Lão Lạt Ma liền đưa Muộn Du Bình trở về phòng của mình.

Kết cấu miếu Lạt Ma có chút phức tạp, là người bình thường nếu không được dẫn đường thì sẽ không có khả năng tự mình về phòng, bọn họ ở trong miếu đi lại vài vòng, khi đi ngang qua một cái sân, ngọn đèn dầu của Lão Lạt Ma bỗng nhiên tắt ngóm.

Một mảnh tối đen, khuôn viên dưới ánh trăng càng trở nên đặc biệt u ám, Lão Lạt Ma ngừng bước để châm lại ngọn đèn, lúc này, Muộn Du Bình ngẩng đầu lên nhìn bầu trời.

Bầu trời Tây Tạng, tinh tú rợm ngợp, đẹp không khác gì ảo mộng, khung cảnh đẹp như vậy, đối với Lão Lạt Ma mà nói, ông vốn đã tiếp xúc với nó từ nhỏ, luôn cho rằng bầu trời chính là như vậy, vì thế ông cảm thấy bầu trời đó cũng không có gì đặc biệt.

Ông ấy đốt đèn lại, rồi tiếp tục bước đi, phát hiện Muộn Du Bình đang đứng bất động, chỉ là bình thản nhìn bầu trời.

"Quý khách, đi bên này." Lão Lạt Ma lên tiếng nói, Muộn Du Bình mới hồi phục lại tinh thần, liền hỏi ông ấy: "Thượng sư, Lạt Ma miếu của các người, có một trăm hai mươi bảy gian phòng đúng không?"

Lão Lạt Ma sửng sốt một chút, quả thật, miếu Lạt Ma này có một trăm hai mươi bảy gian phòng, tại sao cậu ta vừa mới đến ngôi miếu này lại biết ngay, mặc dù trong số đó có một ít phòng vô cùng nhỏ, nhưng mà hiện tại Lạt Ma miếu tổng cộng đúng là có từng ấy gian phòng thật. Làm sao Muộn Du Bình lại biết rõ như vậy chứ?

Lão Lạt Ma gật đầu nói phải. Muộn Du Bình liền nói: "Làm phiền ông, có thể đưa tôi đến một căn phòng để nhìn qua một chút không?"

"Quý khách, vì sao lại đột nhiên có ý muốn này -" Lão Lạt Ma muốn hỏi, thế nhưng ngay lập tức bị khả năng tu luyện của mình kiềm nén lại, không tính toán, không hiếu kỳ, ông ấy không nên vì chút chuyện này mà sinh lòng hiếu kỳ được.

Lão Lạt Ma kiềm chế lại một chút, bỗng nhiên có cảm giác, có khi nào Muộn Du Bình là do ông trời phái đến để thử thách sự tu hành của mình, vì thế liền gật gật đầu, nói:"Được."

"Tôi nhớ rất rõ bầu trời nơi này." Muộn Du Bình lẩm bẩm, "Thật lâu trước đây, chắc chắn là tôi đã từng đến nơi này, hình như theo như tôi nhớ mang máng, tôi ở trong căn phòng nào đó, đã tự mình để lại một vậy gì đó."

"Mong là cậu có thể tìm thấy." Lão Lạt Ma nói, sự hiếu kỳ trong lòng đã nghẹn tới mức thiếu chút nữa là làm cho mình hộc máu.

(Lòng tôi nói thực sự cũng không phải là tu luyện chưa đủ, thật ra thì Muộn Du Bình nói chuyện có thể khiến cho ngay cả Phật Tổ cũng sẽ nghẹn đến hộc máu.) :D

Vào ban đêm, bọn họ đi tới từng gian từng gian phòng để nhìn, tìm kiếm trong từng gian phòng một, Lão Lạt Ma cũng không biết đã là gian thứ mấy nữa, chỉ biết là sau hai tiếng đồng hồ, bọn họ mở ra một căn phòng để trống, khi đi vào, bước chân của Muộn Du Bình bỗng nhiên dừng lại, bất động .

Lão Lạt Ma cũng không động, nhưng mà ông ấy chắc chắn trong căn phòng này có thứ gì đó, kích thích Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình đi vào trong phòng, ở giữa gian nhà có để một cái bàn bằng gỗ, bên trên để đủ thứ, anh ấy đem mọi thứ mở ra, ở bên trong những thứ linh tinh ấy, lộ ra một thi thể khô.

Khối thi thể này nằm sấp úp trên bàn sách, đã hoàn toàn trở thành một cái xác khô, bị những thứ hỗn độn trên bàn che lại, quần áo trên người lại là Tạng bào, căn bản thấy không rõ bộ dáng lúc trước.

Lão Lạt Ma cực kỳ hoảng sợ, ông ta chưa từng nghĩ tới, trong một căn phòng nào đó lâu ngày không dùng của miếu mình lại có một thi thể khô như vậy.

Nhưng mà, người trong miếu lúc này vẫn đủ, vậy kia là ai? Chẳng lẽ, người này cũng là Lạt Ma trong miếu trước đây, sau khi chết ở chỗ này, rất lâu cho tới hôm nay chưa từng có người phát hiện qua?

"Đây, đây là ai vậy?" Cuối cùng Lão Lạt Ma cũng không thể kiềm chế được nữa, lắp bắp hỏi.

"Đây là Đức Nhân Lạt Ma, là bằng hữu của tôi, không ngờ, cuối cùng lại chết ở nơi này."

"Đức Nhân Lạt Ma?" Lão Lạt Ma chưa hề nghe nói đến cái tên này.

Muộn Du Bình dọn dẹp cái bàn một chút, phát hiện trên tay thi thể, đang cầm một quyển kinh văn. Anh ta lấy quyển kinh văn mở ra xem, liền thản nhiên thở dài, quay lại nói với Lão Lạt Ma: "Xin ông sửa sang căn phòng này lại một chút, an táng thi thể Đức Nhân Lạt Ma thật tốt, tôi muốn ở lại trong này."

Lão Lạt Ma hoàn toàn không có phản ứng, ông ấy bỗng nhiên cảm giác được, mọi thứ xung quanh bỗng nhiên trở nên xa lạ, ngay cả bản thân cũng không hiểu ngôi miếu này nhiều bằng Muộn Du Bình. Muộn Du Bình ngồi xuống, xem quyển kinh thư kia, cũng không nói chuyện với Lão Lạt Ma nữa.

Muộn Du Bình ở lại trong căn phòng này mấy tháng liền. Sau này bọn họ kiểm tra lại tư liệu, lại phát hiện thêm một chuyện khiến cho Lão Lạt Ma ngay tức khắc sụp đổ: Đức Nhân Lạt Ma đúng là đã từng ghi danh trong miếu này, mà còn là ở mục ghi chép đầu tiên, chỉ có điều là vào ngay thời điểm ngôi miếu này mới thành lập, tiếp tục kiểm tra thêm, ông ấy liền phát hiện, gần như trong mỗi Đại Lạt Ma, đều có người tên là Đức Nhân, mãi cho đến thế hệ này, cái tên Đức Nhân ấy mới biến mất trong bản ghi chép danh sách.

Điều này khẳng định không phải chỉ có một Đức Nhân duy nhất, mà thực ra là có rất nhiều Đức Nhân, hơn nữa, xem lại ghi chép trong danh sách, gần như mỗi một thế hệ Đức Nhân, đều sẽ thu nhận một đồ đệ để làm thế hệ Đức Nhân tiếp theo.

Cái này được gọi là cái gì, là một truyền thống khác của miếu sao?

Dường như cái tên Đức Nhân này có một ý nghĩa đặc biệt nào đó đối với ngôi miếu này, trong ngôi miếu này mỗi một Đại Lạt Ma đều phải có một người được gọi là Đức Nhân mới được.

Cái xác khô Đức Nhân kia chắc hẳn là người nhậm chức Đức Nhân cuối cùng, không biết người này làm cái gì, mà lại chết ở trong phòng, cũng không có đồ đệ, cho nên mới làm cho chức vị Đức Nhân này không có người kế thừa.

Đây là vì cái gì chứ, có thực sự là nơi này một cái miếu Lạt Ma bình thường không? Lão Lạt Ma đã không còn khả năng kiềm chế được lòng hiếu kỳ của mình được nữa, làm tăng nhân ngoài trừ khả năng kiềm chế cảm xúc của mình ra bên ngoài, hơn nữa còn phải vô cùng tốt, nếu như ông ấy phát hiện mình tu luyện chưa đủ, cũng chỉ có thể bình thản thừa nhận. Ông phát hiện Muộn Du Bình cùng với toà miếu này nhất định có liên hệ, vì thế, ông cũng không cần lấy nguyên nhân lễ phép mà đem vấn đề đè nén ở trong lòng trước nay.

Tìm đến Muộn Du Bình, hỏi thăm chân tướng sự việc.

Muộn Du Bình liền nói với ông, gần như một chút ý muốn giấu diếm cũng không có.

(Tôi nghe đến đây thiếu chút nữa muốn hộc máu, bởi vì tôi cảm thấy vì sao Muộn Du Bình đối với Lạt Ma lại nói thẳng ra như thế, còn đối với tôi thì lại keo kiệt đến như vậy chứ?) (ghen rồi..ghen rồi :D )

Muộn Du Bình nói, bản thân mình có một loại bệnh, mỗi lần trải qua một đoạn thời gian, thì sẽ quên ngay tất cả mọi chuyện lúc trước, ngoại trừ một chút chuyện khi còn nhỏ, trong đầu óc anh ta không chứa được những ký ức mới phát sinh sau này.

Anh ấy quả thực là từ sâu bên trong Tuyết Sơn đi ra, hơn nữa còn mang một bí mật từ trong Tuyết Sơn ra nữa, nhưng không lâu sau thì lại quên mất bí mật này.

Thật lâu trước đây, trước khi anh ta tiến đi vào trong Tuyết Sơn, đã cùng với vị Đức Nhân Lạt Ma cuối cùng này có quan hệ rất đặc biệt, bọn họ từng làm ra cái ước định này, mười năm sau, Muộn Du Bình sẽ từ trong Tuyết Sơn, đem theo một bí mật cực lớn, nhưng vào thời điểm Muộn Du Bình trở về, đương nhiên đã hoàn toàn quên mất ước định trước đây, vì thế Đức Nhân Lạt Ma phải ở trong miếu đợi anh ấy, mà anh ta sẽ đem tất cả những gì phát sinh trong Tuyết Sơn, cùng với những việc quên mất trước đây nói ra hết, cho Đức Nhân Lạt Ma ghi xuống.

Lão Lạt Ma nghĩ đến lời Muộn Du Bình nói, mồ hôi lạnh cũng rơi xuống dưới .

Đây không phải là nói, cái việc mỗi mười năm này cũng không phải là tình cờ, tất cả Đức Nhân, đều là vì để ghi lại ký ức của vị khách đến từ trong Tuyết Sơn này sao? Vậy ngôi miếu trước đây có phải là được xây dựng vì người này, có người biết cứ cách mỗi mười năm lại có người đem bí mật từ trong Tuyết Sơn đi ra, sau đó giao bí mật này cho một người gọi là Đức Nhân Lạt Ma?

Đáng tiếc, thế hệ Đức Nhân Lạt Ma này không đợi được Muộn Du Bình từ trong Tuyết Sơn đi ra thì liền qua đời, thậm chí cũng không tìm được cho mình một người thừa kế trách nhiệm này.

Có lẽ vì hiểu là mình sẽ nhanh chóng quên mất nó, Muộn Du Bình liền đem tất cả những chuyện mình biết nói với Lão Lạt Ma nghe, anh ta nói cho Lão Lạt Ma nguyên nhân mình đi lên trên cao nguyên Tuyết Vực là vì cái gì.

Anh ấy đến là để tìm một người.

Chương 10: Chuyện cũ của Muộn Du Bình (hạ)

Vào những năm đầu thế kỷ hai mươi, đế quốc Mĩ đã trải qua "một công cuộc" sau khi thời kỳ phát triển nhanh chóng, các nơi trên thế giới đều có thể thấy được bóng dáng của các nhà thám hiểm và đội khảo sát nước Mĩ, Đông Nam Á Nepal cùng Bhutan và mấy tiểu quốc dưới chân núi dãy Himalaya, giúp làm giảm bớt các xung đột khu vực giữa Ấn Độ và Trung Quốc, tràn ngập tại đó là rất nhiều các loại hoạt động mua bán, trong đó người Mĩ chiếm một bộ phận rất lớn.

Có một số người là Ấn Độ, cùng Bhutan, người Trung Quốc tạo thành một đoàn người vận chuyển đang nghỉ ngơi trong trạm dịch, bên trong có đủ mọi loại người lẫn vào nhau, còn có một số thương nhân đến từ Bắc Phi tới được nước Pháp, truyền đến một ít thông tin không rõ thật giả thế nào ở phụ cận chiến sự vùng biên.

Bên trong đội ngựa thồ, có bốn người hình như là nhân viên quan trọng, có thể từ thân phận của bốn người này mà nhìn ra được giai cấp tạo thành đoàn ngựa thồ này. Trong đội nhóm người Ấn Độ có hai người thủ lĩnh, một người tên là A Duy, một tên là Khố Lý Mạt, hai người chính là hai huynh đệ, còn người đứng đầu nhóm người Bhutan tên là Lộng Sai, mà người Trung Quốc chỉ có một, tên của hắn là Đổng Xán, đây là một cái tên giả.

Đổng Xán vốn là họ Trương, là một thương nhân hoạt động ở vùng biên Trung Quốc, đồng thời là thành viên của một gia tộc lớn nhất Trung Quốc, hắn vốn cũng có một đoàn người vận chuyển của mình, nhưng từ Nepal đến Tây Tạng, Tứ Xuyên trên đường thì bị các thế lực ngoại quốc, ở địa phương ngang ngược làm cho mất liên lạc. Hiện tại hắn ở trong đội ngũ cùng với người Ấn Độ, và Bhutan làm một ít mua bán nhỏ vùng biên.

Hàng hoá của Đổng Xán thực sự rất đặc biệt, những món đồ đó trong những năm chiến tranh giá trị thực cũng không lớn, vẫn không thấy được ánh sáng như trước đây, trong đó rất nhiều thứ phí vận chuyển lớn hơn cả giá trị của chúng. Chuyến này của Đổng Xán, chẳng qua là kiếm cho mình một chút tiền hoa hồng giúp vận chuyển hàng hoá mà thôi.

Đổng Xán có một gương mặt rất giống người Tạng, việc này giúp cho hắn hoạt động tại địa phương thực rất thuận lợi. Ở vùng núi Himalaya có khá nhiều lực lượng lẫn lộn, một người "đơn phương độc mã" mua bán dạo tương đối nguy hiểm. Thế nhưng Đổng Xán lại là một người khá khôn khéo, hắn ở nơi này làm ăn lại vô cùng tốt, thường xuyên sử dụng Tạng ngữ để lừa bịp vẫn có thể vượt ải trót lọt.

Nhóm ngựa thồ này nghỉ ở trạm dịch mười hai ngày mới xoay sở được tất cả các vật tư cần thiết, đợi đến ngày trời tốt hiếm có, bọn họ tiến vào vùng núi Himalaya, bắt đầu xuất phát hướng về biên giới Trung Quốc.

Đây cũng là những tin tức cuối cùng mà bạn bè họ biết được về họ.

Một đoàn ngựa thồ gồm mười bảy người, bảy người Ấn Độ, chín người Bhutan, một người Trung Quốc biến mất ở trong một khu vực không người trên núi Himalaya. Đây thực ra thì cũng là một sự việc tương đối bình thường, một đoàn thương nhân chết trong khu vực này, từ cổ chí kim không biết có bao nhiêu đoàn. Nhưng mà, bọn họ đã làm cho lãnh đạo Ấn Độ trở nên căng thẳng vô cùng.

Sự căng thẳng này là không có lý do, đương nhiên, thật ra thì nhất định vẫn có một lý do, nhưng bây giờ nói vẫn còn quá sớm. Lúc ấy cấp lãnh đạo Ấn Độ đưa ra lý do là, A Duy và Khố Lý Mạt thật ra chính là nhân viên của cục tình báo Ấn Độ, bọn họ biết một kế hoạch rất lớn, nhưng hai người lại đột nhiên đều biến mất một cách không rõ ràng.

Nhất định đoàn ngựa thồ của Đổng Xán đã tiến vào khu vực núi Himalaya mà hơn nữa còn đi nhầm đường, bọn họ không có đi ra từ bất kỳ một con đường nào, mà lại hướng vào nơi sâu nhất để đi, hình như là chết ở bên trong rồi.

Nhưng mà tình hình thực sự thì lại không phải là như vậy. Mười năm sau, có hai thương nhân người Bangladesh, bị người khác nhận ra họ chính là hai người Ấn Độ năm đó, bọn họ chết trong một sự kiện ẩu đả ở Bangladesh, hai cái tên xui xẻo này đang lúc đánh cuộc, lại bị một cái cuốc chim gia dụng đánh chết. Thân phận bọn họ khi đó cũng là thương nhân, là hai huynh đệ hào phú vô cùng giàu có tại địa phương. Cũng ngay vào cuối năm đó tại nơi này, lại có người ở Tích Kim phát hiện một thương nhân chính là đầu mục của đoàn người Bhutan năm đó, là cái tên đầu trọc ấy.

Đổng Xán không hề xuất hiện, thế nhưng, vẫn có ba người khác xuất hiện, hiển nhiên khiến cho các lãnh đạo hiểu rằng, sự tình cũng không hề đơn giản như vậy.

Đoàn ngựa thồ năm đó, dường như không hề chết trong núi Himalaya, mà giống như bọn họ đều còn sống, đồng thời cũng thay tên đổi họ, lấy một thân phận khác mà sống. Hơn nữa, bọn họ còn có một điểm chung, chính là đều trở nên tương đối giàu có.

Nghe nói khi lãnh đạo bắt người trọc đầu Bhutan kia, tài sản trong nhà bọn họ dùng xe tải chở mười lần cũng không hết.

Vào lúc người Bhutan bị thẩm vấn, đã đem tất cả những chuyện xảy ra ở Himalaya nói ra toạc ra hết.

Lúc ấy, khi đoàn của bọn họ đi vào nơi sâu nhất trong núi Himalaya, trên một giao lộ đã gặp phải một đợt sạt lở vô cùng kinh khủng, bọn họ đành phải chọn một con đường khác tốt hơn để đi tiếp. Khi đó tuyết trong núi rơi rất nhiều, bọn họ không có phát giác sau vài lần xoay chuyển bên trong lại quay về chỗ bị sạt lở, khi leo lên đều bị ngã xuống vách núi.

Những người nào có xem qua phóng sự liên quan đến việc này đều biết, lúc ấy muốn vượt qua con đường đó, chỉ có thể đi bộ, có thể dùng dây thừng buộc gia súc và hành lý lại với nhau, mà dây thừng để nối cũng vô cùng quan trọng, có kết lại cũng không hề giống nhau. Đoạn đường lại quá mức trơn, dây thừng phải tháo ra. Nhưng bọn người Đổng Xán lại đánh giá sai tình hình đường đi lúc đó, vì thế, khi một người bị ngã xuống vách núi, toàn bộ mọi người cũng bị dây thừng kéo xuống.

Đó là một tai nạn vô cùng thê thảm, còn vô số những chuyện phát sinh trong đó, không thể ghi xuống từng việc được. Vì được lối với nhau bởi dây thừng, quá trình họ bị rơi xuống vách núi cũng vô cùng phức tạp, rất nhiều người sau khi bị dây thừng treo lên, theo quán tính mà trực tiếp va mạnh vào vách núi bị nham thạch đâm chết, con có vài người là bị dây thừng siết chết, cực kỳ đáng sợ.

Vì chuyện này mà làm cho bọn họ tổn hại một nửa người cùng gia súc, sau đó bọn họ cũng ngay tại vách núi đó hạ trại để nghĩ ngơi và phục hồi, phát hiện hoàn toàn không có khả năng trèo lên trên được, liền muốn tìm một con đường khác để đi lên vách đá, kết quả là lại tiến vào một khu vực trước nay chưa từng đi vào, đồng thời tìm được một nơi vô cùng kỳ quái ở bên trong.

Đó là một sơn cốc, mà điều kỳ quái chính là tuyết đọng trong sơn cốc không dày. Ở trung tâm sơn cốc, có một khối cầu vô cùng lớn, có ba bốn tầng lầu cao như vậy, một nửa bên trên đều bị tuyết bao phủ, nhưng phía dưới vẫn là có thể nhìn ra rất rõ ràng là một khối cầu kim loại màu đen cực đại.

Mà bên cạnh khối cầu bằng kim loại màu đen đó, ở trong một tầng tuyết đọng rất mỏng tìm được vô số khối cầu kim loại màu đen to nhỏ đại khái cỡ bằng quả trứng gà, số lượng lên đến cả ngàn vạn. Những khối cầu này kích cỡ lớn nhỏ khác nhau, hơn nữa còn bị tuyết đọng che lại, căn bản không có cách nào thống kê được số lượng. Nếu đem toàn bộ tuyết gạt đi, đoán chừng người Bhutan kia sẽ giống như trẻ con đùa nghịch giữa đống đồ chơi.

Bọn họ đã không còn nhớ rõ ai là người đầu tiên phát hiện ra trong số khối cầu đó được đúc từ vàng. Bọn họ liều mạng thu gom, đem tất cả hàng hoá đổi thành kim cầu.

Trong quá trình bọn họ thu gom phát hiện ra, những khối cầu được làm từ rất nhiều kim loại như, đồng , thiết , chì , giống như tất cả kim loại trên thế giới này đều có ở đây.

Tất cả mọi người đều phát điên, bởi vì có rất nhiều khối cầu, để tìm ra kim cầu trong số đó đòi hỏi phải có sự nhẫn nại. Sau này, lại phát hiện phát sinh ra chuyện tranh đoạt, có người đã bị thương trong chuyện này.

Sau đó bọn họ chịu trăm cay nghìn đắng mới rời khỏi được sơn cốc đó, rốt cuộc cũng có thể sống sót trở ra, nhưng cũng chỉ còn lại sáu người, ngoại trừ hai người Ấn Độ, một người Bhutan, còn có hai người thủ hạ cùng với Đổng Xán. Đổng Xán là người duy nhất trong số họ không mang theo thứ gì ra. Lúc ấy, ánh mắt của hắn chỉ nằm ở trên khối cầu kim loại khổng lồ kia, giống như là bị câu mất hồn phách vậy, hoàn toàn không có chút hứng thú nào với núi cầu bằng vàng kia.

Người Bhutan đó nói, khối cầu kim loại màu đen cực lớn kia, cứ như vậy đặt ở trung tâm sơn cốc, vừa nhìn liền biết đó chình là do con người làm ra. Nhưng khối cầu kim loại đen này được đặt ở nơi đó có tác dụng gì, là ai đặt ở đó, hắn không có cách nào hiểu được. tất cả những khối cầu ở đó đều bị mài mòn và oxy hoá tương đối nghiêm trọng, có lẽ đã được để ở nơi đó ít nhất có mấy nghìn năm rồi.

Sau đó khi người Bhutan được trả tự do, lại một lần nữa đem hết thảy những chuyện khó có thể tưởng này đều ghi chép lại. Hắn viết một quyển sách, hơn nữa còn viết rất nhiều suy đoán không thiết thực. Trong đó hắn công bố phần lớn của cải đều là do tự hắn kiếm được, còn vài khối cầu hoàng kim kia chẳng qua chỉ là số tiền khởi đầu giúp hắn mà thôi.

Số kim cầu mà hai người Ấn Độ đã tiêu thụ ra ngoài, lần lượt được tìm ra ở nhiều nơi trên thế giới, có một số hầu như đã bị đúc thành hình dạng khác hoặc là đồng vàng, chỉ còn lại có mười hai khối, vẫn còn nguyên hình dạng khi tìm thấy. Lúc ấy chính phủ Ấn Độ thu mua lại những khối cầu này với giá rất cao, những khối kim cầu này liền trở thành "So với vàng còn quý nữa".

Chương 11: So với Hoàng Kim còn quý hơn Hoàng Kim

Cuối cùng vẫn không có bất kỳ ai tìm được Đổng Xán, dấu vết duy nhất mà hắn để lại, là một phong thư của hắn, được giao cho một Lạt Ma (Đức Nhân). Trong thư có hoạ một bức tranh, bức tranh chính là một bức đồ hình kỳ quái - một bức Tinh đồ.

Tuy nhiên phong thư này không đến được tay người nhận, thư bị người khác chặn được, mà người chặn được cũng không hiểu được đồ hình vẽ bên trong thư, bọn họ không biết, bức hoạ đó là một bức địa đồ dẫn đến cái sơn cốc kia.

Thế nhưng, người nhận không nhận được thư, cũng sẽ không để yên. Vì thế, một người trẻ tuổi đi đến Mặc Thoát, anh ta đến từ đại gia tộc Trung Quốc giống như Đổng Xán.

Người đó chính là Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình đến đây để điều tra hướng đi của Đổng Xán, ở tại nơi anh ta có liên hệ với một người, chính là Đức Nhân khi đó.

Ở đây tôi chỉ có thể suy đoán, khẳng định Đức Nhân được xem như một người phụ trách liên lạc của Trương gia được sắp xếp tại Tây Tạng. Có khả năng người này chỉ là một Lạt Ma bình thường, sư phụ của ông ta cũng gọi Đức Nhân. Hiện tại ông ta đang tu luyện, chờ đợi thời cơ thích hợp, cũng sẽ thu nhận một đồ đệ kế thừa cái tên Đức Nhân này.

Nếu Muộn Du Bình không có xuất hiện, ông ta vẫn phải làm, nhưng mà chỉ khi ông ta trở thành Lạt Ma, hơn nữa vào một thời điểm thích hợp, sẽ vì Trương gia lựa chọn người liên lạc tiếp theo.

Nhưng mà Muộn Du Bình xuất hiện, hoàn toàn thay đổi cuộc sống của ông ta. Bổng lộc hằng tháng của người tên Đức Nhân này không hề cố định, bây giờ ông chủ đã xuất hiện, Lạt Ma bắt đầu muốn một mình hưởng hết bổng lộc công việc này.

Từ chỗ này tôi còn có thể suy đoán, Đổng Xán hoạt động ở trong này, rất có khả năng cũng chỉ là để ngụy trang. Có lẽ người này ở đó còn vì kế hoạch khác, và có liên quan đến đại bí mật bên trong Tuyết Sơn, cho nên, Trương gia mới cần sắp xếp một người thừa kế Đức Nhân để liên lạc tại Tây Tạng như vậy.

Mà cái khái niệm mười năm này, càng là khiến tôi thêm miên man bất định.

Nhưng mà, Đổng Xán xảy ra chuyện, có lẽ là Đổng Xán không có tiếp tục thực hiện chức trách của mình, hoặc là do người đó đã chết, vì thế, Trương gia phái Muộn Du Bình đến, để điều tra tình hình cho rõ.

Trương gia vào thời điểm đó, hẳn là đã nằm sát biên giới sụp đổ. Thế nhưng, sự việc lại vô cùng quan trọng, không thể không quan tâm, cho nên Muộn Du Bình mới một thân một mình đến đây.

Nhưng cuối cùng anh ấy không tìm được Đổng Xán, chỉ tìm được nơi Đổng Xán cư trú, đồng thời ở trong phòng của người đó, tìm được một bức tranh. Đổng Xán đã từng ở lại nơi này, nhưng tất cả mọi thứ đều đã bị đem đi, chỉ còn lại bức tranh kia.

Từ điểm này tôi cần phải tưởng tượng một chút. Nếu chỉ theo quyển bút ký này, tôi không có cách nào để phán đoán nội tâm suy nghĩ của Muộn Du Bình, thế nhưng tôi có thể tự mình nhập vào nội tâm của Đức Nhân Lạt Ma, để lật ngược lại một số chi tiết vào lúc bấy giờ.

Đó là một bức tranh vẽ một cái hồ lớn, cảnh sắc tươi đẹp lạ thường, khi nhìn thấy nó, một niềm vui thích rung lên trong lòng Đức Nhân, ông ta không biết rằng nước ở trên thế giới còn có thể xa xôi thần bí đến như vậy, tồn tại với một phương thức hoàn toàn ngăn cách với đời, cái hồ tuyệt mỹ kia nằm ở nơi nào vậy?

Tiếp đó Đức Nhân thấy được ảnh phản chiếu trên mặt hồ, bên trên phản chiếu từng toà Tuyết Sơn, ông ta nhận ra bên cạnh hồ nước dường như chính là ngọn núi Nhân Cách Bác Phong cao vút, nước hồ phản chiếu ra bầu trời màu xám trắng, thông qua một khung cảnh như vậy, làm cho người ta cảm thấy cái hồ này thần thánh phi phàm, mang theo khí tức khác thường.

Nếu nói đánh giá của Đức Nhân đối với đẹp trong tôn giáo và thực tế thì khá mâu thuẫn, nhưng vào thời điểm ông ta nhìn thấy bức hoạ này, dường như Lạt Ma đã có thể hiểu được một đạo lý mà trước đây ông không thể hiểu được đó là cái gì.

Đức Nhân tưởng tượng, nếu như ánh sáng trong bức tranh này thay đổi, trong đó sẽ biến thành hình dạng gì, hồ nước khúc xạ đủ loại ánh sáng, sẽ tạo thành cảnh đẹp hoa mỹ cỡ nào, tưởng tượng các loại khí hậu, cuồng phong, mưa to, mưa nhỏ, tuyết rơi, mưa đá, sương mù phảng phất, lại nghĩ, những con cá trong hồ này có hình dáng thế nào, có khác gì với những con cá ở nơi khác hay không?

Khi đó Đức Nhân liền hướng về bức tranh này nhìn rất lâu, đợi cho đến khi phát hiện không thấy Muộn Du Bình ở bên cạnh mới phản ứng lại. Muộn Du Bình một mình ngồi ở cửa gian phòng. Ở trong đám đông đang hành lễ bái lạy, chỉ có một mình anh ta không đối mặt với chùa miếu, mà là Tuyết Sơn ở phía xa xa.

Đức Nhân đi đến phía sau, Muộn Du Bình liền hỏi: "Cái hồ ở trong tranh ở nơi nào vậy?"

Đức Nhân lắc lắc đầu, ông ta chưa bao giờ gặp qua một cái hồ mỹ lệ đến như vậy, nếu muốn trả lời thì nhất định ông ta sẽ nói nó tồn tại ở trên trời. Tuy nhiên, thấy ảnh phản chiếu của núi Nhân Cách Bác Phong, chắc hẳn là nó ở bên trong Tuyết Sơn, rất có khả năng ở ngay bên trong vùng nội địa dãy Himalaya. Đức Nhân liền đem suy luận của mình nói với Muộn Du Bình, Muộn Du Bình lại hỏi: "Tôi làm sao mới có thể đi vào trong Tuyết Sơn? Tôi cần sự hỗ trợ của ngài, bao nhiêu tiền cũng không vấn đề gì."

Tổ chức một đội ngũ đi vào trong vùng Tuyết Sơn kia, có thể nói là vô cùng vô cùng là khó khăn, thế nhưng, nếu tìm được người rồi, cũng không phải không có chút hy vọng nào.

Đức Nhân nghĩ đến đầu tiên chính là đoàn người ngựa thồ vùng biên giới, chỉ có nhóm người này, có kinh nghiệm đi vào nơi sâu nhất Tuyết Sơn, chỉ là bọn hắn tiến vào khu vực đó, cũng đều là đường mà người xưa dùng sinh mệnh và thời gian đào xới ra, chứ không phải một nơi hoàn toàn chưa có ai đến, hơn nữa mấy con đường kia hiện nay cũng chẳng khác không có đường là bao nhiêu.

Đức Nhân có một ý tưởng khác, nếu những người này cũng cảm thấy không được, như vậy ít nhất, cứ để cho bọn họ đến khuyên Muộn Du Bình, bọn họ so với mình vẫn có sức thuyết phục hơn rất nhiều.

Nhưng mà, sự việc lại phát triển nằm ngoài dự liệu của ông ta, Đức Nhân thực sự rất dễ để tìm được ba người đồng ý cùng Muộn Du Bình tiến vào Tuyết Sơn. Ông ta không biết có phải là do cái giá mà Muộn Du Bình đưa ra hay không, tuy nhiên cũng dễ nhận ra, cái giá tiền kia tương đối mê người.

Một tuần sau, Muộn Du Bình cùng với sự hướng dẫn của ba người kia tiến vào nơi sâu nhất của Tuyết Sơn, trước khi xuất phát một ngày, Muộn Du Bình nói với Đức Nhân, mười năm sau, anh ta sẽ lại đến tìm ông.

Khi Đức Nhân nhìn Muộn Du Bình rời đi, ông ta đã tưởng tượng ra toàn bộ quá trình anh tiến vào nơi sâu nhất trong Tuyết Sơn, kết quả mà Muộn Du Bình gặp được có thể là, hồ nước mỹ lệ giống như một viên bảo thạch ở bên trong Tuyết Sơn kia, rốt cuộc anh ta muốn tìm cái gì phía sau cảnh đẹp hoa mỹ đó?

Đương nhiên, mười nămsau, Đức Nhân Lạt Ma đã chết đi, nhưng mà dựa vào quy định của miếu, trước cửamiếu vẫn có đặt lò than, chờ đợi Muộn Du Bình trở lại. Mà Muộn Du Bình sau khitừ biệt cùng Đức Nhân, liền đi đằng đẵng vào một vùng đồng tuyết mênh môngkhông ai biết.

Chương 12: Đi vào Tuyết Sơn

Ngày đầu tiên.

Tuyết càng rơi xuống càng nhiều, trước khi lên đường tất cả đều đã cầu nguyện, nhưng tình hình lại hoàn toàn đi theo chiều ngược lại.

Quả nhiên, bất kể là loại người nào, chỉ cần có ý đồ tiến vào nơi đó, ông Trời đều không cho phép. Xa xa mảng tối đen để lộ ra dãy núi, hiện tại gần như đã không còn thấy được nữa , ở chỗ đó, bất kể là vào thời gian nào, đều không dễ gì mà xâm nhập được. Đó là một nơi con người không nên đi vào.

Tuyết như thế này không rõ bên trong có sinh vật sống không? Trước đây có người nói là hắn bắt gặp một số chim lớn và dã thú lông trắng, bây giờ nghĩ lại, hình như đều là chém gió mà thôi, tiếng gió thổi bên tai, nơi này ngay cả một chút hơi ấm cũng không có, làm sao có thể có thứ nào như vậy sống ở đây chứ.

Vật sống duy nhất trong vùng này, e rằng cũng chỉ là ba người đang đi bọn họ mà thôi, vốn là có bốn, chỉ là một người trước khi lên đường đã hoà làm một với vùng Tuyết Sơn này rồi, người kia vào lúc sáng sớm, khi mọi người thức dậy đã phát hiện hắn uống rượu rồi chết ở ven đường, toàn thân đã đông lại thành một thể với tảng đá trên nền đất.

Một kiệu phu dùng cái đục gõ vào nhau đã có thể nhìn được văng ra toàn là vụn băng, ở trong gió nghe được, âm thanh gõ này giống như phát ra từ một loại nhạc cụ thần bí, chậm rãi, ở trong gió áp vang lên khe khẽ. Người thứ hai chính là Muộn Du Bình, anh ta nhắm mắt lại dựa theo thanh âm phía trước mà tiến lên, đưa tay tìm kiếm, cũng không phải không muốn mở to mắt, mà là mang kính bảo hộ anh ấy cũng không thấy được cái gì như cũ, tất cả còn không bằng dùng cảm giác.

"Có muốn dừng lại nghỉ ngơi một lát hay không?" Một kiệu phu phía sau liền gọi lên, Muộn Du Bình quay đầu nhìn thoáng qua, đây chính là kiệu phu lớn tuổi nhất trong hai người - Lạp Ba.

Lạp Ba là một người Tạng mới ngoài bốn mươi, nhưng nhìn qua đã như sáu mươi rồi, trên gương mặt ngăm đen đầy những nếp nhăn như dao khắc, đây là kết quả bị gió tuyết thổi trường kỳ, sắc mặt đỏ lên, có chút giống như là người uống rượu. Hắn vốn là Lão đại trong ba người, cũng là kiệu phu có kinh nghiệm phong phú nhất.

"Có thể nghỉ ngơi một chút sao?" Muộn Du Bình hỏi.

"Cứ như vậy mà đi tiếp, dù có đi đến trời tối chúng ta cũng chỉ có thể đi được hơn mười mét, không bằng để gió qua đã rồi hẵng nói. Nhìn sắc trời, gió thổi cũng không mất bao nhiêu thời gian." Lạp Ba nói, "Nếu không chúng ta cứ ở chỗ này lãng phí thể lực, hoàn toàn không có bất cứ kết quả nào."

"Vậy dừng lại đi." Muộn Du Bình nói.

Bọn họ tựa vào sát vách núi ngừng lại nghỉ ngơi, nhưng chỉ có thể đứng, dần dần gió cũng dừng lại, rõ ràng một kiệu phu có chút suy nhược, dừng lại liền thiếu chút nữa là tuột xuống, bị Lạp Ba giữ chặt, Lạp Ba dùng âm thanh rất lớn nói chuyện với hắn, đem toàn bộ tinh thần của hắn thu hồi lại.

Lạp Ba thở dài một hơi nhẹ nhõm, hắn biết, vừa rồi gió áp như vậy, tiếp tục đi xuống dưới mới đúng, thế nhưng tiếp tục đi, phải đuổi được theo đầu gió mới đi qua đoạn hiểm cảnh này, không thể dừng, có thể phải đi suốt đêm mới có thể nghỉ ngơi. Đến khi dừng lại, có thể làm rất nhiều chuyện, nhóm lửa, đánh một giấc thật ngon thật ngon, cho nên chút cực khổ đó cũng coi như đáng giá. Chỉ có điều, hắn đã lớn tuổi, thật sự chịu không nổi, bây giờ hắn thà rằng đứng ở chỗ này, cũng không muốn đi một bước.

Khi hắn nói như thế, rất sợ người kiệu phu kia sẽ phản đối, nhưng rõ ràng thể lực bọn họ đều đến mức cực hạn, Muộn Du Bình không có kinh nghiệm, không có lớn tiếng quát bọn họ, không giống như mấy ông chủ đám ngựa thồ trước đây bắt buộc bọn họ đi tiếp.

Tóm lại, tình hình hiện tại còn nằm trong sự khống chế của hắn, đứng ở chỗ này, dần dần hắn cảm thấy thể lực đã khôi phục lại chút ít, điều này dù sao so với đi suốt cả buổi tối sau đó ngã xuống vẫn tốt hơn. Tuổi lớn, thà rằng chịu dựng chứ không thể liều lĩnh xông lên nha. Nếu xảy ra chuyện ngoài ý muốn vĩnh viễn ngươi sẽ không biết làm sao, hắn đã lớn tuổi như vậy, phản ứng cũng không thể nhanh nhẹn giống như trước được.

Muộn Du Bình vô cùng nghe lời, điều này làm cho Lạp Ba cảm thấy có chút băn khoăn trong lòng, mà thật ra hắn đối với Muộn Du Bình có chút hiếu kì, đừng nói là toàn bộ Mặc Thoát, một người tiến vào Tuyết Sơn, hơn nữa còn đi một con đường như vậy, trên cơ bản đều không có, đây chính là lần đầu tiên. Muộn Du Bình này, nhìn tuổi tác cùng cách ăn nói, đều không thể đoán được mục đích của hắn là gì, thật sự làm cho người khác có cảm giác thần bí khó lường.

"Ngài như là làm việc cho người ngoại quốc?" Lạp Ba nghỉ ngơi một lát, vài người chen chúc cùng một chỗ, hắn liền hỏi Muộn Du Bình, hắn cần nói một vài câu, ở trong tình trạng mệt mỏi này, nếu kiên trì không vững, con người sẽ rất có khả năng sẽ ngủ đi.

"Người ngoại quốc?" Muộn Du Bình khẽ lắc đầu, "Vì sao lại hỏi như vậy?"

"Trước kia người thuê chúng tôi đi con đường này, phần lớn đều là người ngoại quốc, đều có vóc người cao to, có tóc vàng, có tóc bạch kim, ánh mắt một số người màu lam, còn một số là lục, giống như là mắt mèo vậy."

Muộn Du Bình không nói lời nào, băng giá đều kết ở trên mặt anh ta, thấy không biểu tình rõ lắm, hình như là có nghe, nhưng lại gần như hoàn toàn không muốn trả lời hắn. Yên lặng nửa ngày, Muộn Du Bình mới nói: "Cũng là đi con đường này sao?"

"Con đường nào cũng có người đi." Lạp Ba nói,"Mỗi một con đường có sự hung hiểm khác nhau, tuy nhiên người ngoại quốc tìm đến kiệu phu rất nhiều, thứ gì cũng muốn chuyển vào trong, cho tiền cũng ít, mà vào mùa này người đi con đường này chẳng có mấy, bằng không, có lẽ chúng tôi còn có thể gặp được một hai người khác. Chỉ có điều con đường này cũng không thật sự khó đi, khi tuyết dừng tất cả đều dễ xử lý, hơn nữa nơi ngài muốn đến lại không có đường, đó mới thực sự là đáng sợ. Tôi nói, mỗi lần đi một dặm, tôi cũng sẽ khuyên ngài một câu."

Muộn Du Bình không có nói tiếp, mỗi lần đều nhắc đến đây, anh ta lại không nói, Lạp Ba suy nghĩ trong lòng, thời gian đi vào còn chưa đủ lâu, chỉ cần mình đi chậm một chút, một ngày nào đó anh ta sẽ lui bước. Hoàn cảnh ở nơi này, không phải là nơi người bình thường có thể chịu được.

"Vậy vì sao ông lại muốn đi đến đây?" Muộn Du Bình thật lâu mới hỏi.

Lạp Ba trầm mặc một chút, hắn nhớ tới mấy đứa trẻ trong nhà, lúc ấy vì cái gì lại muốn đồng ý vị Lạt Ma kia mà tới nơi này, hắn là mang tư lợi, hắn cũng không muốn tiếp tục đi nữa, chỉ là nếu Muộn Du Bình này không hiểu được để quay đầu trở lại, vậy hắn cũng không có biện pháp nào. Hắn sờ sờ cây Tạng đao trong tay, muốn giết một người rất đơn giản, đơn giản đến mức ngay cả đao cũng không cần dùng đến. (thử xem đi rồi chú biết nó "đơn giản" tới mức nào -_-)

"Thiếu tiền." Hắn trả lời ngắn gọn.

Đây chỉ là một động tác phi thường nhỏ, ngay lập tực đã bị Muộn Du Bình bắt được, nhưng anh ta không hề để ý quá mức.

"Chúng ta sẽ gặp nguy hiểm gì?" Muộn Du Bình không có hỏi trực tiếp hắn, mà là hỏi một vấn đề tương đối thực tế.

"Nguy hiểm? Ở trong này không có cái gì không nguy hiểm cả, để tôi nói cho ngài nghe, ở trong Tuyết Sơn, tất cả mọi thứ đều là kẻ thù của ngài, mặt trời, gió, tuyết, tiếng nói chuyện, đá tảng, bất kỳ khi nào nổi bão, cậu đều sẽ chết. Ở trong này không tồn tại thứ gì không nguy hiểm, toàn bộ mọi thứ đều là nguy hiểm, còn có các loại quỷ ở trong tuyết, người chết ở trong tuyết, nếu không tìm thấy đường trở về, sẽ luôn luôn quanh quẩn ở nơi này."

"Quỷ?" Muộn Du Bình dường như nghe được một cái gì đó rất thú vị, "Các người cũng kiêng kị cái này sao?"

"Người ở đâu mà không kiêng kỵ?" Lạp Ba nói,"Chỉ cần là sống thì đều sẽ kiêng kị thứ gì đó."

"Con người so với quỷ còn đáng sợ hơn nhiều, lòng người không thể nhìn thấu được." Muộn Du Bình nói, "Người sống còn không bằng quỷ đâu." Nói xong hắn nhìn thoáng qua cây Tạng đao của Lạp Ba.

Lạp Ba có chút căng thẳng, bụng nói chẳng lẽ tên này đã nhìn thấu cái gì đó, đang trong lúc lưỡng lự, thanh Tạng đao đã bị rút ra, nằm gọn trong tay của Muộn Du Bình.

"Ngài?"

Muộn Du Bình đem Tạng đao vứt vào trong vách núi dưới thân, "Một thứ vô dụng, tốt nhất là ném đi sớm, đem theo bên người, quá nặng."

Lạp Ba nhìn Tạng đao nhanh chóng rơi xuống, đánh vào trên tảng đá bắn bay đi ra ngoài, sau đó biến mất ở trong tuyết, liền hiểu được mình đã gặp được một người lợi hại, quay đầu nhìn lại, liền thấy Muộn Du Bình cũng đang nhìn hắn, trong ánh mắt hoàn toàn lãnh đạm, giống như chuyện vừa rồi không phải anh ta làm vậy.

Thôi được, ở trong này, kỳ thật đao cũng không có quan trọng như vậy, Lạp Ba nghĩ thầm. Hơn nữa, người có đao không chỉ có một, ở trên con đường phía trước, chung quy khi cần cũng có thể lôi kéo, vào thời điểm thích hợp thì vẫn có thể xuống tay.

Gió dần dần nhỏ đi, sau khi gió áp bên trên từ từ giảm xuống, Ba Lạp cảm giác thoải mái rất nhiều. Cùng lúc, phía sau, trên con đường núi hắn nhìn thấy được, xuất hiện một cái gì đó hắn rất quen thuộc.

Đó là một đoàn kiệu phu khác, hiện đang tiến tới chỗ bọn họ, khoảng cách còn rất xa, tại vừa rồi trong gió tuyết cái gì cũng không nhìn thấy, bây giờ mới nhìn thấy lộ ra một điểm đen.

"Kỳ quái, mùa đông năm nay con đường này sao lại nổi tiếng vậy?" Hắn lẩm bẩm, ở trong này không thể lớn tiếng quát to, cũng không thể nói chuyện, vì sẽ khiến cho tuyết lở. Hắn chỉ là lẳng lặng nhìn, phát hiện đoàn kiệu phu hoàn toàn không có chuyển động, không có bất kỳ động tác nào, toàn bộ điểm đen vẫn duy trì cái bộ dạng kia.

"Tất cả bọn họ đều đã chết." Lạp Ba nhìn nửa ngày, bỗng nhiên nói,"Những thứ đó là người chết."

Nhất định những người kia đều đã chết, hơn nữa nhất định là đông cứng ở nơi này, bọn họ hình như cũng giống như bọn họ, tựa lưng vách núi đá nghỉ ngơi, cuối cùng toàn bộ đều bị đông chết, bị băng dính chặt lên trên vách núi đá.

Lạp Ba bỗng nhiên cảm giác được thấy lạnh cả người, hắn lập tức đứng lên, quay lại phía những người khác nói: "Gió đã bớt, chúng ta vẫn là nên tiếp tục đi tới đi. Để xem phía thi thể đằng trước này là người nào."

Chương 13: Bút kí về thế giới Chung Cực

Vọng sơn bào tử mã - dãy Himalaya, bào tử mã.

Những người phía trước bị đông chết dính chặt lên vách đá, nhìn qua hết sức rõ ràng. Tuy rằng khoảng cách của bọn họ chỉ có mấy chục mét. Nhưng trong tình hình như thế này, thực sự muốn đi tới chỗ đó cũng phải đi đến bốn năm giờ liền.

Khi Muộn Du Bình quay đầu nhìn, liền ý thức được thật ra nơi này vốn là không có đường đi. Cách mà bọn họ đi lại, chính là leo lên trên vách đá, nơi này núi non trùng trùng điệp điệp, rất nhiều khe rãnh, muốn đi tới không phải là không có phương pháp nào đặt chân, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm. Anh ấy nhớ rõ trước khi đi đã từng nói chuyện với Đức Nhân Đại Lạt Ma, cảm giác sẽ bị ngã chết khi trèo lên một ngọn núi lớn cũng không nguy hiểm. Thực sự nguy hiểm là, nhìn giống như có thể leo qua ngọn núi, ngược lại đó mới là loại núi đoạt đi rất nhiều sinh mệnh.

Dù vậy, anh ta cũng không có một chút ý nghĩ nào muốn lùi bước.

Chung quy thì Ba Lạp đã tuổi lớn, dựa lên trên vách núi nghỉ ngơi quá lâu, mới có tâm tư đi nhìn mấy cái thi thể bị đông cứng kia.

Số lượng rất nhiều, Lạp Ba nhìn dáng vẻ của mấy thi thể kia, liền biết bọn họ là chết như thế nào - tất cả đều dựa lưng sát vào vách núi, giống như động tác của hắn bây giờ. Bọn họ nhất định là trước đây bị gió áp vây ở nơi này. Cũng giống như bọn hắn, họ cũng định nghỉ ngơi hồi phục rồi sau đó lại tiếp tục đi, kết quả nhiệt độ đột ngột giảm xuống, trong thời điểm nghỉ ngơi, rất nhiều người đều ở nơi này do tâm lực suy kiệt quá độ mà bị đông chết.

Ở một nơi giá lạnh, cái chết và giấc ngủ có đôi khi cũng không khác gì nhau. Vào rất nhiều thời điểm, đông chết một người chỉ cần vài giây.

"Ông chủ, những người đó chắc là từ trong núi đi ra, khi ở trong này nghỉ ngơi hồi phục, nhiệt độ không khí thay đổi lại có gió áp quá lớn, nên mới bị đông chết. Như bọn họ có thể được coi như là tốt rồi, chứ có rất nhiều người, có thể sau khi đông chết liền ngã xuống vách núi phía dưới, thi thể bị vùi vào trong tuyết, vĩnh viễn sẽ không được phát hiện."

"Đi ra?" Muộn Du Bình có chút hiếu kì, "Có người sinh sống ở bên trong Tuyết Sơn sao?"

"Cũng không phải đâu ông chủ, nhìn cái dáng vẻ kia đi, người ngoại quốc thường xuyên đi vào, cũng không được coi là sinh sống ở bên trong, bọn họ chỉ là muốn biết, vượt qua những con đường nhỏ trong núi, do đó đi xuyên qua đến khu vực không người phía trước, cũng không để thăm dò cái gì." Lạp Ba nói, ngữ khí ông ta ám chỉ, chỗ đó là một vùng đất không người.

Muộn Du Bình nghe rồi chỉ gật đầu, ánh mắt tự nhiên nhìn về hướng những thi thể đó. Lạp Ba thở dài.

Lúc này, một kiệu phu đang nghỉ ngơi ở bên cạnh, dùng Tạng ngữ gọi vài câu. Muộn Du Bình nghe không hiểu, nhưng mà Lạp Ba nghe hiểu, nói với ông ta: "Đều là người lạ."

Lạp Ba quay đầu nhìn mấy cỗ thi thể kia, giữa gió tuyết, hắn cũng không thể nhìn thấy rõ ràng được, nhưng ông ta nhìn lướt qua một vòng cũng có thể thấy được gương mặt của bọn họ, quả thật không phải là những gương mặt quen thuộc gì.

Điều này là hoàn toàn không thể, dù kiệu phu ở Mặc Thoát, bọn họ không biết toàn bộ, nhưng cũng có thể biết được tám chín phần. Nếu như có sự cố như thế này, ít nhất cũng có thể nhận ra một nửa người trong số họ, nhưng rõ ràng là những gương mặt này đều rất xa lạ .

"Không phải người Mặc Thoát." Lạp Ba nhìn Muộn Du Bình thấy anh ta hình như muốn hỏi, liền nói luôn. Ông ta chưa hề nghe nói đến một đội ngũ kiểu cách xa lạ như vậy ra vào Mặc Thoát. Thế thì những người này là từ đâu đến đây chứ? Chẳng lẽ là từ nơi khác đi vào khu vực không người này, đúng dịp khi đi ra thì đi ngang nơi này?

Trong lòng Lạp Ba tràn đầy sự nghi hoặc, bởi vì ông ta biết, có thể đi qua khu vực không người này có mấy con đường nhỏ, từ xưa tới nay chỉ có vài cái mà thôi, mà những con đường nhỏ đó ở trong này chỉ có kiệu phu biết mà thôi, hơn nữa đều thông qua cách người già dẫn dắt người trẻ, truyền thừa đời này sang đời khác, bởi vì dùng ngôn ngữ hay tranh vẽ để miêu tả dẫn đường hoàn toàn không tác dụng, những con đường này nhất định phải đi qua hơn mười lần mới có thể nhớ rõ được, vì thế hoàn toàn không có khả năng bị tiết lộ ra bên ngoài.

Một kiệu phu khác tiếp tục dùng Tạng ngữ nói với Lạp Ba, đó có thể hiểu được có ý là - ở trong Tuyết Sơn gặp phải thi thể, có đôi khi cũng không phải là chuyện xấu, nhất là khi trên người thi thể có thể mang theo rất nhiều thứ, có thể lấy về đổi tiền, thứ hai là nếu biết được thân phận của thi thể, cũng có thể lấy được một ít tiền báo tin từ người nhà thi thể.

Đồng thời lại chỉ chỉ vào một thi thể ở xa xa, Lạp Ba lập tức phát hiện, đó là ba người ngoại quốc. Cách ăn mặc của bọn họ hoàn toàn khác với những người khác, bên cạnh có vài người Tạng giúp bọn họ mang rất nhiều cái túi.

Bao hàng của người ngoại quốc có rất nhiều thứ đáng giá, về điểm này có không ít người biết. Nói như vậy, bọn Lạp Ba cũng sẽ không xuống tay đối với người ngoại quốc, thứ nhất là các Lạt Ma cùng với người ngoại quốc đều có quan hệ rất tốt, nếu người ngoại quốc bị giết hại, sự việc như vậy sẽ không dễ gì kết thúc được, đến cuối cùng bọn họ sẽ phải chịu những hình phạt vô cùng nghiêm khắc, thứ hai là người ngoại quốc chung quy cũng sẽ giữ một nửa tiền mặt sau khi trở về mới thanh toán hết, mà những thứ bọn họ mang theo đều vô cùng trân quý tới kỳ lạ, nhưng nếu muốn bán ra sẽ rất có khả năng sẽ bị chùa miếu và chính phủ phát hiện.

Tuy nhiên, lúc này lại có chút không giống vậy. Bởi vì mấy người ngoại quốc này rõ ràng không phải xuất phát từ Mặc Thoát, vậy những thứ đó của bọn họ, xuất hiện ở Mặc Thoát thì sẽ không có vấn đề gì cả.

Mấy người dùng hết sức bình sinh mới lấy được vài cái ba lô, sau đó tiếp tục tiến lên, toàn bộ quá trình không cần nói nhiều, bởi vì trong bút ký cũng không có miêu tả lại, tóm lại đó cũng chỉ là một quá trình không thoải mái gì.

Ước chừng là lúc mặt trời mọc vào ngày thứ hai, Lạp Ba dẫn mọi người đến một sườn dốc phủ tuyết, bọn họ đào một cái động chắn gió trong truyết rồi nghỉ ngơi và phục hồi ở trong đó, lúc này mới có cơ hội xem trong ba lô có những thứ gì.

Bên trong túi đều là máy móc và tiêu bản nham thạch, người ngoại quốc vẫn luôn luôn mang theo một ít đá, Lạp Ba biết mấy cái kia là tiêu bản, nhưng hắn không biết tiêu bản là dùng để làm cái gì.

Trong lúc họ đang lẩm nhẩm, đoán thử mấy cái dụng cụ kia đáng giá bao nhiêu tiền khi đó bọn họ mới phát hiện trong túi có hai quả kim cầu.

Hai quả kim cầu được đặt ở trong một cái hộp sắt, trong hộp sắt còn có một thứ khác được bao gói vô cùng chật chẽ.

Như vậy có ba món đồ, hai khối kim cầu không hề được che đậy, mà món đồ kia lại được gói kỹ như vậy, chẳng lẽ giá trị của nó so kim cầu còn cao sao?

Thế nhưng sau khi mở ra bọn họ lại phát hiện, đó là một khối đá màu đen giống như là kim loại, cực kỳ xấu xí.

Từ đầu đến cuối, cái người tên Muộn Du Bình kia một mực nhìn một thứ gì đó ở trong túi bị họ coi là không đáng giá, đó là một quyển Notebook xách tay, trên mặt viết đầy những văn tự nước ngoài.

Lạp Ba thấy bộ dạng chăm chú của Muộn Du Bình, quyết định tạm thời trước tiên không đi quấy rầy y, bọn họ chiếm được hai quả kim cầu, hắn cảm giác bọn họ không cần phải tiếp tục đi vào trong nữa, nói không chừng, lúc này bọn họ so với Muộn Du Bình còn giàu có hơn, Lạp Ba đắm chìm trong cảm giác mừng như điên, cảm giác đây là một ngày quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.

Ngay trong lúc hắn đang vui mừng thì cũng vừa cân nhắc làm sao kiếm lý do để giải thích với Muộn Du Bình không thể đi tiếp nữa, Muộn Du Bình kia lại đem quyển Notebook xách tay của người nước ngoài đưa lại cho hắn, hỏi hắn một hàng chữ bên trên là có nghĩa gì.

Thì ra trên mỗi một tờ Notebook, đều có vẽ một thứ gì đó, ngay bên cạnh nó, người nước ngoài dùng chữ Tạng viết xiêu vẹo chú thích.

Lạp Ba không biết nhiều chữ cho lắm, thế nhưng câu Tạng ngữ này hắn cũng có thể đọc hiểu được, bởi vì trong lúc hắn lễ Phật, Lạt Ma đã từng dạy qua mấy chữ này, câu Tạng ngữ này có nghĩ là "Thế giới chung cực".

Lạp Ba không hiểu, hắn nhìn nhìn câu Tạng ngữ bên cạnh tranh vẽ, sau đó nhìn Muộn Du Bình làm ra vẻ chỉ biết được như vậy thôi.

Chương 14: Bí mật lớn nhất

Nay kia Notebook cùng với bức tranh vẽ kia hiện đang để ở trước mặt tôi, đây là Lão Lạt Ma phân phó người khác đưa tới cho tôi.

Không hề nghi ngờ, tuy tôi không hiểu được những văn tự này ghi gì, nhưng tôi vẫn có thể biết được, đây là tiếng Đức, rõ ràng thi thể người nước ngoài năm đó Tiểu Ca phát hiện, là thi thể người Đức.

Cho dù tôi không biết văn tự này có nghĩa gì, nhưng tôi nhìn thấy bức vẽ, cũng biết quyển bút ký đang nói về cái gì rồi. trong bút ký phác hoạ rất nhiều hình vẽ, một câu Tạng ngữ "Thế giới chung cực" chú thích cho mấy tờ tranh vẽ, tôi nhìn thấy một cánh cửa Thanh Đồng cực lớn.

Cánh cửa Thanh Đồng kia dùng bút pháp vô cùng tinh tế phác thảo nên, chủ nhân của cái Netobook này khẳng định là một cao thủ hội họa, tôi nhìn cánh cửa cực lớn này, tuy rằng cũng không hoàn toàn giống với cánh cửa ở núi Trường Bạch, nhưng tôi hiểu rõ, nhất định nó là một thứ gì đó cùng loại.

Một cánh cửa như vậy, vậy mà lại không có duy nhất một cánh? Chẳng lẽ ở trong lòng núi Himalaya, còn có một cánh cửa Thanh Đồng cực lớn khác sao?

Trong lòng tôi vô cùng kinh ngạc, nhìn câu Tạng ngữ "Thế giới chung cực" cùng với bức tranh bên cạnh.

Chẳng lẽ, thứ được vẽ trên bức tranh, chính là chung cực?

Tôi cẩn thận nghiền ngẫm bức hoạ kia, ba ngày sau, tôi mới hiểu được đó là thứ gì, tiếp đó, tôi dùng bút pháp chi tiết nhất, đem thứ được vẽ trên bức tranh kia vẽ lại, người thông minh có lẽ có thể đoán được, đó rốt cuộc là cái gì.

Đầu tiên, này Notebook xách tay này cỡ, đại khái cũng bằng một quyển sách lớn bằng bàn tay, thứ hai, bên trong cũng chỉ dùng để vẽ tranh, nét vẽ cực kỳ tinh tế. dễ nhận thấy, khi chủ nhân bút kỳ này đang vẽ, cũng không phải để ghi chép lại tâm tình trong lòng, mà lấy tiêu chuẩn vẽ nghệ thuật yêu cầu bản thân, vì thế, bức tranh này được vẽ cực kỳ nghiêm túc.

Cuối cùng trên bức vẽ, chúng tôi có thể nhìn thấy thứ gì đó giống như xác rùa vậy, không có bản tỉ lệ, không rõ thứ này lớn cỡ nào, nhưng từ người đứng bên cạnh nó trong bức hoạ thì thấy, đó là một vật cực kỳ lớn, trên "Xác rùa" còn có các vết rạn vô cùng vô cùng nhỏ, khiến tôi cảm giác hết sức giật mình là, tác giả bức vẽ này, đem tất cả vết rạn của nó đều miêu tả ra. Có thể thấy được, hắn đã cực kỳ cẩn thận miêu tả ra, mà không phải một kiểu vì để khoe khoang thể hiện kỷ xảo hội hoạ.

Ngay tại bên cạnh cái "Rùa xác" này, còn có tám cái "Rùa xác" nhỏ hơn một chút. Chúng sắp sếp thành hàng không hề có quy luật nào, cùng với "Rùa xác" lớn nhất tạo thành một đồ hình kỳ quái.

Mà ở xung quanh xác rùa, có rất nhiều thứ gì đó giống như xúc tu (bạch tuộc đại chiến rùa ^^), hoặc có thể nói, thoạt nhìn thứ đó nhìn gần giống như cáp điện, nối tiếp nhau đi vòng xung quanh giống như mạng nhện.

Đây chính là thế giới Chung cực sao?

Cảm giác của tôi lúc ấy là vô cùng kinh ngạc, bởi vì nhìn qua mấy thứ này, giống như là một thứ gì đó lấm tấm cực kỳ xấu xí. Nếu không phải bức tranh không phải do mấy người cao thủ về hội hoạ phác hoạ ra, để thể hiện ra mấy thứ này to lớn không gì sánh được, như vậy thì rất có thể nó sẽ bị coi là một thứ đồ vật cực kỳ bình thường.

Tóm lại đây là cái gì chứ? Tại sao lại được gọi là thế giới Chung cực?

Ngày thứ mười một

Muộn Du Bình thật sự đã không biết rằng bản thân đang ở nơi nào nữa rồi, bốn phía đều là tuyết trắng mù mịt, nếu như nói vào vài ngày trước, dãy Tuyết Sơn sừng sững cùng mây mù vẫn còn làm cho anh ta có một tia kính nể đối với nơi này, nhưng hôm nay y đã hoàn toàn chết lặng .

Sau khi lấy được hai quả kim cầu, Lạp Ba cùng người kiệu phu đồng đội của hắn thực sự rất vui vẻ, Muộn Du Bình nói với Lạp Ba, có lẽ ở nơi hắn muốn đến có lẽ còn có rất nhiều kim cầu như vậy, vì thế Lạp Ba hiểu ra được Muộn Du Bình - hình như là con cháu của một gia đình giàu có, chỉ một mình lẻ loi đi vào nơi sâu nhất bên trong Tuyết Sơn, nếu như xuất phát từ lý do như vậy, thì hắn có thể nhận được.

"Ngài đi đến bên trong ngọn núi này, cũng là vì những khối kim cầu này sao?" Lạp Ba trong khi đường đang thông thạo hỏi, mấy ngày nay tuyết đều phủ trên sườn dốc đường xá tương đối tốt, bọn họ đi lại cũng khá thong dong, lại có càng thêm nhiều cơ hội nghỉ ngơi.

Muộn Du Bình dường như đối với vấn đền mà hắn hỏi có chút khó trả lời, đi được nửa ngày trời mới lắc đầu, nói "Cũng không hẳn là vậy."

"Chuyện này có liên quan đến một số bí mật." Muộn Du Bình nói tiếp, anh ta chậm rãi đi tới, cùng lúc đó Lạp Ba nghe anh ấy nói cũng không hiểu được sự tình.

Thật lâu trước đây, gia tộc của Muộn Du Bình, từ trong tay Hoàng Đế Trung Quốc lấy được, một cái hộp bằng đá có khắc văn long. Mà cái hộp long văn này, là khai quật được ở trong một sơn động cho tử tù ở. Trong đó có một điểm đặc biệt, trên thân chiếc hộp không có bất kỳ một khe hở nào, nó chính là một khối, cho nên Hoàng đế không thể mở ra, mới đến xin các vị trưởng bối nhà bọn họ giúp đỡ.

Chiếc hộp làm sao mà mở ra, Muộn Du Bình cũng không biết, cái qua trình đó vô cùng huyền diệu, sau đó, mấy vị trưởng bối trong gia tộc mật hội trong một đêm, có nhiều chuyện cũng chính vì một đêm này mà phát sinh thay đổi.

Lạp Ba nghe nói cứ như lọt vào sương mù, nhưng hắn cảm thấy thực sự quá thần kỳ, hắn biết Muộn Du Bình sẽ đem tất cả mọi chuyện nói với hắn, hắn chỉ nghĩ tới Lạt Ma đã từng giảng qua cùng hắn một vài cố sự về rồng, trong cái cố sự kia, cũng có chuyện truyền lại cho đời sau một chiếc hộp.

"Mở cái hộp đó ra là một sự sai lầm, có một thứ, không biết thì cũng không quan trọng, một khi biết, thì ông Trời cũng không thể xoay chuyển được số phận." Muộn Du Bình lẩm bẩm nói, "Bên trong Tuyết Sơn nơi này, có lẽ cũng sẽ có phương pháp liên quan đến chiếc hộp kia, chúng tôi đã lấy được một nửa tin tức trước rồi, bị mất một nửa phần sau. Cho nên, tôi chỉ có thể tự mình đến đây thử tìm một chút."

"Vậy những người khác trong gia tộc cậu đâu?" Lạp Ba hỏi anh ta.

Muộn Du Bình thản nhiên nhìn Tuyết Sơn: "Bọn họ bây giờ đang ở một nơi khác, cũng là một nơi giống như nơi này."

Lạp Ba không có hỏi lại , hắn cảm giác Muộn Du Bình này chỉ là muốn thủ tiêu suy nghĩ trong đầu mình, nhưng tin tức đó không biết là thật hay giả, nghe cũng không có ý nghĩa nhiều bao nhiêu, khi Muộn Du Bình nói với hắn những lời này cũng không có quá nhiều cảm giác, trong lòng hắn chỉ có mấy khối kim cầu kia mà thôi. Có được thứ đó rồi, cuộc đời của hắn sẽ hoàn toàn thay đổi, rất đáng để cho hắn đánh cuộc một lần, ngược lại nếu phải từ bỏ, hắn cũng sẽ không được cái gì.

Ngày thứ mười hai không xảy ra bất kỳ chuyện gì, khi mặt trời đang lặn xuống phía Tây, Lạp Ba nhìn mặt trời, bỗng nhiên ý thức được đến cuối cùng bản thân mình là muốn đi đâu, nơi có những quả kim cầu kia, có thể là bất kỳ nơi nào trong mênh mông Tuyết Sơn này.

Manh mới duy nhất chính là cái hồ cực lớn bên trong Tuyết Sơn.

Lạp Ba tự an ủi mình, tuy rằng khu vực này rộng lớn, không có dấu chân người, là một nơi không người thần bí trên nóc nhà của thế giới, tuy nhiên một hồ nước lớn như vậy, cho dù cách xa mấy cũng có thể thấy được.

Hắn cùng một người kiệu phu khác lăng lăng nghỉ ngơi, nghĩ đến kim cầu cùng sự thay đổi cuộc sống sau này của họ.

Tôi không biết bọn họ ngẩn ngơ trong thời gian bao lâu, tôi đã từng đi qua Tuyết Sơn, biết ở nơi đó cũng có rất nhiều chuyện không thể làm được, muốn giết thời gian chỉ có thể ngồi ngẩn người thôi. Tôi cũng không biết, Lạp Ba làm sao có thể phát hiện giữa cánh đồng tuyết có tia sáng, đó chính là một chuyện cực kỳ cực kỳ khó khăn.

Tóm lại, Lạp Ba trong lúc mặt trời chưa lặn hẳn, thấy được trong Tuyết Sơn trước mặt, có loé ra ánh sáng nhịp nhàng.

Đó là một ánh sáng màu xanh biếc, tại có tần suất chớp động , ban đầu hắn tưởng rằng đó là ảo giác. Bởi vì nơi này cách nơi có người gần nhất, ít nhất cũng phải mấy mười mấy ngày đi đường, hơn nữa hắn cũng chưa từng gặp qua lục quang như vậy.

Sau Lạp Ba nhìn vài lần, liền quay đầu lại gọi Muộn Du Bình đến xem, phát hiện hoá ra Muộn Du Bình đã thấy được từ lâu, đến khi hắn quay đầu lại nhìn xem, liền phát hiện ánh sáng kia vậy mà lại đang di chuyển, hình như đang hướng về phía bọn họ mà đi đến.

Lạp Ba có chút bối rối , hắn không biết đó là cái gì, dã thú? Đại điểu? Hay là loại quái vật gì? Hắn đứng lên, muốn tìm một chỗ lẩn trốn. Muộn Du Bình liền tóm lấy hắn cùng người kiệu phu kia ẩn vào phía sau một gò tuyết, ba người vùi vào trong tuyết, nhìn ánh lục quang kia lập loè ở phía trước, nhưng rất nhanh nó liền vòng qua gò tuyết trước mặt bọn họ, cùng bọn hắn dựa vào càng lúc càng gần.

Tốc độ lục quang di chuyển nhanh như vậy, đồng thời bọn họ cũng nghe thấy tiếng chuông loáng thoáng liên tiếp nhau, tiếng chuông ở trong tuyết nghe có đặc biệt linh không.

Rất nhanh, bọn họ liền thấy được lục quang kia là cái gì. Đó là một nhóm người vô cùng kỳ quái, bọn họ mặc trang phục của dân tộc Tạng, khiêng một cái cây kỳ quái gì đó, trên đầu cái cây này lóng lanh lục quang, mà phía sau nó, lại hoàn toàn bằng gỗ, cũng giống như những người đang khiêng nó, trên đầu treo đầy chuông.

Nơi này làm sao lại có người hoạt động chứ? Lạp Ba cảm giác quả thực khó có thể tin được, hắn rõ ràng nhìn thấy, những người đó một đường từ trước mặt bọn họ đi qua sơn cốc, hướng vào nơi tận cùng bên trong sơn cốc đi vào.

Lúc này, Lạp Ba bọn họ đợi ở nơi cách mấy người đó tương đối xa, hắn cũng không nhìn thấy rõ mấy, Lạp Ba thậm chí còn không thể khẳng định, những người đó có phải là người sống hay không, có lẽ đó là Quỷ Hồn bên trong Tuyết Sơn?

Nhưng Muộn Du Bình đã bò lên, ý bảo Lạp Ba bọn họ nhất định phải cùng đi qua.

"Nếu nơi này có người cư trú, nhất định sẽ ở bên cạnh hồ." Muộn Du Bình nói, "Đi cùng bọn họ, có lẽ chúng ta có thể tìm đến được nơi chúng ta muốn tìm."

Chương 15: Bộ tộc thần bí trong Tuyết Sơn

Phần ghi chép tiếp theo, hết sức kỳ diệu, có thể thấy được, Tiểu Ca đối với cách ghi nhớ lại tất cả mọi chuyện trong ký ức, và chúng ta là không giống nhau như vậy, chúng ta có thói quen gặp phải một việc thì liền đem nó ghi lại, từ trước đến nay không quản trình tự trước sau hoặc là vài ngày sau chúng ta có thể nhớ kỹ hay không, nhưng Tiểu Ca ghi lại quá trình, khiến cho tôi có thể ý thức được rõ ràng, hắn đối với ghi chép là có sửa sang lại.

Có lẽ là vì, anh ấy biết một ngày nào đó, y cần phải đem tất cả những cái này nhớ lại, cho nên anh ta dùng một phương pháp độc đáo để ghi nhớ.

Trước tiên anh ấy ghi lại toàn bộ địa hình.

Lúc ấy nơi mà Muộn Du Bình ở lại, là phía sau lưng núi Tuyết Sơn, bọn họ đã ở một nơi có độ cao so với mặt biển tương đối cao. Nhưng độ cao ở nơi này so với mặt nước biển tuy cao, cũng không phải là nói nhìn xuống vách núi cao đến năm sáu ngàn mét, thật ra từ trên đỉnh núi nhìn ra bốn phía, khắp Tuyết Sơn nhìn càng giống với một vùng đất sáng đen rõ ràng, chỉ là mấy ngọn núi kia cũng không mượt mà giống như ở phương Nam, toàn bộ đều là những khối đá hắc sắc giống bị đao chém qua rất lộn xộn, thập phần sắc nhọn hơn nữa có góc cạnh rõ ràng.

Nơi này còn có rất nhiều sơn cốc, đều bị tuyết phủ rất dày, có một số nơi tuyết có độ dày không thể tưởng tượng được. Đây giống như là một ngon núi bị sông băng bao phủ từ trên xuống dưới, tuyết nằm ở trên mặt băng, đá tảng nằm ở bên dưới băng.

Đoàn người kỳ quái kia, chính là tiến vào trong sơn cốc, mà Muộn Du Bình đang đứng trên một ngọn núi nhỏ nhìn bọn họ.

Không thể nghi ngờ, muốn đuổi kịp bọn họ, điều cần làm đầu tiên là đi từ trên đỉnh núi xuống, ánh sáng u ám, ánh mặt trời chiếu lên trên mặt tuyết, khiến cho tuyết nhiễm lên một tầng màu vàng kim xen lẫn màu tím mờ nhạt, nhưng dù cho có ánh sáng như vậy, muốn từ trên một mặt tuyết dày như vậy đi xuống, sau đó đuổi kịp bọn họ, tuyệt đối là một việc phi thường phi thường khó khăn.

Đồng thời, đặc biệt ly kỳ là, tốc độ di chuyển của những người Tạng kia ở trong tuyết, phi thường cực nhanh, nhanh đến mức hoàn toàn không giống như là đang đi trong tuyết, mà là đang bay trên mặt tuyết.

Người nào đã từng đi trên tuyết đều hiểu, ở trong tuyết hoàn toàn không thể đi nhanh được như vậy, hơn nữa, từ mức độ mà dân tộc Tạng rơi vào trong tuyết thì thấy, hình như tuyết cũng không có sâu như vậy.

Muộn Du Bình chỉ đuổi theo vài bước liền phát hiện không đúng, anh ta ngừng lại, suy nghĩ là phải làm sao, đợi cho Lạp Ba theo kịp, anh lục quang kia đã biến mất.

Trên tuyết chỉ còn lại có một hàng dấu chân, nhưng vì gió quá lớn, dấu chân rất nhanh thì sẽ biến mất.

Muộn Du Bình cùng Lạp Ba bọn họ nghiêng ngả lảo đảo vọt tới phía dưới sơn cốc, liền phát hiện hoàn toàn không đúng, tuyết trực tiếp ngập gần tới eo họ, căn bản không phải giống như trạng thái của những người đó.

Dọc đường bọ họ ở trong tuyết di chuyển, thật vất vả mới đi đến dấu chân bên cạnh, Lạp Ba liền phát hiện, bên dưới mặt tuyết có cái gì đó, sau đó bọn họ đem tuyết gạt ra, dưới tuyết có chôn một cây cầu bằng gỗ và đá, mấy người Tạng kia hẳn là đi ở trên cây cầu này.

Bọn họ leo lên, dùng chân phủi tuyết dưới chân, phát hiện tuyết không tới đầu gối, cầu đá thập phần chắc chắn, đạp lên đi không chút sứt mẻ, chọn dùng chất liệu gỗ, và đá nham thạch thông thường trên dãy núi Himalaya.

Cây cầu ở trong này là do ai xây dựng? Lạp Ba bụng nói, nó dài bao nhiêu, thông nơi nào? Nếu biết có một con đường chôn ở trong tuyết, vậy thì bọn họ cũng không cần mạo hiểm đi trên vách đá làm gì, cũng không tốn thời gian như vậy để leo lên vách đá.

Khi Muộn Du Bình ở trên cầu đạp vài cái, liền nhanh chóng hướng về nơi lục quang biến mất đuổi theo, dấu chân đang nhanh chóng biến mất, hắn đi nhanh như bay, Lạp Ba đành đuổi đi phải theo.

Phong cảnh ở nơi này đâu đâu cũng hoàn toàn giống nhau, ở bên trong Tuyết Sơn.

Nếu không biết được kiến thức cơ bản, thì thực sự rất dễ dàng lạc đường. Nhưng Lạp Ba thì không, bởi vì ở trên đỉnh Tuyết Sơn, chỉ cần tầm nhìn đủ trống trải, ngươi thì nhất định có thể nhìn đến vài thứ có tính chất dấu hiệu trên núi, những dấu hiệu đó nói cho ngươi biết, ngươi có đi vòng vèo hay không, buổi tối, bầu trời nơi này nhiều sao đặc biêt rực rõ, dải ngân hà chưa bao giờ vắt ngang bầu trời rõ ràng như vậy, các loại chòm sao cùng tinh tú đều có thể giúp ngươi biết phương hướng, cho nên Lạp Ba cũng không lo lắng.

Sớm nhất hơn hai giờ, bọn họ đều ướt sũng mà không có mục tiêu đi tới, bọn họ phát hiện, này cầu đá không có bất cứ lối rẽ nào.

Nó nhất định là một con đường được thiết kế tốt và nhanh chóng nhất, từ một nơi đi thông đến một chỗ khác, mà cũng không phải là một công trình giao thông phổ biến, muốn xây dựng một công trình như vậy ở bên trong Tuyết Sơn, thật sự phải nói là quá đáng sợ, điều này trước tiên là phải đem toàn bộ tuyết đọng đào lên, đúng là một công trình cực lớn.

Qua gần ba giờ, bọn họ đuổi kịp ánh lục quang. Bọn họ phát hiện lục quang đã trở nên có chút ảm đạm, những người Tạng này vẫn tại đi về phía trước, thời gian sau, sự việc đã vượt quá sức tưởng tượng của bọn họ, tới chỗ này tôi trực tiếp nhảy qua, chỉ nói thời gian rất dài, gần như là ba ngày sau, bọn họ cùng ánh lục quang kia đi tròn ba ngày, theo còn đường trong tuyết một mạch tiến về phía trước, mới đến điểm kết thúc của cầu đá.

Cho đến khi bọn họ đi qua một khúc ngoặt, lúc đó đã là giữa trưa, mặt trời vô cùng mãnh liệt, bọn họ đeo kính mát, tại tiến vào một cái sơn động, bỗng nhiên phía trước trở nên vô cùng rộng lớn và sáng vô cùng.

Đó là một cái hồ lớn như hổ phách vậy, không khác gì bảo thạch, đột nhiên xuất hiện bên trong cách đồng tuyết.

Cái hồ to lớn này vô cùng kỳ quái, và hoàn toàn khác với những cái hồ cao hơn mặt nước biển khác, nó không có ven hồ, xung quanh hồ đều là tuyết trắng và băng, những tầng băng này hướng đến trung tâm hồ kéo đến, đến hơn hai ba trăm mét, mới biến thành hồ nước.

Dưới ánh mặt trời, hồ nước không có một chút gợn sóng, giống như hoàn toàn bất động, ánh sáng phản xạ lên trên mặt hồ, giống như một tầng kim bạc trên mặt hồ cảnh tượng vô cùng tươi đẹp kỳ lạ.

Cái hồ lớn bao nhiêu? Lạp Ba không thể phán đoán, bởi vì nơi này đã vượt ra xa khỏi tất cả những gì mà hắn nhận thức được từ trước đến nay, nếu để cho hắn hình dung mà nói với người khác, rất có khả năng hắn sẽ nói nó lớn bằng trời, nhưng nhìn vào cái hồ này thì thấy, chắc hẳn là bằng cỡ hai toà Tuyết Sơn.

Tại khu vực Tuyết Sơn, một cái hồ lớn như vậy quả thực rất giống biển.

Mấy người Tạng dân khiêng cái ánh lục quang kia, thì đi một mạch lên trên mặt hồ đóng băng, Lạp Ba liền nhìn đến phía xa xa, trên mặt hồ có một chiếc thuyền nhỏ cực kỳ cũ nát.

Bọn họ lên trên thuyền nhỏ, Lạp Ba liền nói với Muộn Du Bình: "Ông chủ, chúng ta không qua được."

Muộn Du Bình không có lên tiếng, lại nhìn thấy Tạng dân lên thuyền cũng không có đi, hơn nữa, có một Tạng dân không có lên thuyền, mà là chờ ở bên bờ, nhìn về hướng bọn họ đang ẩn nấp.

Lạp Ba cũng không nói, hai người vẫn không nhúc nhích, liền nhìn thấy người Tạng kia nhìn quanh bọn họ nửa ngày, liền vẫy vẫy tay ra hiệu bảo bọn họ đi qua.

Lạp Ba nhìn về phía Muộn Du Bình, hình như là hỏi là làm sao bây giờ, Muộn Du Bình nghĩ nghĩ, ngay từ đầu không có động, song này Tạng dân tựa hồ có chút nôn nóng, tiếp tục vẫy vẫy tay, Muộn Du Bình thân động một chút, dường như có điểm thiếu kiên nhẫn .

Nếu đây là một phần của tiểu thuyết, đến nơi này, vì khởi thừa chuyển hợp, thường thường là phải xảy ra nằm ngoài dự kiệu, bởi vì tình tiết cần phải được đẩy mạnh, cho nên, trường hợp có khả năng nhất là, Muộn Du Bình đứng lên, cùng này Tạng dân tiến hành giao tiếp, tiến tới dẫn phát xung đột.

Nhưng mà, trong hiện thực, trong tình huống như vậy, trước tiên cần lấy lý trí quyết định, tuyệt sẽ không phát sinh xung đột.

Cuối cùng Muộn Du Bình vẫn không có đi đi ra ngoài, ba người bọn họ vẫn kiên nhẫn đứng, mãi cho đến khi người Tạng kia đợi đến khoảng hai mươi phút, cuối cùng lắc đầu lên thuyền, đong đưa mái chèo chậm rãi hoạt động , dần dần hướng trung tâm hồ mà vạch đi.

Bên kia là khu vực ánh nắng phản xạ mạnh mẽ nhất, cái gì cũng thấy không rõ, bọn họ gần như là hòa vào làm một cùng mảnh kim quang bên trong.

Thế nhưng vào lúc này Muộn Du Bình vẫn là không có động, Lạp Ba không biết đây là hình huống gì, từ từ chuyển qua hỏi anh ấy, vừa rồi vì sao lại không ra đi, rõ ràng mấy người Tạng kia là đang chờ bọn họ.

Muộn Du Bình lắc lắc đầu, thoải mái nói: "Hắn không phải ngoắc chúng ta."

"Vậy chứ vừa rồi hắn làm cái gì?"

"Còn có mặt khác một thứ đi cùng bọn họ, chúng ta hoàn toàn không có phát hiện." Muộn Du Bình nói, Lạp Ba một chút khẩn trương đứng lên: "Làm sao cậu biết được?"

"Ông không cần biết." Muộn Du Bình ánh mắt vẫn liên tục quét quanh cánh đồng tuyết, tuy rằng vẻ mặt vô cùng điềm tĩnh, nhưng Lạp Ba phát hiện tất cả lực chú ý của hắn cũng không ở trên người chính mình.

"Vậy ngươi có nhìn thấy không, cái kia ..... một thứ khác gì đó?"

Muộn Du Bình lắc đầu, chỉ có điều hắn chỉ chỉ một vào một hướng: "Tuy rằng tôi không thể khẳng định, nhưng rất có khả năng là tại nơi đó, chỗ đó ẩn dấu một thứ gì đó."

Lạp Ba theo hướng Muộn Du Bình chỉ nhìn lại, liền nhìn đó là một khối đá màu đen rất lớn. Bốn phía toàn bộ bị tuyết bao trùm, duy chỉ có phía trên tảng đá, tuyết đọng hình như bị thứ gì đó cọ lên.

"Ai ở sau lưng tảng đá?" Lạp Ba bắt đầu có chút run run, hắn vốn không phải là do Muộn Du Bình dọa, nhưng bộ dạng Muộn Du Bình hết sức trấn định, khiến hắn không tự chủ được đem chính mình đặt ở vị trí phục tùng.

"Ở bên dưới tuyết, thứ này vẫn còn chuyển động bên dưới tuyết, nếu không tôi đã sớm phát hiện ." Muộn Du Bình nói.

Lạp Ba cố gắng nhìn chung quanh tảng đá màu đen kia, nhưng hoàn toàn là một mảnh tuyết trắng, hắn không phát hiện được bất kỳ thứ gì. Lại qua vài phút, Lạp Ba nhìn nhìn mặt kiệu phu khác, rốt cuộc có điểm thiếu kiên nhẫn, nói: "Ông Chủ, cậu chắc chắn chứ, tôi cảm giác người kia, chính là hướng chúng ta ngoắc." Nói còn chưa nói xong, bỗng nhiên cơ thể Lạp Ba thân mình đột nhiên nặng nề, cả người giống như bị thứ gì đó tóm lấy, lập tức bị kéo vào trong tuyết.

Tuyết bên dưới vô cùng sâu, nháy mắt hắn liền bị chôn vùi, trước khi kéo bị kéo hẳn xuống, hắn nhìn đến Muộn Du Bình nháy mắt liền bổ nhào tới, hình như là muốn bắt lấy hắn, nhưng chậm mất một bước, phản ứng không nhanh, gạt tuyết ra một chút rồi bắt vô ích, tức khắc đã một mảnh tối đen. Tuyết lạnh giá dán lên mặt, lỗ mũi, miệng, lỗ tai, theo tất cả lỗ hổng đổ vào trong cơ thể hắn.

Chương 16: Người canh giữ

Dựa theo tự thuật bình thường, sau đó nhất định là một hồi truy đuổi vô cùng kịch liệt hoặc là đánh nhau. Nhưng vì Tiểu Ca chỉ ghi lại có một chuyện, anh ấy hoàn toàn không viết lại quá trình xảy ra ở giữa, cho nên chúng ta không biết chi tiết cho đến cuối cùng là như thế nào, nếu như lúc này tôi hư cấu sự việc, thì có khi không khớp với sự thật. Nếu như ngay từ đầu lựa chọn dùng lý trí để xem những ghi chép này, thì tại đây tôi cũng phải dùng đến lý trí mà gắn kết.

Thông qua ghi chép, tôi cũng có thể phỏng đoán đại khái tình hình khi đó là như thế nào, bởi vì tôi đối với việc làm của Tiểu Ca vô cùng quen thuộc.

Đầu tiên Lạp Ba được cứu ra ngoài, nhưng sau khi hắn được cứu ra, thì đầu óc liền có chút không bình thường, vì thế tôi không có cách nào có thể dựa theo cái nhìn của Lạp Ba mà ra những ghi chép.

Tuy nhiên vẫn có thể xác định được mấy điểm, thứ nhất, bọn họ khi đó không có nhìn thấy thứ ở bên dưới tuyết kia, chỉ có một mình Lạp Ba thấy được. Sau khi Lạp Ba được cứu lên thần trí liền không còn rõ ràng, thứ ở bên dưới tuyết nhất định là đã gây cho hắn sự đả kích rất lớn.

Thứ hai, chắc chắn trong vòng ba phút Tiểu Ca đã cứu Lạp Ba lên, tuy rằng bị vùi vào trong tuyết so với chết chìm vẫn tốt hơn, nhưng ba phút cũng là giới hạn, nếu như trong mấy phút ngắn ngủi này Tiểu Ca không thành công, vậy thì khẳng định Lạp Ba nhất định sẽ chết.

Vì thế tôi gần như có thể xác định, đại khái tình huống là như vậy.

Vào lúc sau khi Lạp Ba đột ngột bị thứ gì đó kéo vào trong tuyết, tuy rằng lần đầu tiên không có bắt được hắn, nhưng trong vòng vai phút, nhất định là anh ấy đã vài lần cắm tay vào trong tuyết.

Tôi đã nhìn thấy tốc độ của anh ấy, Tiểu Ca có thể dùng ngón tay của y, kẹp lấy một con côn trùng thuỷ sinh ở trong nước cực nhanh, cho nên toàn bộ quá trình khẳng định là vô cùng mau.

Nháy mắt ngón tay anh ấy kẹp lấy kẹp lấy một nơi nào đó trên người Lạp Ba ở trong tuyết, có thể là dây lưng, có thể là áo, bởi vì sức lực của Tiểu Ca cực kỳ lớn, thế nên cho dù chỉ dùng hai ngón tay kẹp lấy, anh ấy cũng có thể đem người từ trong tuyết đưa lên.

Đồng thời, tôi có thể dám chắc bọn họ nhất định là ở một nơi nào đó bên cạnh tảng đá, nếu không, rất có khả năng Tiểu Ca cũng bị kéo vào trong tuyết, tay còn lại của anh ấy nhất đinh là bắt vào núi đá bên cạnh.

Vấn đề là, Lạp Ba đã thấy thứ gì đó ở trong tuyết?

Tôi không ở nơi xảy ra sự việc, Tiểu Ca cũng không có ghi lại vào trong bút ký, khả năng mà tôi có thể suy đoán là, chính là vào thời điểm Lạp Ba được kéo lên, ngay cả thứ kia cũng bị kéo ra. Chỉ có điều, bởi vì nguyên nhân nào đó mà Tiểu Ca không có thấy thứ đó, chỉ có Lạp Ba thấy được.

Tôi trích lại một đoạn anh ấy ghi lại vào thời điểm đó, rồi cũng với Trần Tuyết Hàn cùng với Lão Lạt Ma cùng nhau thảo luận, thảo luận đoạn này có rất nhiều ý tứ.

Vì sau khi Tiểu Ca từ sâu bên trong Tuyết Sơn đi ra, cùng Đức Nhân Đại Lạt Ma, tìm được thi thể của Đức Nhân Lạt Ma, mới bắt đầu từ từ nhớ lại sự việc đã phát sinh trong mười năm này. Vốn là từ từ nhớ lại, vì vậy cũng không cần ghi lại hoàn toàn ghi xuống, cho nên Tiểu Ca nói với Lão Lạt Ma, ngoài trừ những điều đã được ghi lại này, anh ấy đang nhớ lại những vẫn đề xảy ra trong quá trình đó, Muộn Du Bình cần Lão Lạt Ma đưa ra câu hỏi cho y.

Mà sau khi Lão Lạt Ma nghe Tiểu Ca nói ra sự việc, phát hiện dựa vào trí tuệ của ông ấy hiện tài căn bản không thể trả lời, cho nên ông ấy mới đưa Tiểu Ca đi đến gặp các Thượng Sự tu hành uyên thâm ở trong miếu, sau đó Thượng Sư lại phái Trát Cát đi đến mấy ngôi miếu Lạt Ma khác dưới chân núi, mời rất nhiều Thượng Sư đến, hy vọng thông qua trí tuệ của bọn họ mới có thể giải đáp những nghi vấn này.

Những nghi vấn này, bao gồm bao gồm cả những cố sự ly kỳ mà Tiểu Ca nói đến, còn có một hiểu biết lỳ quái, đều có ghi lại trong tài liệu. Tôi có thể nói, tất cả mấy thứ này tuy rằng có một số thứ tôi không hiểu nhưng vẫn biết những tin tức này đều có liên quan đến miếu Lạt Ma này, cho nên mấy vị Thượng Sư kia trước đây mới được mời đến.

Số tin tức này, tôi sẽ giải thích lại từng sự việc sau, còn bây giờ trước tiên nói đến những thảo luận kia của bọn họ, trong đó đã nói đến những gì , tại bên trong Tuyết Sơn có hoạt động gì, cuối cùng có thể là cái gì.

Lúc ấy, dựa vào kinh nghiệm của tôi, tôi liền hỏi các loại truyền thuyết dân gian của Tây Tạng, có vật nào hoạt động bên dưới tuyết như vậy hay không. Chúng tôi có thể tra được tư liệu ở trên internet, vật như vậy bình thường sẽ bị dẫn vào mấy truyền thuyết ở núi Himalaya, chuyên nghiệp hơn một chút, thì có thể gọi nó là "Vượn Tuyết", đây cũng giống như là phương pháp sáng tác tiểu thuyết thần kỳ. Tuy nhiên, nếu thực sự nghe người dân bản xứ nói đến, luôn luôn sẽ trở thành việc vượt ra ngoài dự đoán con người.

Lão Lạt Ma gần như là trực tiếp nói, cái thứ này chính là gấu ngựa, gấu ngựa có đôi khi sẽ ở trong tổ dưới tuyết đi săn.

Lúc đó tôi muốn lập tức phản đối, bởi vì sự việc này là tuyết đối không có khả năng. Độ cao so với mặt biển ngược lại không là vấn đề, gấu ngựa có thể sinh sống ở những nơi cách mặt nước biển năm sáu ngàn mét, nhưng ở vị trí nơi mà bọn Tiểu Ca gặp nạn, gần như nơi nơi hoàn toàn là tuyết trắng, không hề có dấu hiệu của bất kỳ sinh mạng nào, tại khu vực này, gấu ngựa làm sao có thể sinh tồn được? Hay cả đời nó chỉ có một lần đi săn Tiểu Ca như vậy mới có cơ hội thu được thức ăn.

Cứ như đã từng nói, nếu nói thật sự là gấu ngựa, vẫn không chắc là ai đi săn ai đâu.

Vấn đề lớn nhất là, tôi có thể khẳng định Tiểu Ca sẽ không có phạm phải sai lầm, nhất định là người Tạng kia đứng đó ngoắc tay ra hiệu, tại sao người đó lại muốn ngoắc một con gấu ngựa?

Chẳng lẽ là "Này, cẩn thận cái tay gấu (hùng chưởng) của ngươi" các loại ý linh tinh như vậy sao? Người này là một món hàng thứ sao?

Trần Tuyết Hàn liền nói, có lẽ người Tạng kia có ý muốn nhắc nhở Tiểu Ca, không nên đứng ở nơi đó, chỗ đó có nguy hiểm sao?

Như vậy cũng có thể, tôi nghĩ bụng. Lúc này Lão Lạt Ma Trát Tây liền nói cho tôi biết, khiến cho tôi không nên hoài nghi, nhất định chính là một con gấu ngựa lớn, bởi vì ông biết trước kia Tây Tạng thì có có người nuôi gấu ngựa xung quanh để canh giữ chùa miếu. Gấu ngựa là một loại động vật vô cùng thông minh, nó có thể nhận ra được người nào là chủ nhân cần bảo vệ, người nào là người lạ. Hắn vẫn còn nghe nói vào những năm có một ngôi Miếu Lạt Ma tương đối ít ỏi, dùng thức ăn thừa để nuôi con gấu ngựa ở gần miếu. Sau này người Anh xâm nhập Tây Tạng, trong thời điểm quân đội Anh chiếm được ngôi chùa ở đó, bị gấu ngựa tập kích.

Gấu ngựa rất hung mãnh, vô cùng đáng sợ. Có người ở Khả Khả Tây Lý nhìn thấy một con gấu ngựa lớn nhất, thể chiều dài 2.5 thước. khi đứng lên so với tuyển thủ đô vật Diêu Minh còn cao hơn, kia vài cái người Anh khi nói chuyện bị đập chết kéo vào trong rừng.

Về sau ghi lại cũng chứng minh cách giải thích của Lão Lạt Ma Trát Tây rất có khả năng, vậy con gấu ngựa này là do người Tạng nuôi ở bên hồ, bảo vệ lối vào ở hồ.

Còn chuyện quay lại ngoắt với gấu ngựa, có thể là một thói quen của người nuôi, nhưng mà gấu ngựa phát hiện người lạ xâm nhập, cho nên không có qua đi chỗ người Tạng đang đứng, mà lựa chọn tập kích kẻ xâm nhập.

Nói như vậy, Tiểu Ca đuổi theo đến chỗ con gấu ngựa cứu Lạp Ba, là một sự việc tương đối không dễ dàng gì.

Những cái này chỉ là suy đoán ban đầu, mãi cho đến đoạn sau của cố sự, mới có thể biết được rốt cuộc chi tiết quá trình đó là cái gì. Ở trong cố sự được ghi chép, chúng tôi vẫn tưởng rằng đó chính là gấu ngựa, cũng không hề nghi ngờ bất kỳ cái gì.

Chương 17: Hồ thần bị đóng băng

Muộn Du Bình đem theo Lạp Ba một mạch đi đến nơi người Tạng đi lên thuyền. Mặt hồ gần bờ đóng băng vô cùng lợi hại, bước lên cũng không khác gì mặt đất bao nhiêu, nhưng đi càng đi đến gần trung tâm hồ, băng lại càng mỏng, đi đến cuối cùng, chỉ cần bước xuống một bước, dưới chân lại truyền đến tiếng băng nứt khiến cho lòng người kinh sợ.

Bọn họ đành phải đi vòng qua theo sát mép hồ.

Hình dạng cái hồ to lớn này đặc biệt kỳ quái, kỳ thực nếu như không ở trên cao nhìn xuống, rất khó tưởng tượng được hình dạng của nó, toàn bộ mặt hồ giống giống như một cái quạt hương bồ khổng lồ, một bộ phận là hình quạt, một phần khác là một cái sơn cốc vô cùng sâu, hình thành một cái chuôi quạt dài hẹp. Nơi này là một khu vực giá lạnh cách mặt nước biển mấy ngàn mét, mặt hồ cũng không khác gì nơi khác sẽ bị đóng bằng toàn bộ, vậy thì nơi nào ở trung tâm mặt hồ này lại có thể tình huống như vậy?

Bọn họ đi liên tục dọc theo vùng ven tiến lên, đi ít nhất bốn năm giờ, cuối cùng đi vòng qua, lúc này Muộn Du Bình mới hiểu tại sao lại phải dùng thuyền, bởi vì nói nếu như có thuyền, đi đoạn này ít nhất mười phút.

Sau khi vòng qua đi phía sau hình cái quạt, mặt hồ liền trở nên dài hẹp, hai bên là vách núi đá, đều bị tuyết trắng bao phủ, tuỳ rằng mặt hồ hẹp dài , nhưng thực tế coi bộ cũng tương đối rộng. Bọn họ tiếp tục hướng vào bên trong đi vào, đi cho đến khi trời gần tối, đi tới đoạn giữa sơn cốc, bỗng nhiên liền nhìn thấy ở phía trước có chút khác thường.

Ở cuối sơn cốc, vậy mà lại có xây dựng một toà miếu thờ chọc trời, mái hiên áp dụng chính là cái kết cấu gì, đối với kiến trúc học của tôi mà nói, gần như có thể tưởng tượng ra ngay lập tức. Đây nhất định là sử dụng rất nhiều cây xà ngang cỡ lớn nối tiếp lên trên hai bên vách đá, ở giữa sử dụng một cái cột lớn cắm vào thật sâu dưới dáy hồ, sau đó ở trên những cây xà ngang này mà xây dựng miếu thờ.

Đó là một tòa Lạt Ma miếu điển hình, niên đại tương đối lâu đời, sử dụng đá đen của núi Himalaya xếp chồng lên nhau mà thành, ít nhất có bảy tầng lầu cao như vậy, hơn nữa một tầng của miếu thờ đã gần bằng với một cái nhà lầu hai tầng bình thường, toà Lạt Ma miếu này, giống như một cái đập nước, ngăn cản ở toàn bộ sơn cốc.

Mà mặt hồ nằm ngay dưới miếu, các tầng giá khung vô cùng cao, phía dưới có rất nhiều xà ngang, trên xà ngang có rất nhiều thuyền gỗ.

Đi đến bên dưới miếu Lạt Ma, Muộn Du Bình tiếp tục đi tới nhìn, phát hiện mặt hồ tiếp tục kéo dài về phía trước, không nhìn tới điểm cuối, mà ở giữa mặt hồ dưới Lạt Ma miếu, cũng có rất nhiều chiếc thuyền nhỏ, trong đó có một chiếc thuyền kết một tầng băng mới, có chỗ hoàn toàn ẩm ướt.

Muộn Du Bình liền bảo hai người Lạp Ba ở bên hồ chờ mình, còn mình thì từng chút leo lên trên. Quả nhiên ở bên dưới miếu Lạt Ma có một cái động khẩu, nhưng nó bị một khối tấm ván gỗ chặn lại, Muộn Du Bình đẩy đẩy một chút, bên trên hình như bị một thứ gì đó vô cùng nặng đè lên, không hề nhúc nhích.

Muộn Du Bình cũng không từ bỏ, hắn rụt trở về, lạnh lùng hít vào một hơi thật sâu, sau đó dùng lực chỉa vào tấm ván gỗ trên cửa, vai dùng thêm một chút lực lớn nhất, im lặng không một tiếng động , tấm gỗ bên trên bị hắn chỉa vào bị đẩy lên.

Ở đây nói rõ một chút, một người hướng lên trên mà dụng lực là rất khó, cho nên nói cử tạ và nâng vật nặng hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy muốn một người đem một thứ gì đó giơ lên là vô cùng khó khăn, bởi vì động tác nâng lên trên người như chúng tôi bình thường không thường làm, cho nên mấy khối cơ bắp không được rèn luyện đến nơi đến chốn sẽ không làm được.

Nhưng đương nhiên cánh tay của Muộn Du Bình đã được rèn luyện được vô cùng cẩn thận, anh ấy chậm rãi đem cửa gỗ đẩy đi lên. Mà trong ghi chép hắn có nói, sau khi từ của gỗ tiến vào trong, thấy vật đè ở trên cửa gỗ là một khối đá nặng hơn hai trăm cân.

Anh ấy xoay người bước vào cánh cửa gỗ, thấy đang ở giữa một không gian lộn xộn, một gian phòng dùng để chế tác, sửa chữa, cất giữ thực vật cùng nguyên liệu của người Tạng. Muộn Du Bình nhìn một vòng, thấy được rất nhiều than gỗ, bó củi khô, thức ăn, ở xà nhà còn có treo không biết là loại thịt gì.

Bởi vì Lạt Ma có thể ăn thịt .

Những khối thịt này bị đông lạnh không khác gì đá, có thể nói ở trong này mà không được hong khô, thì chỉ cần có hơi nước, treo lên không đến vài phút thì sẽ thành " đá núi Himalaya" ngay lập tức.

Số lượng thịt có rất nhiều, Muộn Du Bình nương theo ánh sáng chiếu vào từ khe đá, tìm được một cái thang lầu rồi tiếp tục đi lên, cũng là một cái thang gỗ thẳng tắp. Anh ta cẩn thận hướng lên trên leo lên, đến được tầng một, lập tức ngửi được một mùi Tạng Hương rất nồng. Bên trên tầng này bày ra rất nhiều loại lông cừu, giữa lông cừu có rất nhiều lò than, khiến cho toàn bộ gian phòng trở nên vô cùng ấm áp. Không biết là để hong khô lông cừu, hay là dùng chúng để duy trì nhiệt độ cho căn phòng này.

Muộn Du Bình ở giữa số lông cừu tiếp tục tìm kiếm cầu thang đi lên, nhưng ở chỗ này thật sự rất ấm áp, anh ấy ở giữa trời giá rét đi lại nhiều ngày, không tự chủ được dừng lại, muốn cho thân thể dịu đi đôi chút.

Lúc này Muộn Du Bình liền nghe thấy, ở trong số mấy tấm lông cừu có tiếng người thở dốc, âm thanh cực nhỏ, hình như là một người nữ.

Muộn Du Bình suy nghĩ một lát, rón rén men theo âm thanh đi đến, xuyên qua mấy chồng lông cừu, liền nhìn thấy ở giữa bốn chồng lông cừu, có một cái gì đó đang nằm.

Bốn chồng lông cừu này được trải vô cùng chỉnh tề, bốn phía nơi này được vây ra thành một căn phòng, thứ kia đang nằm ở trên sàn nhà, ở đó mà khe khẽ rung động.

Đó là một cô gái, hoặc có thể nói, đó là một khối hình phụ nữ, bởi vì tay chân cô gái đều bị chặt đứt, cùi chỏ và đầu gối da cũng chỉ dính lại da, tóc vô cùng dài, có gương mặt người Tạng điển hình, trên người cũng có một lớp gì đó giống như một tấm lông cừu.

Muộn Du Bình đi qua, liền phát hiện hai mắt cô gái cũng bị mù, bên trong mắt là một mảng đục ngầu. Anh ấy khẽ ngồi xổm xuống, phát hiện cô gái này có khuôn mặt rất thanh tú, là một cô gái tương đối xinh đẹp.

Không biết là vì chuyện gì, mà khiến cho cô gái nhỏ này gặp phải sự tra tấn nặng nề như vậy, có thể nhìn ra tay chân là bị người ta đánh gãy, ngay cả thịt cũng bị đánh gãy, nhìn bên ngoài thì không có gì khác thường, tuy nhiên loại đau nhức này cùng với không cho các khớp xương dài ra là một sự dày vò to lớn. Vào thời cổ đại khi tàn sát người dân trong thành, để cưỡng gian phụ nữ, rất nhiều người phụ nữ đều bị đánh gãy tay chân để tiếp tục bị làm nhục chà đạp rất thê thảm.

Mới nhìn qua, ánh mắt cũng là bị người ta chọc mù, cô gái này nhất định là đã chịu một cực hình rất nặng nề.

Muộn Du Bình cũng không cảm thấy đau lòng, đối với cuộc sống có đủ các loại xấu ca ghê tởm này, anh ấy đã nhìn thấy quá nhiều, y thực sự hiểu rõ, cảm xúc thương xót đau lòng này là thứ vô dụng nhất.

Anh ấy xoay người rời đi, vừa đi được vài bước, liền nghe thấy cô gái nói một câu. Là Tạng ngữ, hắn nghe không hiểu, quay đầu thì nhìn thấy cô gái đã ngẩng đầu lên, hướng về xung quanh phía hắn, tuy rằng cô không nhìn thấy, nhưng cô gái vẫn dựa vào thính giác để xác định phương hướng.

Muộn Du Bình đứng lại, thì thấy cô gái thống khổ muốn ngồi dậy, càng không ngừng chuyển động đầu, đột nhiên liền nói một câu Hán ngữ: "Ngươi là ai?"

Muộn Du Bình dừng lại một chút, không nói gì, cô gái vẫn một mực quay đầu. Anh ta đợi chốc lát, tiếp tục bước đi hai bước, cô gái liền nói: "Nếu như ngươi không nói câu nào, ta gọi người , đến lúc đó ngươi cũng chạy không được."

Muộn Du Bình lại đứng lại, quay đầu nhìn về phía cô gái đang đối diện anh, trên mặt có một nụ cười giảo hoạt.

Muộn Du Bình chưa từng có gặp qua loại người nào có thể có nụ cười trên mặt như vậy, tuy rằng không có tay chân, cũng nhìn không thấy cái gì, nhưng tại trong căn phòng này, rõ ràng là cô gái là người chiếm ưu thế.

Muộn Du Bình biết, y có thể trong vòng vài giây làm cho cô gái này ngất đi ngay, ở trước mặt anh, loại ưu thế thông minh nhỏ nhoi này là hoàn toàn vô dụng, nhưng anh ta cũng ý thức được không đúng, cô gái này có thái độ như vậy, có lẽ cũng sẽ có lợi cho mình.

"Ngươi biết rõ ta là ai?"

Cô gái gật đầu.

"Ngươi biết rõ ta là người Hán?" Muộn Du Bình nhẹ giọng hỏi.

"Ta có thể ngửi ra hương vị của ngươi, nơi này đã từng có một người Hán ghé qua, mùi của ngươi giống như hắn, nhưng ngươi không phải hắn, ngươi cũng là đến từ chân núi?"

"Ừ." Muộn Du Bình hỏi, "Vậy ngươi là ai?"

"Ngươi là tìm đến hắn sao? Tên người Hán kia nói, nhất định sẽ có người đến nơi này." Cô gái nói, Hán ngữ của cô gái có chút cứng ngắc, nhưng không có bất kỳ phát âm sai. Cô gái không có trả lời câu hỏi của Muộn Du Bình, mà là tiếp tục nói: "Phải cẩn thận, bọn họ không thích người Hán."

"Ta không biết là ngươi nói tới ai." Muộn Du Bình nói. Cô gái nói: "Mặc kệ những thứ này, mau đem ta rời khỏi nơi này."

"Tại sao?"

"Nếu là người Hán, khẳng định đều muốn biết nơi này là nơi nào. Ngươi dẫn ta đi, ta liền đem tất cả nhừng gì ta biết nói cho ngươi."

Muộn Du Bình nhìn cô gái, trên mặt cô lộ ra vẻ mặt chờ đợi và tha thiết. Sau đó Muộn Du Bình gật đầu nói "Được", liền đi tới bên cạnh cô gái, cánh tay nhanh chóng vỗ vào cổ cô gái, lập tức cô gái liền hôn mê.

Thích uy hiếp người khác, nhất định sẽ không dễ dàng gì đem bí mật nói ra, Muộn Du Bình nói trong lòng: Vẫn là tự dựa vào chính mình đi.

Anh liền nhẹ nhàng buông cô gái xuống, đứng lên, đang định tiếp tục đi lên, bỗng nhiên nghe được bên kia truyền đến tiếng bước chân, có người nói cái gì đó bằng Tạng ngữ từ chỗ đó đi xuống, hình như là nghe được đoạn đối thoại của bọn họ vừa rồi nên đến đây xem xét.

Muộn Du Bình vọt qua một bên, nhanh chóng thối lui ra phía sau mấy tấm lông cừu, càng ngửi thấy mùi Tạng hương càng thêm nồng nặc. Chỉ thấy hai người Tạng dân mang đến một cái bếp lò, đi qua tấm lông cừu nơi y ẩn nấp, đem một thứ gì đó đến bên cạnh cô gái, bắt đầu đem đồ vật bên trong bày ra xung quanh dọc theo người cô gái.

Thái độ của mấy người Tạng vô cùng cung kính, mùi Tạng hương càng ngày càng đậm, Muộn Du Bình lại phát hiện có gi đó không đúng, anh ta ngửi được bên trong Tạng hương có một mùi kỳ quái quen thuộc.

Chương 18 : Thi Hương

Một mùi hương ẩn trong Tạng hương , nhưng vẫn bị Muộn Du Bình ngửi ra được chứng tỏ mùi ấy tương đối nồng đậm , do thảm lông cừu cũng có mùi đặc biệt, hơn nữa bên cạnh lại có nhiều lò than như vậy nên trước đó Muộn Du Bình cũng không phân biệt rõ ràng giữa hai thứ mùi.

Những mùi này nhất định là lẫn vào mùi Tạng hương , hẳn là giống với thứ trong bếp lò mà những người Tạng kia mang vào.

Đó là mùi của thi thể.

Những người Tạng kia dọn dẹp những thứ xung quanh cô gái rồi nhanh chóng rời đi , tuyệt nhiên không muốn ở lại chút nào.

Hành động này dường như không hề đặc biệt , nhưng Muộn Du Bình vẫn cảm giác có điều gì đó không đúng. Hắn nhìn nhìn hình vẽ trên những tấm thảm lông cừu xung quanh , mùi hương này khiến hắn có cảm giác không tự chủ được mà đưa tay sờ vào bên hông muốn tìm vũ khí , nhưng chẳng có gì. Hắn đã quên lúc đến đây cái gì cũng không đem theo.

Vì sao hắn bỗng nhiên cảnh giác? Đó là vì nhìn thấy hình vẽ trên tấm thảm lông cừu.

Hoa văn truyền thống Tây Tạng có rất nhiều, nếu những tấm thảm lông cừu này không phải được làm cùng lúc thì hoa văn phía trên sẽ rất đa dạng. Nhưng những tấm thảm lông cừu này , tuy hình dáng có khác nhau nhưng hình vẽ ở bên trên lại đồng nhất.

Hình vẽ này có tên là "Diêm vương kỵ thi" . vẽ Diêm vương cỡi một khối thi thể nữ xuyên qua núi. Hình vẽ này ở Tây Tạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng , loại hình vẽ này dùng để trừ tà vô cùng hữu dụng. Muộn Du bình chợt ngộ ra thân phận thật sự của cô gái này.

"Diêm vương kỵ thi" xuất hiện lần đầu trên một mảnh sắt Đường tạp. Đó là một khối sắt mỏng , mặt trên dùng vàng và bạc khảm ra hình vẽ Diêm vương cưỡi một khối nữ thi đi qua núi, bốn phía Đường Tạp có một vòng cỏ dại để trạng trí, ở giữa là rất nhiều hình vẽ bộ xương khô.

Diêm Vương trong tiếng Phạn gọi là "Diêm ma la", cho nên mảnh sắt này cũng được gọi là "thiết diêm ma la cưỡi tử thi". Trước khi có mảnh sắt Đường Tạp hình vẽ này vô cùng hiếm thấy, có một thời gian nhiều người cho rằng đó chỉ là là hình tượng điêu khắc các vị thần Tây Tạng giẫm lên thi thể vô cùng phổ biến , người cưỡi có tạo hình cường điệu hóa. Nhưng sau này phát hiện không phải, bởi vì trong "thiết diêm ma la cưỡi tử thi", tạo hình của người nữ thi thậm chí so với tạo hình của Diêm vương có phần nổi bật hơn.

Nữ thi thường có khuôn mặt hung ác, mắt mù, bò bằng khuỷu tay và đầu gối, cả người trông như ác quỷ, nhưng ngực thì đầy đặn, là đặc trưng nữ tính rõ ràng. Muộn Du Bình nhìn cô gái này tay chân đều bị đánh gãy, mắt cũng bị mù, chẳng lẽ, cô ta là vật cưỡi của diêm vương?

Muộn Du Bình đối với thi thể rất quen thuộc , nhưng cô gái này lại là người sống , làm hắn có chút dự cảm không lành. Đối với Diêm Vương kỵ thi, hắn ta có một hiểu biết nhất định,nhưng lại không rõ, cô gái vì sao lại xuất hiên trong trạng thái này và là vì cái gì?

Chẳng lẽ cô ta là tế phẩm hiến cho Diêm Vương? Hoặc có thể nói, đây là một loại nghi thức?

Trong lúc suy tư, mùi hương bên kia ngày càng nồng đậm. Muộn Du Bình nghe tiếng cô gái thống khổ rên rỉ, nhưng cách mấy lớp chăn lông cừu, hắn cũng chẳng biết tình hình cụ thể.

Muộn Du Bình đối với mấy việc này cũng không có tính hiếu kỳ. Nếu là ở nơi khác hắn khẳng định sẽ có thái độ bàng quan, nhưng tất cả mọi thứ ở đây đều có liên quan đến mục đích của hắn. Nơi này rốt cuộc là nơi nào, những người Tây Tạng đó là ai, hắn nhất định phải biết.

Vì thế Muộn Du Bình bắt đầu đi thăm dò mọi ngóc ngách. Xuyên qua khe hở giữa các tấm chăn lông cừu, hắn thấy cô gái đang nằm cạnh lò hương đang đốt, mùi hương kì quái cùng hương vị Tây Tạng tạo thành hỗn hợp mãnh mẽ xông lên.

Không biết vì cái gì, cô gái tỏ ra rất đau đớn, tựa như mùi hương đó với cô ta có sự kích thích mãnh liệt. Muộn Du Bình chậm rãi đi qua, phát hiện sắc mặt cô gái đã chuyển thành màu xám xanh, giống như trong hình vẽ trên thảm lông cừu, dùng màu bạc khắc ra hình nữ thi. Cô gái đã mất đi thần trí, chỉ rên rỉ đau đớn, bên cạnh là một vài chiếc lư hương nhỏ kì quái.
Muộn Du Bình cẩn thận mở ra một cái lư hương, phát hiện bên trong đang đốt một loại bột phấn kỳ lạ, phát ra hương vị nồng đậm.Hắn nhìn bốn phía xung quanh, ngón tay kẹp vào khe hở dưới đất, dùng sức đâm mạnh xuống lớp gỗ. Khuấy một chút bột phấn, phát hiện bên trong có rất nhiều mảnh xương nhỏ, tuy đã được nghiền nát mịn, nhưng vẫn có thể nhìn ra là xương của người cao tuổi.

Đây là hỗn hợp giữa bột phấn Tạng hương và thi thể hong khô nghiền nát ra.

Muộn Du Bình từ trước đến nay chưa từng gặp phải chuyện như vậy. Cho đến khi hắn ngẩng đầu nhìn về phía cô gái kia, thì đã thấy cô ta bò dậy, dùng khuỷu tay và đầu gối chống đất, người trần truồng quỳ bò trên mặt đất.

Muộn Du Bình căng thẳng thần kinh, một tay gắt gao túm lấy lư hương, đây là thứ duy nhất ở gần hắn ta có thể sử dụng làm vũ khí , với tốc độ và lực cánh tay của mình ,vung tay ném ra ít nhất cũng có thể tranh thủ cho bản thân được một chút thời gian mà trốn thoát. Nhưng hắn ta vẫn không ngờ được hết , cô gái kia chỉ dùng khuỷu tay và đầu gối để bò nhưng tốc độ lại nhanh vô cùng, tuyệt nhiên không giống tốc độ của một người tàn tật.

Tuy nhiên, cô ta lại không tấn công hắn, thậm chí còn chẳng nhìn về hướng của hắn mà bò thẳng đến một chỗ khác.

Muộn Du Bình bám sát theo sau, thấy cô gái đang bò lên một cầu thang gỗ, nháy mắt đã leo được lên, nơi đó hình như thông lên tầng trên của miếu lạt ma.

Muộn Du Bình nhìn phía sau, đó là nơi mà mấy người Tạng đi lên . Cầu thang bằng gỗ đặc biệt lớn, sử dụng gỗ Tế Viên Mộc cực tốt , mỗi khúc dày bằng miệng cái chén. Cầu thang thông với cửa phía trên, chiều rộng nơi đó một chiếc xe tải giải phóng cũng đi qua được. Cạnh cửa treo đầy thảm lông cừu cùng với tranh vẽ Tạng Văn cổ bằng tơ lụa màu đỏ, màu vàng. Nhìn màu sắc của mấy tấm lụa cổ này thì thấy, cảm giác ít nhất nó cũng đã ở đó vài thế kỷ trước gì đó rồi.

Muộn Du Bình theo bản năng cảm giác được, cái thang gác này không phải là làm cho người đi, bởi vì người vốn không cần tới cầu thang, đây chính là được chuẩn bị cho cô gái kia.

Cầu thang này thông đến chỗ nào? Những tấm chăn kì quái cùng bùa chú, những người Tây Tạng vội vã bỏ đi, phải có điều gì khó lường đang xảy ra.

Muộn Du Bình ấn lên cầu thang, muốn xem thử nó có đủ rắn chắc hay không, tay đè xuống một cái, thân thể nháy mắt liền nhảy lên. Hắn ta không đi lên cầu thang, mà là đạp lên lan can hai bên cầu thang đi lên. Không đợi hắn tới được cánh cửa gắn tơ lụa vàng, một tiếng súng vang lên, không biết từ nơi nào đánh lén, bắn vào chân cầu thang chỗ Muộn Du Bình, đầu gỗ vỡ toạc ra . Tiểu ca phản ứng cực kỳ nhanh, thoáng cái đã nhảy ra ngoài, một tay kéo lấy một tấm lông cừu treo bên cạnh tiếp đó dùng lực thắt lưng xoay người đu xuống dưới. Gần như là cùng lúc , những tiếng súng vang lên cùng viên đạn găm vào cầu thang, Muộn Du Bình đã ẩn người vào trong những lớp thảm lông cừu.
Hắn ngừng thở nhìn theo hướng phát ra tiếng súng. Chỉ nhìn được ánh sáng xanh chớp động, hình như có người đang mặc Tạng bào màu xanh lam đang di chuyển rất nhanh ở giữa những tấm thảm lông cừu.

Muộn Du Bình đè tay trên mặt đất, vừa lắng tai nghe để xác định hành động của người kia, vừa nhìn xung quanh kiếm xem có thứ gì có thể phòng thân được hay không. Tay hắn vừa chạm sàn nhà, đã thấy viên đạn xuyên qua mấy tầng chăn bắn tới , đầu vừa né qua, viên đạn liền sượt ngang qua lỗ tai.

Hắn ta lập tức biết đối phương cũng không phải dạng vừa đâu , nhất định là không dễ đối phó. Nhưng kinh nghiệm đối đầu với những người như vậy của Muộn Du Bình cũng rất phong phú. Hắn bất chợt đứng dậy , bất chợt đứng lên, cơ hồ dán sát mặt đất mà lao đi ,trong nháy mắt liền nghe được tiếng đạn xé gió phía sau người . Trong nháy mắt, hắn vọt tới cạnh lò than, giẫm lên than nóng.

Than nóng bùng ra thành một đoàn đốm lửa. Muộn Du Bình nương theo mà nhảy lên cao bắt lấy một tấm thảm lông, giống như một con dơi , không có tiếng động mà co lại sau một tấm thảm lông cừu. Cùng lúc đó, mấy phát đạn bắn vào chỗ lò than, làm lò đánh úp xuống mặt đất, tiếp theo người Tạng bào màu lam kia liền vọt tới.

Đây là loại chiến đấu trên đường phố "ẩn tế xạ kích", cho dù người bắn có vũ khí mạnh đến cỡ nào , nhưng lại không có ưu thế về thông tin , khi gặp đồi thủ có thân thủ nhanh nhẹn nhất định sẽ bị đánh lén. Cách tốt nhất, chính là hướng về phía bắn mình mà chạy, bởi vì sau khi bắn đối phương nhất định sẽ rời đi, mà người bị bắn đến chỗ đối phương vừa rời đi tất nhiên sẽ an toàn.Người bắn lại bị tiếng súng ảnh hưởng rất lớn, sau nhiều lần bắn nếu như không trúng, thì khả năng bị đánh lén sẽ trở nên rất cao. Bởi vì hắn không biết được trong khi hắn nổ súng người kia đã tiến gần thêm bao nhiêu. .
Trong tấm thảm lông cừu không chỉ là chỗ ẩn nấp, mà còn có tầm nhìn rất bí mật. Biện pháp này khá thiết thực.
Cho nên khi người mặc Tạng bào chạy tới bên lò than , Muộn Du Bình lập tức lao từ trên xuống, hai đầu gối kẹp chặt trên vai anh ta. Thể trọng cùng trọng lực, tốc độ trong nháy mắt làm người mặc Tạng bào khuỵu xuống. Muộn Du Bình chuyển động phần eo , nhưng không kẹp chặt đầu anh ta, mà thuận tay khóa lấy tay người kia, liền làm cho hắn buông lỏng súng ra.
Súng rơi xuống đất, Muộn Du Bình nhấc gót chân đá bay súng ra ngoài, sau khi đứng vững mới xem thử người nọ là ai. Không đợi cho hắn nhìn rõ , đối phương đã phản ứng vô cùng mau lẹ, dao giấu trong tay lướt một đường qua mặt Muộn Du Bình.
Dùng súng thì Muộn Du Bình căn bản có biện pháp nào, nhưng nếu có người muốn cùng hắn ta đánh nhau, đây thật sự là muốn tìm chỗ chết. Muộn Du Bình nghiêng người tránh lưỡi đao , nắm tay lợi dụng khe hở của kẻ địch đánh một cú trúng ngay mũi. Lúc này nếu có người đứng cạnh hắn, căn bản cũng chẳng kịp nhìn xem hắn đã ra tay thế nào, chỉ nghe âm thanh tay đánh vào da thịt. Người mặc Tạng bào màu lam kia liền ngã xuống đất.
Muộn Du Bình ngồi xổm xuống , lập tức tóm lấy tay cầm dao của người kia , đồng thời dùng lực khóa cứng người kia lại , tước lấy cây đao trong tay người ấy.
Muộn Du Bình cúi đầu nhìn, thấy đó là một nhanh niên người Tạng còn rất trẻ , nhiều nhất chỉ khoảng mười tám mười chín tuổi , đang bị hắn giữ chặt người cực kỳ đau đớn , không ngừng dùng Tàng ngữ nói gì đó.
Muộn Du Bình biết tiếng súng nhất định đã kinh động rất nhiều người, nơi này không thể ở lâu, vừa định đánh ngất người kia rời đi, liền thấy từ phía sau mấy tấm thảm lông cừu đi ra rất nhiều người mặc Tạng bào màu lam, chừng mấy chục người , trong tay ái nấy đều cầm súng trường chĩa về phía hắn.

Hắn than nhẹ một tiếng, thấy những người Tạng kia đều ngồi xổm xuống, hành lễ với hắn một cách kính trọng.
Cái gọi là lễ nghi kính trọng , thực chất ra chính là quỳ lạy. Sau khi quỳ lạy, một người lớn tuổi nhất trong mấy người Tạng dân dâng lên khăn Cáp Đạt (Hada) ngũ sắc.
Thật ra thì tôi cảm thấy đây là một cảnh tượng hết sức kỳ quái. Cảnh tượng dâng khăn Cáp Đạt (Hada) xuất hiện rất nhiều trong phong tục cũ, nhưng ở Tây Tạng, dâng khăn ngũ sắc là nghi lễ cao nhất.
Nhưng cảnh tượng vừa rồi vạn phần quỷ dị, đột nhiên lại thành cục diện như hiện tại, trong thời gian tôi tra cứu tư liệu cũng thấy rất khó tin.
Tiếp theo, một người trung niên đứng ra trước mặt Muộn Du Bình, dùng thứ Hán ngữ hết sức thuần thục nói :"Chúng tôi chờ ngài ở đây rất lâu rồi, Trương tiên sinh, xin hãy thứ lỗi cho chúng tôi, đồng thời nhận lấy khăn Cáp Đạt ngũ sắc mà chúng tôi dâng ngài."
Muộn Du Bình lặng lẽ nhìn xung quanh , thấy người Tạng trung niên kia từ trong túi lấy ra một tấm ảnh trắng đen đã ố màu đưa cho hắn. "Những việc này đều là Đổng tiên sinh sắp xếp, ông ấy nói quả không sai." Trên bức ảnh là Đổng Xán đang mặc Tạng phục , Muộn Du Bình lật mặt sau thì thấy một hàng chữ: "Bí mật ngay tại nơi này, bọn họ có thể giúp ngươi

Chương 19: Diêm vương kỵ thi

Những người áo Tạng bào màu lam này tự gọi mình là "người Khang Ba Lạc". Bọn họ ở nơi có tên là Khang Ba Lạc, một thung lũng trong tuyết sơn.

Muộn Du Bình cùng bọn họ trao đổi chỉ có vài giờ ngắn ngủi nhưng trong đó lại tiết lộ rất nhiều tin tức , làm cho người thường không thể theo kịp, lộn xộn không thể tả. Đối với Muộn Du Bình, theo những lời mà người Khang Ba Lạc nói hắn lập tức nhìn thấu , thu thập và tiêu hóa được tất cả thông tin , nhưng đối với chúng tôi mà nói , tất cả chỗ nãy chỉ là đống văn tự , không thể có ích để hiểu được kia rốt cuộc là nơi nào.

Nếu chúng ta từ trên bầu trời nhìn xuống bao quát toàn bộ lòng chảo sẽ thấy cái hồ ở trung tâm Tuyết Sơn tựa như một viên ngọc bích dị hình khảm trên tấm lụa tơ trắng .

Cái hồ kỳ lạ này được gọi là hồ Khang Ba Lạc , phiên dịch ra tiếng Hán chính là " núi tuyết màu lam". Muộn Du Bình được bọn họ đưa tới tầng chót của miếu lạt ma , từ nơi này có thể trông rõ hai dặm vách đá , nhìn thấy mặt hồ rộng lớn , Muộn Du Bình bị cảnh vật ở trước mặt làm cho kinh ngạc đến ngây người.

Nói thật, chuyện có thể làm Muộn Du Bình rung động thật ra cũng không nhiều lắm . Những gì được huấn luyện khiến hắn khi đối diện với bất cứ nguy hiểm gì thì phản ứng đầu tiên chính là bình tĩnh và thờ ơ , dù cho ở trong tình huống nào đột ngột phát sinh cũng có thể đưa ra những phản ứng chính xác nhất.

Nhưng tất cả những điều đó là để đối phó với nguy hiểm cùng những thứ đáng ghê tởm.Cứ như vậy , với những thứ đáng sợ và khủng bố, nội tâm hắn cũng không một gợn sóng, kể cả trước mắt có là tình huống xấu nhất với gánh nặng tâm lí đè nén, hắn đều có thể thừa nhận.

Nhưng lúc này lại không giống như vậy.

Bởi vì đây là cái đẹp. Giây phút nhìn xuống mặt hồ, vẻ đẹp ấy dường như đã phá vỡ tất cả phòng tuyến của hắn.

Một mặt hồ nước màu lam , cảm giác khi đứng ở trên vác núi cao nhìn xuống và đứng bên hồ là hoàn toàn khác nhau. Ở trên này, ánh mặt trời khúc xạ trọn vẹn , phiến màu lam thực không giống do thiên nhiên tạo thành mà như một mảnh tơ lụa màu lam bị kéo căng hết mức, đóng băng chặt trong cốc , mặt trên còn rải một lớp bột phấn màu ngọc bích.

Sự biến hóa kì lạ của màu lam trong hồ vẫn chưa phải là chuyện chính , thứ làm cho người ta không thể rời mắt chính là ảnh đảo ngược tòa tuyết sơn dưới mặt hồ.

Núi tuyết đương nhiên màu trắng, nhưng ảnh đảo ngược của nó dưới mặt hồ lại biến thành một màu lam quyến rũ kì lạ. Tuyết sơn thần thánh đứng vững bên hồ hết sức nghiêm trang làm cho tâm trí mọi người rung động không có ngôn từ nào có thể tả hết được , mà tuyết sơn màu lam trong mặt hồ , so với tuyết sơn ở bên trên càng thêm vẻ tĩnh lặng huyền bí.

Bon họ thuận theo vách đá đi một mạch , rất nhanh liền phát hiện ra một lòng chảo bí mật. Cái lòng chảo trước mặt bọn họ giống như một cái phiến bính hình hà đạo, nếu đổi thành di chuyển trên mặt hồ bằng thuyền, khẳng định tôi sẽ bị cái hà đạo cực đại này hấp dẫn, mà sẽ không chú ý đến một con sông trong cốc đặc biệt nhỏ hẹp bí ẩn này.

Bọn họ xuống dưới rồi đi vào lòng chảo. Bên dưới sông đã hoàn toàn đóng băng , bọn họ đi trên mặt sông, giẫm lên băng, rất nhanh đi một km thì bề rộng lòng chảo mở rộng đến bốn năm mét. Tại đây, trên con sông, xuất hiện vô số tảng đá. Những tảng đá chất lên nhau, thoạt nhìn như một trận thạch đồ quái gở.

Muộn Du Bình tiếp tục đi. Mặt hồ dần biến thành một bãi đá. Muộn Du Bình phát hiện trên bãi đã lại có một cái cầu thang bí ẩn đặc biệt dốc dẫn xuống dưới. tiến vào một sơn cốc ở độ cao hai ngàn mét so với mặt nước biển. Nơi đó lại không giống như trong trung tâm Tuyết Sơn , toàn sơn cốc trải rộng màu xanh biếc. Hắn nhìn thấy đồng ruộng, dòng sông và rất nhiều ngôi nhà bằng đá trắng.

.Đây là nơi người Khang Ba Lạc sinh sống, tổng cộng có hơn một trăm chín mươi hộ, phần lớn đều là người Tạng.

Người mặc áo lam dẫn Muộn Du Bình vào căn nhà của thổ ty cao nhất. Người dâng khăn cáp đạt nói cho hắn biết, nơi này không có thổ ty. Người tiền nhiệm sau khi rời đi để lại một mệnh lệnh, bảo họ chờ đợi một thổ ty tiếp theo tới, nhưng họ chờ mãi vẫn không thấy ai đến.

Muộn Du Bình thấy được bức họa trên tấm thảm lông cừu vẽ chân dung vị thổ ty đời trước, hắn vừa liếc mắt liền nhận ra, đó là bức hoạ của Đổng Xán.

Đổng Xán là thổ ty ở nơi này? Hắn cảm thấy có chút ngoài không ngờ tới nhìn chằm chằm bức tranh thật lâu.

Đổng Xán và hắn có mối quan hệ huyết thống tương đối đặc biệt. Sau đó, vị đầu lĩnh đã dâng khăn Cáp Đạt ngũ sắc liền ngồi ở cạnh bếp lửa ấm áp kể cho hắn nghe một chuyện cũ vô cùng ly kỳ.

Hóa ra, trong tất cả người khuân vác ở Tây Tạng này có rất nhiều người đến từ chỗ bí mật này, nhưng bọn họ không phải do không chịu nổi chỗ này nên đi, mà đều là được người Khang Ba Lạc sắp xếp ở bên ngoài. Để thực sự hiểu được cảm giác bôn ba ở khu vực núi tuyết không người chỉ có người Khang Ba Lạc, bởi vì họ biết một mật đạo trong tuyết, nên cho dù bão tuyết lớn họ cũng chẳng cần lo lắng.

Tuy nhiên , những người phu khuân vác sinh ra ở Khang Ba Lạc luôn có một nhiệm vụ quan trọng mà thổ tỵ giao phó , đó là chờ đợi một thanh niên người Hán đi vào trong Tuyết Sơn.

Thổ ty đã nói , người thanh niên này là người cùng tộc với mình trên đất Hán.sau khi ông rời khỏi, người này có thể giúp họ giải quyết tai họạ.

Trước khi người thanh niên này tới, thổ ty người Hán của bọn họ đã đem một bí mật phong bế ở bên trong một cánh cửa Thanh Đồng. nhưng ông cũng nói cánh cửa này cứ sau một khoảng thời gian nhất định lại mở ra.

Trước khi rời đi ông nói, nhất định mình không thể sống được đến lần cửa mở tiếp theo, cho dù có sống được cũng không có cách nào giữ gìn bí mật này. Nhưng cũng may trước khi cánh cửa Thanh Đồng mở ra nhất định sẽ có một người trẻ tuổi tới đây, tiếp nhận công việc của ông.

Người Khang Ba Lạc nhất định phải đảm bảo rằng người này có thể bình an tới nơi này, hơn nữa bọn họ phải cam đoan sẽ nhận ra người đó. Cho nên họ liền tiến hành một kế hoạch, sau khi chờ đợi mấy năm, đưa ra ngoài rất nhiều phu khuân vác, nhưng qua nhiều lần thử vẫn không tìm được người Đổng Xán nói tới. Cuối cùng thì Muộn Du Bình xuất hiện.

Người mặc Tạng bào màu lam lúc trước đã bắn Muộn Du Bình tên gọi là Đan, hắn là này người có thân thủ tốt nhất và thông minh nhất trong số họ, hắn đến công kích Muộn Du Bình, là vì muốn thử xem Muộn Du Bình có thân thủ tốt hay không. Còn lam bào để chỉ những người đàn ông trưởng thành nơi này khi đi săn đều mặc chúng.

Nghe xong câu chuyện đó, Muộn Du Bình đã uống hết bốn năm bát trà bơ. Trong thời tiết rét lạnh này lần đầu tiên hắn cảm thấy bất lực, chỉ có thể im lặng nghe, chẳng thể thực hiện biện pháp phòng vệ nào.

Bọn họ tiếp tục nói về những việc Đổng Xán trải qua tại đây, như thế nào mà lên làm thổ ty , dạy bọn họ cách đối phó với ác ma trong núi tuyết, và như thế nào mà rời đi. Đây giống như một điển tích, Muộn Du Bình hiểu được, nếu nói là bí mật, rất có khả năng không phải là ý ở mặt chữ.

Đổng Xán và những người khác đi từ sơn cốc nơi có khối cầu cực lớn kia ra rồi mới tới ở chỗ này. Những người khác sau khi nghỉ ngơi phục hồi tốt rồi mới rời đi, ra đến thế giới bên ngoài, cầm số vàng đó rồi trở nên giàu có.

Mà Đổng Xán ở lại, tiến hành việc "Bảo vệ bí mật" ở đây. Khẳng định là hắn đợi ở đây rất lâu rồi mới đi, đem tin tức ở nơi này đưa về Trương gia, nhưng bản thân hắn lại không xuất hiện- sau đó người ta mới phát hiện hắn ở trong một ngôi miếu lạt ma hẻo lánh, luôn luôn vẽ một bức tranh.

Muộn Du Bình hiểu được tuy rằng thân thủ Đổng Xán không bằng mình , nhưng hắn cũng là một người tương đối bình tĩnh, hành động như vậy chỉ có thể giải thích được một điểm, đó chính là có cái gì đó nhiễu loạn tâm tĩnh như nước của hắn, khiến cho hắn nản lòng thoái chí.

Sau khi rời khỏi Khang Ba Lạc, bản thân cũng không nghĩ lại trở về trạng thái như thế. Nếu chỉ là một bí mật, không thể nào có kết quả như thế, vậy rốt cuộc là nguyên nhân gì?

Người Khang Ba Lạc cũng không biết, sau khi đã tiến hành trao đổi xong, bọn họ liền nói với Muộn Du Bình, hy vọng anh ta có thể giúp bọn họ hoàn thành việc vượt qua tai họa mỗi mười năm một lần. Muộn Du Bình hỏi, rốt cuộc bí mật là cái gì?


Người Khang Ba Lạc nói, Bí mật chính là Ác Ma.


Bọn họ đưa Muộn Du Bình vào phòng phía sau nhà thổ ty. Muộn Du Bình lần đầu tiên thấy một thứ đồ mấu chốt trong câu chuyện cũ này- một bức tượng thần bằng đá hình dạng kỳ dị, màu đen.

Gian phòng vô cùng lớn nhưng không bày một cái gì, chỉ có một bức tượng thần màu đen. Đây không phải là tượng thần Tây Tạng, Muộn Du Bình đối với các nền văn minh hiểu rõ vô cùng, hắn ý thức được, đây là hắn lần đầu tiên nhìn thấy loại tượng thần có bộ dáng này.

Nó rất có khả năng chính là đến từ một nền văn mình mà hắn vẫn còn chưa biết đến. Chúng ta nói đó là tượng thần, là vì nó sở hữu những đặc điểm phù hợp với tượng thần , nhưng chắc chắn đây không phải là thần của loài người. Tiểu Ca nói trong tư liệu, hắn không có cách nào để dùng ngôn ngữ mà diễn tả được đó là cái gì. Tuy rằng không viết ra được nhưng bức tranh của Tiểu Ca lại miêu tả được cái đó.

Tôi vừa liếc nhìn liền nhận ra được , hệ thống thần này và những thần lớn lên giống cái chày gỗ mà chúng tôi thấy trong thiên điện ở núi Trường Bạch là giống nhau. Thần so với chúng ta là một dạng tồn tại cao cấp hơn , thế nhưng, giả thiết trên thế giới có động vật nhuyễn thể, hoặc là con san hô tu thành chính quả, chúng nó biến thành thần, chúng ta có thể phủ định giá trị quan tích cực của chúng không? Khi tôi nhìn thấy bức tranh đơn giản này, trong đầu bỗng nhiên xuất hiện ý nghĩ kỳ quái như vậy.

Người Khang Ba Lạc nói với Muộn Du Bình, thứ mà bọn họ muốn ngăn cản, chính là cái thứ này. Nơi sơn cốc mà Đổng Xán đi qua có vô vàn khối cầu kim loại chính là một mặt khác của thôn trang Khang Ba Lạc , nơi đó cách bọn họ mười bảy km, đường sá cực kỳ khó đi. Có rất nhiều người ở nơi này đều đã từng đi qua cái sơn cốc kia, đã từng nhìn thấy khối cầu kỳ quái kia, cũng có lượm một số khối cầu đem về.

Muộn Du Bình cảm giác nói như vậy có một chút vấn đề, lại hỏi: Cô gái vừa rồi, lại là xảy ra chuyện gì vậy?

Lần này lại không có được câu trả lời.

Khi đang nói những chuyện này thì Muộn Du Bình chợt phát hiện từ khi hắn vào phòng này có một chỗ cực kỳ không tự nhiên. Hắn nhìn kỹ vài lần, phát hiện quả thật có thứ tuyệt đối không có khả năng xuất hiện ở đây nhưng lại đang xuất hiện ngay trong phòng này. Hắn không biến sắc, nhưng lòng đã hiểu rõ , những gì hắn vừa nghe được dường như khác hoàn toàn với chân tướng. Nơi này tồn tại nhìn như là một thế giới bồng lai tiên cảnh, một nơi hoàn toàn cách biệt, nhưng mà lại hoàn toàn không phải giống như bên ngoài nhìn vào.

Chương 20: Tách biệt với nền văn minh Tà Thần

Nhìn đến đây, tôi cơ bản đã hiểu được Đổng Xán trong sơn cốc rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Bất kể ác ma kia rốt cuộc là cái gì, nguyên nhân khiến Đổng Xán nản lòng thoái chí nhất định là do ông ta đã yêu một cô gái. Đối với người của Trương gia mà nói, yêu đương mà một loại quan hệ rất khó lí giải. Đối với Tiểu Ca, tôi ở cùng anh ta lâu như vậy, chưa một lần nhìn thấy bất cứ biểu hiện gì của dục vọng.

Theo lẽ thường thì bất luận là người thuần khiết cỡ nào, trừ khi uống nhầm thuốc, nếu không tuyệt đối sẽ chẳng thể thuần khiết- không chút ham muốn, tâm trong sạch. Cho dù có là thích trồng hoa, ngắm cảnh thì đó cũng coi là một loại dụng vọng. Nhưng Tiểu Ca này bình thường việc thích làm nhất chính là ngẩn người, nói cách khác nếu bản thân anh ta có dục vọng thì dục vọng đó chính là ngồi bất động một chỗ. Từ những biểu hiện bình thường đó, dường như chưa bao giờ thấy Tiểu Ca có hứng thú với phụ nữ cũng không xuất hiện mấy hành động tự an ủi gì đó, đối với ăn uống thì không quan tâm nhiều lắm, mà cũng chẳng có chuyện gì đủ sức làm anh ta ra vẻ hứng thú. Đương nhiên cho dù có hứng thú, Tiểu Ca cũng chẳng biểu hiện ra mặt. Tôi đột nhiên nảy ra một ý nghĩ độc ác: nếu còn cơ hội gặp lại, nhất định sẽ thử cho anh ta ăn mấy con ruồi Tây Ban Nha*, không biết cơ thể anh ta còn có thể miễn dịch không.

* Ruồi Tây Ban Nha nghe nói là có thể tăng ham muốn, bổ thận tráng dương, bla bla

Vì vậy tôi luôn cảm thấy, người trong Trương gia dường như đặc biệt cứng nhắc, không thể dễ dàng bộc lộ cảm xúc. Tuy nhiên, Đổng Xán là người phá vỡ ý tưởng này của tôi. Tôi biết, chỉ có đánh mất tình yêu mới khiến một người đàn ông chịu sự huấn luyện khắc nghiệt, tâm tư kín đáo, thân thủ bất phàm nản lòng với thế giới bên ngoài, hơn nữa kết cục của cô gái ấy nhất định làm cho người khác rất đau lòng.

Tôi không khỏi nghĩ tới Bàn Tử. Anh ta là người có thể chịu đựng nỗi đau rất tốt, mặc dù với một người, vui và buồn chỉ là hai thái cực cảm xúc, cảm xúc cá nhân cũng không thể bán lấy tiền, người như Bàn tử càng không qua được điểm mấu chốt ấy. Huống hồ những người tự kỷ như Trương gia nhân.

Tôi cảm thấy, chuyện là do Đổng Xán đã yêu một cô gái ở Khang Ba Lạc . Nhưng do một sự cố nào đó mà cô ấy chết, hoặc có chuyện khác xảy ra, Đổng Xán tuy rằng giải quyết được vấn đề của ngôi làng đó, nhưng lại mất đi ý muốn tiếp tục lưu lại đây.

Phim truyền hình thường đưa ra mấy kiểu chuyện tình tay ba, nhưng thực tế ngoài đời cũng rất có thể xảy ra. Tiểu Ca phát hiện tường trong căn phòng chứa tảng đá này là hỗn hợp bằng đất sét trộn bột giấy. Đây là một loại bê tông nhìn rất giống bùn nhão nhưng cực kì rắn chắc, đặc biệt lại ở nơi lạnh thế này tốc độ đông đặc vô cùng nhanh. Nhưng có một điểm, đông lại có nhanh cũng chẳng thể đọ được với tốc độ nước biến thành băng, cho nên bức tường đá phải được giữ ấm mới đúc được.

Trong một ngôi làng như vậy, sao lại dùng bê tông để đúc vách tường. Tiểu Ca phán đoán rằng, chỗ này có điểm mờ ám, nhưng từ những điều phát hiện ra lại chẳng hiểu được chỗ nào mờ ám, vì thế anh ta trực tiếp hỏi trưởng thôn vì sao nơi này lại có bê tông.

Trưởng thôn nói rằng, bọn họ không biết vật liệu này tên gì. Bọn họ phát hiện loại vật này là trong một lần chim sắt từ trên trời rơi xuống. Sau đó bọn họ lại tìm ra thứ này chỉ cần ở nhiệt độ ấm trộn với nước, sau một thời gian sẽ đông cứng lại, dùng nó để cố định tảng đá vô cùng tốt.

Con chim sắt rơi xuống ba năm trước, bọn họ nghe ở bên ngoài người ta gọi là máy bay. Nếu Tiểu Ca muốn đi xem, bọn họ sẽ dẫn đi. Tiểu Ca lắc đầu, tiếp tục hỏi chuyện cô gái kia, anh ta cảm giác tất cả đều có liên quan.

Hỏi mấy lần, vị trưởng thôn kia mới nói cho anh ta biết, cô gái ấy chính là người mà Đổng Xán yêu.

Đổng Xán sở dĩ lưu lại vì muốn cứu cô ấy, bởi vì cô sẽ bị đem dâng cho ma quỷ làm tế phẩm.

Nếu Đổng Xán không xuất hiện nữa, bọn họ sẽ lập tức mang cô gái đi, bởi vì kỳ hạn mười năm sắp đến. Những hành động vừa rồi là nghi thức cần thiết phải thực hiện với tế phẩm ở nơi này.

Tiểu Ca nghe xong cũng không cảm thấy quá hợp lý, theo cách giải thích dường như rất hoàn hảo này anh ta phát hiện ra một kẽ hở lớn.

Tỉ lệ khi trộn bê tông phải vô cùng chính xác, hơn nữa ba năm trước Tiểu Ca cũng chưa từng nghe nói có máy bay rơi ở Tây Tạng. Cho dù là máy bay chiến đấu, ở đây cũng không có nhiều đường hàng không như thế, đường không bay qua Hymalaya thực chất rất ít.

Có máy bay rơi ở chỗ này, trừ khi mục đích của máy bay là tới đây rồi lập tức ngoặt trở về. Tiểu Ca hỏi trưởng thôn, nói về ma quỷ nhiều như vậy, ở đây rốt cuộc đã có ai thấy chưa?

Lần này toàn bộ người Khang Ba Lạc đều không ai lên tiếng, chỉ có người trưởng thôn kia giơ tay lên, ông ta nói, cuộc chiến đấu trước kia tuy là bọn họ tanh tag nhưng phần lớn người trưởng thành trong thôn đều chết trận. Có một số người khác tuy còn sống nhưng thời gian sau cũng chết vãn hết. Người từng gặp ma quỷ mà chưa chết chỉ còn chưa tới bảy mạng.

Khi xem đến đây, trong lòng tôi xuất hiện một nghi vấn. Những người Khang Ba Lạc này nếu đã biết đến thế giới bên ngoài, vì sao còn muốn ở trong thôn của mình làm gì?

Bọn họ có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài, đồng thời có thể chứng minh mình có thể thích ứng với cuộc sống ở thế giới bên ngoài. Như vậy chỉ cần nói rõ tình hình, cũng không cần những khẩu súng bắn chim này. Bọn họ ở gần vàng như vậy, mua súng tự động cũng không phải khó. Nếu bọn họ có thể dùng súng bắn chim đối phó với ác ma trước đó, như vậy nếu có sáu, bảy khẩu súng tự động hẳn là không vấn đề, một Đổng Xán tuyệt đối không bằng một khẩu súng tự động. Cách xa 20 mét, nếu như cho tôi một khẩu súng tự động, tôi có thể tự tin triệt hạ được Tiểu Ca.

Vô luận là bọn họ làm thế nào, chuyện này càng lúc càng bất hợp lý.

Tính đến thời điểm này, tôi đã ở Miếu lạt ma được bảy ngày. Mấy ngày này đọc, phân tích, phân loại, mệt mỏi vô cùng, hơn nữa thức ăn ở đây tôi cũng không quen. Tới lúc này, tôi cảm thấy mình đã đến giới hạn. Môi trường ở đây rất dễ chịu, tuy rằng cái rét căm căm của Mặc Thoát khiến tôi không thể ra ngoài, nhưng lò than cùng chăn đệm ấm áp đủ giúp tôi cảm thấy dễ chịu. Bản thân cũng đã quen với mùi vị kì quái của chăn bông nên ngủ hết sức thoải mái.

Nếu là trước kia, tới thời điểm này tôi nhất định sẽ nghĩ cách xuống núi, ăn thứ gì đó khác, chứ mỗi ngày ăn bơ ba bữa không phải kiểu dạ dày tôi có thể chịu được. Tuy nhiên trước đây tôi đã trải qua nhiều chuyện, điều đó đã dạy tôi tuyệt đối không được rời khỏi nơi đang làm việc. Vì tôi biết, rời đi chưa tới một phút đồng hồ, có thể sẽ xảy ra vô số biến cố. Chỉ cần tôi ở lại đây mọi chuyền đều có thể tự mình khống chế. Trên thế giới này, nếu có bí mật gì không thể để người khác biết, như vậy dù có mấy thứ này trên bàn, vậy bản thân cũng sẽ luôn cho rằng, bốn phía có vô ánh mắt chờ mình rời khỏi bàn, dù chỉ là một giây.

Vì vậy mà tôi bảo người làm thuê cho mình nghĩ cách xuống núi mua ít rau dưa cùng bột mì, sau đó tìm một đầu bếp người Hán, mang theo xoong nồi đến miếu Lạt Ma. Do thức ăn có nhiều loại khác nhau, ban đầu tôi bảo đầu bếp làm một ít đậu để ăn cơm, sau đó bí mật bảo anh ta trộn thêm thịt vào. Một khoảng thời gian sau, tôi không xem tin tức, có mấy lần muốn cầm lên đọc nhưng lập tức bị cảm giác mệt mỏi ập đến, vì nhìn thấy chỗ cần chỉnh sửa thực sự quá nhiều, có chút thật mệt mỏi.

Trong thời gian này, Trần Tuyết Hàn dần trở thành bạn tốt của tôi. Ông ấy cũng có hứng thú đối với những thứ tôi đang xem xét, chúng tôi thường xuyên cùng nhau trao đổi một số chi tiết. Thời điểm này đã bắt đầu có khách du lich, ông ta thường ra ngoài giúp đón khách.

Do tôi luôn đóng cửa không ra ngoài, nên khách đến tôi cũng chẳng rõ, ông ấy liền phụ trách việc giới thiệu tôi. Miếu lạt ma dạo này rất đông người, tôi thấy nhiều người xa lạ không phải là người trong chùa. Tôi mang theo phần cơm của mình, định vừa ăn vừa tìm một người tán gẫu, lại phát hiện có gì đó rất lạ. Trong chùa có nhiều người ngoài, nhìn bộ dáng đều là từ Hương Cảng hoặc Quảng Đông. Có thể nhận ra được cái chất Quảng Đông, đó có vẻ như là một đoàn du lịch, họ đều đang dùng bữa. Trần Tuyết Hàn nói cho tôi biết, lữ đoàn này tới khi tôi ở đây ngày thứ ba, tôi lúc đó đang đắm chìm trong những câu chuyện, hầu như đều ăn trong phòng, vì vậy không biết những người này đến. Đoàn lữ hành này đến từ Hương Cảng, tên là : Lục Sắc Gia Viên, do một trang web du lịch ở Hương Cảng tổ chức.

Trưởng đoàn lữ hành và đại lạt ma trong miếu dường như có quan hệ tốt, giống như quen biết đã lâu. Bọn họ ở lại nơi này đến tháng sau vì họ muốn đi vào sâu trong núi chụp núi tuyết. Thời gian tốt nhất chưa tới nên ở lại chỗ này nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Nhóm người này hàng năm đều tới đây, Trần Tuyết Hàn từng làm hướng dẫn du lịch cho họ nhiều lần.

Tôi cũng không quá để ý những người này, chỉ chào hỏi họ một chút, mặc dù có một vài người không phải lạt ma vẫn sống ở đây, cuộc sống của tôi có thể thú vị hơn, nhưng tôi không muốn gặp chuyện phiền phức trên đường. Những người này đến làm cho nơi đây trở lên đông đúc, thành ra nhiều lạt ma đều đến căn phòng này, xem nơi này như phòng ăn.

Tôi suy nghĩ trong giây lát, ngẫm tới những tin tức thảo luận giữa tôi và đại lạt ma khả năng là rất có ý nghĩa, liền cũng đến gian phòng kia ăn. Đến đây rồi chuyện càng làm cho tôi kinh ngạc hơn, tôi thấy nơi đây cũng không có đại lạt ma, chỉ có một nhóm khách du lịch ngoại quốc.

Ngoại quốc đương nhiên không tính người Hương Cảng, nhưng có có sáu, bảy người. Chắc vì tránh gây nghi ngờ, chẳng có lạt ma nào ở trong phòng. Dù sao đại lạt ma cũng là người trí tuệ phi thường, tu vi hơn người, phần lớn thời gian đều dành cho việc tĩnh tu, không thể lúc nào cũng ở trong môi trường ồn ào.
Tôi hỏi Trần Tuyết Hàn rốt cuộc chuyện này là sao, từ lúc nào mà ngôi Miếu lạt ma hẻo lánh này biến thành một cái motel như vậy. Sau khi tôi xuất hiện ở đây lại có rất nhiều người cũng tới. Trần Tuyết Hàn nói không biết, tuy rằng các ngôi Miếu lạt ma không phải biệt lập, nhưng trừ một vài đoàn cố định, thật sự có rất ít người tụ tập tới nơi này. Có thể vì tôi có tướng phát, từ sau khi tôi đến phong thủy dường như thay đổi, người người liền có hứng thú lui đến.

Tôi không tìm thấy lão lạt ma, lúc này có khi ông ấy đang ở tầng thượng của ngôi miếu. Nơi đó chúng tôi lại không có quyền đi vào.

Tôi nhờ một tiểu lạt ma nanh ta dùm với ông ấy, tôi muốn cùng họ thảo luận sau khi tôi sắp xếp một số thông tin này. Nhưng tiểu lạt ma nói, khi nào gặp được lão lạt ma cậu ta sẽ nói cho tôi biết, còn tôi không thể lúc nào cũng yêu cầu gặp ông ta được.

Đang lúc chán nản, tôi liền đi dạo trong sân, cố gắng tránh những nơi có người, đi tới một khoảng sân tách biệt.

Các ngôi Miếu lạt ma có vô số dãy hiên, nói vô số có lẽ hơi khoa trương, nhưng số lượng thực sự rất nhiều, hơn nữa còn nhỏ vô cùng, thậm chí quá nhỏ để so sánh với một cái giếng.

Tôi bước tới trước sân, đã qua ba, bốn giờ đồng hồ không nghe thấy tiếng người, nói cách khác ngôi Miếu lạt ma này là một chốn tương đối hoang vu.

Trên tường quanh sân có một vài bức bích họa Phật giáo loang lổ, đã bong ra từng mảng đến mức chỉ còn lại vài khoảng màu, không thể nhìn rõ là vẽ gì. Tôi thấy được một bóng lưng, có thể xác định, người này chỉ là đang thẫn thờ ở đó, chắc canh ta không phải đang nhìn cố định cái gì.

Nhưng tôi không dám đi qua, vì bóng lưng ấy quá quen thuộc, quen thuộc đến mức trong một giây kia tôi còn nghi mình có phải đang tưởng tượng, hay là bản thân đã bước vào một không gian khác.

Kia chẳng phải là bóng lưng Tiểu Ca. Anh ta mặc một chiếc áo gió phủ đầy tuyết, lặng yên ngồi trên một tảng đá trên sân nhà, bốn phía đều là tuyết đọng. Trông giống như anh ta không biết tới cái lạnh, chỉ hoàn toàn chìm trong thế giới của riêng mình.

Chương 21: Tiểu Ca xuất hiện

Tôi không rõ mình đã đứng ở đó bao lâu, ngơ ngác nhìn về bóng lưng ấy.

Thầm nhủ làm sao điều này có thể xảy ra? Không phải chính anh ta đã nói mười năm sau ư?

Sao Tiểu Ca đã ra khỏi đó?

Chẳng lẽ anh ta căn bản chỉ lừa gạt tôi? Hay sự tình có biến cố mới.

Hơn nữa anh ta tới nơi này vậy lẽ nào đây cũng là một vị trí quan trọng. Anh ta vừa ra khỏi cánh cửa Thanh Đồng liền tới thẳng đây?

Chờ đến khi tôi đi đến trước mặt bóng lưng kia thì cơn mộng du đã trở thành sự phẫn nộ và nghi hoặc. Vì đó thực chất không phải một người đang ngồi mà là một bức tượng đá. Chiếc áo đen khoác lên bức tượng, rất gọn gàng, mũ tránh tuyết đội đầu, nhìn qua giống như một người thực.

Tôi hết sức tức giận, rốt cuộc ai là kẻ làm ra trò đùa tai quái này, khoác một chiếc áo lên tảng đá, mà điều khiến tôi nghi hoặc là vì sao nó lại có hình dáng giống Tiểu Ca đến như thế.

Tôi tiến sát hơn nữa để nhìn gần gương mặt của bức tượng, đó chỉ là một bức tượng đơn giản khắc từ đá núi Himalaya, hết sức thô sơ, hoàn toàn không có chi tiết, nhưng toàn thân quả thực là rất giống Tiểu Ca. Tôi như có phản xạ tự nhiên mà nhìn vào hai ngón tay tượng đá, nó cũng không khắc tỉ mỉ đến phần ngón tay.

Kiểm tra xung quanh, tôi còn nhận thấy chiếc áo này khá đắt. Những đoàn du khách kia tới đây cũng chẳng dễ dàng gì, đâu có ai mang đến hai chiếc rồi để lại một chiếc ở đây trêu người khác. Chiếc áo khoác này khẳng định có chủ, hơn nữa nếu người đó muốn xuống núi nhất định vẫn sẽ quay lại lấy.

Xung quanh không có ai, tôi lượn vài vòng rồi trở về trước mặt tượng đá cẩn thận quan sát.

Cảm giác này hết sức kì quái, ảnh của Tiểu Ca tôi có cực kì, cực kì ít, ngoài một vài bức hình mờ mờ ra, thì trong khoảng thời gian chúng tôi ở cạnh nhau không hề lưu lại thứ gì.

Điều này khiến tôi nảy sinh một ý nghĩ, chung quy lại thì tôi và anh ta cũng không phải là quan hệ bằng hữu.

Bên cạnh những điều được coi là quan trọng, khi cuộc sống của mình có ý nghĩa mới phát sinh tình bằng hữu thực sự, nếu không, nghĩa của hai từ bằng hữu kia, dù biến mất hay vốn không tồn tại, cũng không phải là vấn đề nữa.

Tôi châm một điếu thuốc, nhìn bức tượng điêu khắc dở, trong lòng thầm nghĩ nhất định phải hỏi đại lạt ma xem đây là cái gì. Nhưng tôi cũng phát hiện ngay rằng, tượng đá này không phải không có ý định điêu khắc chi tiết, mà là giữa chừng liền ngừng lại.

Tất cả các bộ phận có mức độ chi tiết hoàn toàn không giống nhau, cẩn thận nhất là mặt, phần này chắc đã được chuẩn bị để hoàn thành đầu tiên. Tôi có thể dựa theo nhưng đường nét điêu khắc của thợ thủ công để đoán ra ý đồ. Gương mặt của bức tượng này chính là mặt Tiểu Ca. Khuôn mặt của anh ta khá đặc trưng, gương mặt ấy sẽ chẳng lẫn được vào đâu giữa một đám người, nhưng đó không phải điểm làm tôi để ý, tôi để ý chính là biểu cảm trên gương mặt kia.

Tôi nhận ra anh ta đang khóc.

Tôi bước lui lại vài bước, càng ngày càng cảm thấy rùng mình. Toàn bộ tượng đá khiến tôi có một cảm giác khiếp sợ - Tiểu Ca ngồi trên một tảng đá, đầu cúi thấp, đang khóc.

Tiểu Ca chưa bao giờ lộ ra biểu tình gì rõ ràng, nhất là khóc. Đến một tia thống khổ, tôi còn chưa từng nhìn thấy anh ta biểu đạt nữa là. Tôi nhìn tượng đá, hút xong điếu thuốc, rồi định cởi chiếc áo khoác để đi tìm lão lạt ma hỏi chuyện.

Nhưng tay tôi vừa chạm vào mặt ngoài của tấm áo đã phát hiện có gì đó không đúng, nó để lại trên tay tôi một lớp bụi. Tôi thật cẩn thận cởi bỏ khóa kéo cùng nút thắt, liền thấy rằng chiếc áo này vốn không phải màu đen. Màu sắc lúc đầu đã không thể xác minh nổi, có thể là trắng hoặc đỏ, nhưng vì quá cũ rồi nên biến thành màu đen.

Chiếc áo này hẳn đã phủ ngoài tượng đá một khoảng thời gian dài. Nhìn vào chất liệu là một hỗn hợp nilon, nhưng kiểu dáng lại khá là mới, có lẽ không quá ba năm. Nói cách khác, trong vòng ba năm trở lại đây có người đã khoác áo lên tượng đá nhưng lại không có lấy về, đồng thời trong khoảng thời gian đó cũng không ai phát hiện ra chuyện này.

Sau đó, tôi có hỏi đại lạt ma. Ông nói cho tôi biết, không có nhiều lạt ma hoạt động trong khu vực đó. Miếu này có những khu vực mà nhiều lạt ma cũng chưa hề bước vào, có lẽ chỉ có người xây dựng chùa mới rõ. Nói vậy cũng có nghĩa là người khắc tượng đá này, người đã khoác áo lên đó đều không thể nào chứng thực.

Đại lạt ma cũng giúp tôi hỏi một số người nhưng không có kết quả, bởi vì có vẻ tất cả lạt ma đều nói, từ khi vào chùa họ chưa hề bước tới sân kia. Tôi tin họ nói thật. Đối với nơi này mà nói, tất cả lạt ma ở đây đều rất mộ đạo, sự tò mò của họ đã sớm được loại bỏ từ khi bắt đầu còn đường tu hành. Cho nên họ đều có cái nhìn rất đơn giản, không dục vọng về cuộc sống chung quanh, không cần phải tới đó, cho dù có cách một cánh cửa, họ cũng chẳng đẩy ra liếc lấy một lần.

Như vậy, tượng đá này rất có thể xuất hiện từ thời của Đức Nhân đại lạt ma, mà các lạt ma thời điểm đó hầu như đã qua đời, suy luận tới đây, muốn biết người mặc áo cho tượng càng không thể kiểm chứng được.

Trong đầu tôi tưởng tượng, khi nào, Tiểu Ca ở trong khoảng sân này mà khóc thầm?

Sau đó anh ta còn bị người ta trông thấy, lại bí mật tạc tượng, bức tượng đó trong ba năm trở lại đây còn được người khác phủ thêm áo khoác.

Tôi chắc rằng có rất nhiều chuyện lúc trước mà tôi không biết, những ngày tiếp theo e rằng cũng sẽ không bình yên như tôi nghĩ.

Về lại phòng mình, tôi bảo người làm thuê đọc một lựơt tài liệu phía sau, tôi nghĩ sẽ tìm thấy những bản ghi chép về "khóc". Còn mình thì cẩn thận kiểm tra chiếc áo gió, muốn tìm kiếm chút thông tin về chủ nhân của nó. Vì tôi biết, chỉ cần có một điểm đột phá, tôi có thể làm sáng tỏ các manh mối để tìm kết luận.

Cái áo này có nhãn hiệu Colombia, đây là một thương hiệu của Mĩ thành lập năm 1938, lượng tiêu thụ nhiều vô kể, gần như tất cả các nơi trên thế giới đều có cửa hàng của công ty ấy, có vẻ chẳng thể nghiên cứu từ thương hiệu, màu sắc ban đầu cũng không thể kiểm chứng. Tôi chỉ biết, số đo của nó là XL, mặc số này chỉ có thể là nam giới, nhưng cũng có khả năng là nữ nhân đô con, tuy nhiên bỏ một số tiền lớn thế này thì khả năng đó cũng không nhiều.

Không phải dân bản xứ, bởi vì phong cách ăn mặc hiện đại như này rất ít thấy ở họ, xác suất là dân ở đây là vô cùng nhỏ.

Tôi sờ vào các túi tiền trên chiếc áo, trong một cái, có mấy đồng tiền xu, là tiền xu nước ngoài. Tôi không biết nhiều về tiền ngoại quốc, nhưng tôi đoán là chiếc áo được mua ở nước ngoài. Trong túi áo, còn có biên lai, là biên lai nhà hàng, tôi không chắc đó là một khách sạn ở Mặc Thoát, nhưng nhất định là một khách sạn ở Tây Tạng. Trong đó còn có một mảnh giấy bọc trong túi chống thấm nước.
Mảnh giấy này hoàn toàn bao kín trong túi chống thấm, mặt trên toàn là tiếng Đức, ở phía sau có một dãy số: 02200059.

Tôi hít một ngụm khí lạnh, bảo người giúp việc xuống núi tìm người phiên dịch đoạn tiếng Đức này.

Mặt khác, tôi cũng có phần sốt ruột, liền nghĩ đến việc tìm một người Đức, sau khi hỏi thăm vài lạt ma, liền tới nơi nghỉ ngơi của người Đức để nhờ giúp đỡ. Trong số lạt ma có người biết phát âm một chút tiếng Đức, mà người Đức kia cũng hỗ trợ phiên dịch, vì thế tôi biết được trên đó viết:

Gửi Trương tiên sinh, tôi đã mở chiếc hộp cổ mà ngài gửi cho tôi. Tôi hiểu ý của ngài, tôi đoán rằng ngài muốn nói với tôi về quá trình biến hóa của thế giới. Tôi cũng biết ngài đang lo lắng về chuyện xảy ra. Những gì đã nói từ trước, tôi hy vọng phương pháp của gia tộc ngài có thể tiếp tục hiệu lực trong thời gian ngắn. Đây không phải việc mà thế hệ chúng ta có thể giải quyết, tôi sẽ cố hết sức thuyết phục những bằng hữu của tôi mang niềm hy vọng đích thực lưu lại vào mười năm sau . Hy vọng tới khi đó ngài vẫn còn nhớ được chúng tôi.

Dãy số dùng để mở hộp là 02200059. Đây là lần cuối cùng. Chúng tôi hiện không có nhiều thời gian, tôi rất muốn được gặp ngài hoặc người của ngài càng sớm càng tốt. Nếu ngài đọc được lá thư này, vui lòng viết thư trả lời theo địa chỉ trên phong thư, tôi sẽ lập tức tới.

Bất kể là ai nhìn thấy mảnh giấy này, xin hãy để nó lại nguyên vị trí, chúng tôi muốn truyền tải thông tin này tới một người rất quan trọng.

Chữ kí để trống, nhưng ở vị trí chữ kí lại là một huy hiệu từ chữ tiếng Đức kì quái.

Chương 22: Gọi Bàn Tử

Châm một điếu thuốc, tôi biết rằng nhiều chuyện không thể tránh né, đây là thời điểm để quyết định lựa chọn.

Tôi đang ở trong một quán rượu nhỏ, gọi một cuộc điện thoại quan trọng. Nói là một quán bar, kì thật là một căn phòng nhỏ trang trí thành quán bar, trên vách tường treo rất nhiều ảnh du khách. Ở đây có thể uống rất nhiều đồ uống từ bên ngoài ngọn núi, nhìn những cây nến thơm cùng vài món đồ linh tinh trong quán, tuy nhiên giá cả khá đắt đỏ, một lon bia ngoài kia chỉ bán vài đồng vào đây thành 30 đồng. Mùa này, trong quán đốt thêm nhiều đống lửa, mọi người túm năm tụm ba vây quanh đó, tán chuyện bằng thứ giọng ngọng nghịu.

Mặc dù đang là buổi chiều nhưng cả căn phòng chìm trong một màn tối tăm, chỉ có ánh lửa than cùng nguồn sáng leo lét từ nến thơm, thủy tinh cùng kim loại phản xạ ra ánh sáng ra khắp không gian. Đây là bầu không khí bình yên mà tôi thích. Vì vậy, tôi gọi cuộc điện thoại này, thời gian dài hơn so với dự kiến.

Đầu dây bên kia là Bàn Tử ở cách xa mấy ngàn km. Bên anh ta nhiệt độ chắc rất cao, theo giọng nói chuyện tôi có thể cảm nhận sức nóng từ trong ngươicrophone phả ra.

Sau khi tôi và Bàn Tử chia tay, ban đầu rất ít khi liên lạc, vì Ba Nãi thật sự rất khó kết nối. Tôi gọi điện thoại sang bên đó, luôn gặp A Qúy nhận điện, bảo anh ấy báo Bàn Tử gọi lại cho tôi, nhưng anh ta chẳng bao giờ gọi lại.

Với tâm trạng lúc ấy, thực sự tôi cũng rất sợ anh ta gọi lại, vì có quá nhiều sự việc tỏng quá khứ tôi không thể đối mặt. Anh ta không gọi lại, kì thật tôi cũng như trút được gánh nặng. Cứ như vậy, mãi đến nửa năm sau, tôi mới nói chuyện với anh ta, điều khiến tôi vui mừng là tâm trạng của anh ta đã khá lên nhiều, năng lực đùa vui đã quay trở lại.

Sau đó, đại khái mỗi tuần tôi đều gọi điện cho Bàn Tử, anh ta cũng càng ngày càng thoải mái. Tôi cố gắng bảo anh ta rời Quảng Tây, nhưng vấn đề ở nơi đó dường như làm cho anh ta có tâm trạng không tốt, cứ nhắc đến đó, anh ta lại pha trò đánh trống lảng, nói hiện tại mình cùng bố vợ sống cùng nhau rất ổn, nhiều người còn muốn làm bố vợ của anh ta, cho nên anh không muốn rời đi vân vân.

Sau dần tôi cũng không muốn ngươiễn cưỡng nữa, nhưng vẫn hi vọng những cuộc điện thoại của tôi có thể mang đến cho anh ta một ít hơi thở hiện đại, làm anh ta không chìm đắm mãi trong cuộc sống thanh nhàn, vẫn có thể biết được ngoài xã hội đang phát sinh chuyện gì.

Nói chuyện lần này, tôi đem những việc xảy ra ở đây kể với Bàn Tử. Anh ta nghe được tôi phát hiện bức họa Tiểu Ca liền trở nên hết sức hưng phấn, điểm này cũng làm tôi có chút đắc ý.

Hóa ra trong lòng anh ta vẫn còn nhiệt huyết lắm, hoặc là nói, sâu trong thâm tâm anh ta đã khôi phục được đa phần, chỉ là anh ta không muốn thừa nhận mà thôi.

Tôi đã nhận ra điều đó từ lâu, nhưng qua chuyện trò với Bàn Tử, liền phát hiện hưng phấn ở anh ta có gì đó không đúng, nghe ngữ khí, dường như không phải hứng thú với việc tôi kể, mà giống như trong giọng nói có chút trầm tư cùng nghi ngờ.

"Anh đang suy nghĩ gì à?" tôi hỏi anh ta, "Nói thằng ra đi, anh vừa nói chuyện vừa ăn ốc đấy chắc?"

"Cậu đúng là, Bàn gia tôi nghe cậu nói cảm thấy sự việc không đúng lắm. Nhưng chắc có lẽ do tôi nghĩ nhiều quá rồi."

"Cái gì mà không đúng lắm?" Tôi hỏi.

"Thiên chân của tôi vẫn như ngày nào, thật là một tiểu lang quân, đi đến đâu bão tố liền nổi lên ở đó."

"Mẹ nhà anh từ khi nào anh lại trở nên lắm lời như thế." Tôi nổi giận, "Điện thoại công cộng đắt lắm đấy, anh không thể nói chuyện đàng hoàng được à? Đừng nói chuyện cà kê nữa."

"Tuyệt đối không phải chuyện phiếm nha, Bàn Gia tôi đã lâu không được gặp thằng nhỏ cậu, quả thực là có căn cứ đấy, nghe tôi nói này."

"Thằng nhỏ cái nhà anh mới là con gà nhép." Tôi mắng. Bàn Tử cười một tiếng mới nói: "Là thế này, cậu trở về từ Nepal, sau đó đi Mặc Thoát đúng không?"

Tôi gật đầu, rồi mới ý thức được anh ta đâu có nhìn thấy, liền đáp: "Đúng vậy."

"Cậu từ Nepal trở về, sao lại đi tới Mặc Thoát? Cậu giống con chim bay từ Nepal qua Mặc Thoát tránh rét à? Cậu làm kinh doanh, trên người cũng chẳng mang đồ gì lớn, hẳn là đi đường bộ vòng qua Mặc Thoát càng thêm thuận lợi hoặc trực tiếp đáp chuyến bay quốc tế từ Nepal trở về không được sao?"

"Tôi chẳng qua không có việc gì làm, thấy nhàm chán, nên muốn qua đó thôi."

"Vậy là có người bảo cậu tới đó phải không? Cậu có biết đi Mặc Thoát là việc hết sức phiền phức. Hơn nữa qua những gì tôi biết, cậu sẽ không có ý tưởng đó trong đầu, cậu trước giờ vẫn mắc chứng sợ đêm dài lắm mộng, đi Mặc Thoát không phù hợp với thói quen làm việc của cậu."

Tôi gật đầu, thầm nói đúng thật, bệnh sợ đêm dài lắm mộng là di chứng sau khi trải qua nhiều chuyện như vậy. Tôi luôn luôn cho rằng đối với một việc một khi tôi ngừng lại hoặc tạm nghỉ ngơi một thời gian thì sẽ có kẻ nhúng tay vào phá hoại. Vì vậy bản thân không còn làm việc tùy hứng, mà đặc biệt theo đuổi hiệu suất cao cùng đi đường tắt.

"Cậu đã bao giờ nghĩ tại sao mình lại đi Mặc Thoát chưa? Nhất định phải có nhiều sự việc xảy ra một cách không nhận thức được đã thúc đẩy cậu đưa ra quyết định này."

Tôi nhớ lại rồi nói: "Đâu có phức tạp như vậy. thật ra là bởi vì khi tôi tới gần biên giới, để trốn thuế nên đã chọn con đường này. Lúc đó người dẫn chúng tôi qua biên giới là một hướng dẫn viên ở Mặc Thoát, kể cho chúng tôi về Mặc Thoát. Sau đó chuyến xe của chúng tôi bị gián đoạn giữa đường, lúc đó chúng tôi rất chật vật, đợi trên đường rất lâu mới bắt được một chiếc xe đến Mặc Thoát. Xe đó chỉ đến Mặc Thoát, không thể đưa chúng tôi đi theo ý muốn được, người ta nói khi có xe khác sẽ báo chúng tôi theo. Dọc đường tôi cùng người hướng dẫn du lịch kia nói chuyện phiếm, cũng không biết thế nào lại quyết định tới Mặc Thoát."

"Cậu nghĩ đây là định mệnh sao? Bàn Tử nghe xong nói: " Hãy thử suy nghĩ lại một chút, làm thế nào mà cậu nhìn thấy bức họa Tiểu Ca?"

Bàn tử nói xong, tôi bỗng nhiên hiểu ra ý anh ta là gì, thầm có chút giật mình, chợt nghe Bàn Tử tiếp: "Trên thế giới không có nhiều chuyện xảy ra trùng hợp như vậy đâu, cho dù Tiểu Ca thực sự ở Mặc Thoát khá lâu, rồi bị người khác nhìn thấy vẽ lại, treo ở nơi cậu có thể nhìn thấy. Cậu nghĩ đây là phim à?" Bàn Tử nói.

"Ý anh là đây là do có người sắp đặt? Đầu tiên dẫn tôi tới Mặc Thoát, sau đó dùng bức họa Tiểu Ca lôi kéo tôi ở lại đây? Đang có một âm mưu gì đó ở đây?"

"Cậu cho rằng mọi sự đã kết thúc nên liền lơi lỏng. Nếu là trước kia, cậu chắc chắn sẽ cẩn thận, không xem nhẹ điểm đó." Trong lúc lòng tôi hết sức căng thẳng, Bàn Tử bỗng nhiên nói, "Thiên chân, chúc mừng cậu nâng lever thành Thiên Chân bình phương, đã thiên chân còn ngây ngô nữa chứ."

"Bớt nói nhảm đi." Tôi cáu, "Anh nói bây giờ nên làm sao? Tôi rời đi luôn sao?"

"Ngàn vạn lần đừng làm vậy. Bên cạnh cậu bây giờ đã xuất hiện người xấu. Cậu như cá mắc quai rồi, kế hoạch của họ đang trên đà thuận lợi, cậu sẽ không gặp nguy hiểm. Nhưng, nếu cậu đột ngột phát hiện ra kế hoạch của họ, khẳng định bọn họ sẽ dùng phương án hai để ép cậu ở lại, đến lúc đó sẽ không được tự do như giờ đâu. Trước hết cứ bình tĩnh, nói địa chỉ cho tôi, tôi sẽ tới nhanh nhất có thể."

"Anh đã quyết định xuống núi rồi sao?"

"Vâng thưa ông "thiên chân cấp độ hai", trước khi ông bị phân thành vài mảnh, tôi phải tới cứu ông cho kịp." Giọng điệu Bàn Tử rất bình thản, "Hơn nữa, việc này tôi cũng không thể tránh khỏi liên quan, hết ông thì có lẽ kế tiếp sẽ là Bàn gia tôi đây."

Trong lòng tôi bỗng cảm thấy ấm áp khôn tả, lời vừa rồi không hề có một chút thản nhiên hay bối rối. Tôi đọc địa chỉ cho anh ta, biết Bàn Tử sẽ tìm cách nhanh nhất để tới nơi này liền buông điện thoại xuống.

Nhìn xung quanh, tôi chợt phát hiện không khí nơi này chẳng thoải mái gì mà ngược lại ám khí dày đặc, không biết do hiệu ứng tâm lí, hay bởi vì lúc trước tôi đã quá mức thả lỏng nên không phát hiện ra.

Uống xong cốc bia, tôi dừng lại giây lát ở ranh giới giữa nóng và lạnh rồi bước ra khỏi phòng, đối đầu với gió rét. Tuy rằng Bàn Tử đã nói vậy, nhưng tôi vẫn phải tới chỗ bưu điện kia nhìn xem chuyện có phải như thế thật không. Hơn nữa không biết vì sao mà tôi lại rất muốn nhìn thấy bức tranh, nhìn Tiểu Ca trong đó.

Nếu đúng như lời Bàn Tử, có kẻ sắp xếp bẫy tôi thì rốt cuộc là vì cái gì? Sự tình đã qua lâu như vậy, tôi không còn tiếp tục theo đuổi , chẳng lẽ có người muốn đẩy tôi đến đáy vực thẳm sao?

Tôi không khỏi cười lạnh, Ngô Tà bây giờ đã không còn là Ngô Tà ngày xưa nữa. Giờ mà còn nghĩ là có thể lừa được tôi, nếu tôi bất cẩn qua loa đã đành, nhưng nếu để tôi phát hiện, thì kẻ kia cũng chẳng sống thoải mái được đâu.

Bước chân vào bưu điện, bên trong vẫn thực bận rộn, đủ mọi hạng người đang tiến hành trao đổi, đóng gói, điền địa chỉ. Tôi thừa cơ không ai để ý lẻn ra sau quầy, người bên trong nhìn thấy tôi, tôi liền đánh tiếng: "Tôi tới trả tiền."

"Tiền gì?" Một kế toán hỏi. Tôi móc ra ba nghìn đồng, nói: "Lần trước còn nợ, anh tra thử đi, có một mẩu giấy trên bàn làm việc của anh."

Anh ta nhận tiền mà vẫn còn thắc mắc, nói: "Tôi chưa từng thấy mẩu giấy nào mà."

"Bình thường không phải anh, là một người khác."

"Là một cô gái?"

Tôi gật đầu đáp: "Chắc là đồng nghiệp của anh, nếu không tin anh gọi điện hỏi xem."

Nhân viên kế toán kia có chút nghi ngờ, liền gọi điện thử. Tôi lập tức giả bộ nhàm chán, đi đến trước bức tường bên kia, nhìn lên bức tranh Tiểu Ca. Bên kia đang bấm điện thoại, thì tôi đã nhấc bức tranh trên tường xuống, nhìn vào chiếc đinh trên đó. Đinh có vẻ rất cũ, trên vách tường đằng sau khung ảnh lồng kính còn in một vết bụi rõ ràng, nó chứng tỏ bức tranh này đã treo ở đây một thời gian dài rồi. Chẳng lẽ chỉ là Bàn Tử quá lo lắng? Tôi thầm nghĩ.

Đặt bức tranh xuống, nhìn qua bên kia còn chưa nói chuyện điện thoại xong, vẫn đang lật giở giấy tờ trên bàn làm việc. Tôi tiện tay lật cả mấy cái khung ảnh và cờ đuôi nheo bên cạnh. Vừa lật ra trong lòng chợt động. Đằng sau bức tranh lồng kính "Bay xa vạn dặm" kia không có vết tích gì, hơn nữa màu sắc của mặt tường rất đều.

Cái này hẳn là chỉ mới treo lên gần đây. Tôi lùi về sau vài bước, thấy người ta vẫn đang gọi điện thoại, lập tức xoay người rời đi. Bước ra tới bên ngoài, gió lạnh lùa vào, đầu tôi đã rõ ràng. Bức tranh Tiểu Ca quá nhỏ, hơn nữa màu sắc không nổi bật, nếu khi đó không chú ý thì có khi sẽ không nhìn thấy. Để cho tôi thấy được, bức tranh kia phải được xuất hiện một cách đột ngột.

Thường thì trong một bưu điện nhỏ, trên tường không hay treo một bức tranh như vậy. Bản thân tôi muốn nhìn tới bức tranh này cũng rất khó khăn. Mà muốn chỉ cần liếc mắt là phát hiện một vật nhỏ như thế cần đặt bên cạnh nó những vật hoàn toàn bất đồng với nó nhưng lại bình thường nhất có thể để làm nổi bật nó.

Trước đây tôi đã nghĩ người ta không thể dùng trăm phương ngàn kế bố trí chi tiết đến như vậy. Nhưng giờ tôi đã hiểu, người muốn mưu hại, khả năng sử dụng những chi tiết có được thực ra nhiều vô số kể.

Hơn nữa cách này quả thực có hiệu quả. Bức tường này được thiết kế kỹ càng tới vậy là để làm cho tôi thấy được bức tranh. Vì sao trên tường có dấu vết? Tôi nghĩ, nhất định là ở đây vốn có một bức tranh, chẳng qua là bức tranh bị đổi nhưng khung tranh lồng kính vẫn tiếp tục sử dụng, cho nên mới trùng khớp như vậy.

Tôi đi nhanh trong gió, đầu liên tục nghĩ biện pháp, ngẫm tới tất cả quá trình đã phát sinh ở đây. Nhờ Bàn Tử nhắc mà giờ suy nghĩ của tôi lập tức rõ ràng, rất nhiều chuyện lúc trước hoàn toàn không nghĩ tới cũng bắt đầu hiển hiện ra trước mắt.

Chuyện cần làm tiếp theo đây cũng bắt đầu hình thành từng bước một trong đầu tôi. Tự trấn an bản thân, giống như mình đang làm một việc rất bình thường. Trước khi Bàn Tử đến, tôi nghĩ tôi có thể phản công ván cờ này, làm cho anh ta nhìn thấy tôi giờ đã không còn là thiên chân trước đây nữa.

Chương 23: Tây Tạng thiên la địa võng

Chuyện đầu tiên tôi làm là cô lập bản thân, do nhớ lại toàn bộ quá trình ở Mặc Thoát, phát hiện chỉ có vài người xung quanh đóng vai trò quan trọng.

Tôi là một người không có chính kiến hay ý tưởng. Buôn bán trong cái cửa hàng nhỏ kia chưa bao giờ tôi chủ động nghĩ ra sáng kiến làm bất cứ điều gì, chắc bởi vì tôi chưa từng quan tâm đến nó. Mặt khác, cái đó cũng liên quan đến tính cách của tôi. Cho nên khi mấy người kia đưa ra ý kiến đi Mặc Thoát, tôi cũng thuận miêng đáp ứng, Lúc đó cũng không suy nghĩ gì nhiều, bởi vì quả thật rất mệt mỏi, cũng không muốn quay lại vùng duyên hải. Hơn nữa phong cảnh nơi này còn khiến tôi lưu luyến.

Rốt cuộc là tên chết tiệt nào khởi xướng, giờ tôi không còn nhớ nữa. Tôi quyết định duy trì khoảng cách với họ, tuy rằng những người này là phụ tá đắc lực của tôi, nhưng nếu những phụ tá này đã bị người ngoài mua chuộc thì để bên mình cũng giống như quả bom hẹn giờ. Đêm đó tôi không quay lại ngôi miếu mà đi lang thang ở Mặc Thoát, nhưng cũng không phát hiện có ai theo dõi.

Tuy nhiên, nơi này cũng không phải dễ dàng ra vào, cho nên việc này chẳng mấy ý nghĩa. Nếu họ buộc phải khống chế tôi thì chỉ cần sắp xếp người ở chặn ở trên đường. Người như tôi ở đây khá nổi bật. Mãi đến khi bầu trời tối đen, tôi mới quyết định bước vào một khách sạn, đặt một phòng để nghỉ ngơi. Sau đó, gọi người phục vụ, bảo anh ta mua giúp tôi vài món: găng tay cao su, một ít móc treo quần áo, dây thun, bốn cái bật lửa, hai bao thuốc tốt nhất có thể mua được ở Mặc Thoát, băng dính, kẹo cao su, mì ăn liền, đinh sắt lớn. Buổi tối, tôi đem toàn bộ dây thun giấu dưới thắt lưng, còn nửa gói thuốc lá bỏ vào kẽ hở dưới giường của khách sạn.

Sáng ngày hôm sau, tôi mang đống đồ về Miếu lạt ma, làm bộ chẳng có việc gì xảy ra, quay lại phòng mình. Vừa bước vào tôi liền đóng mọi cửa sổ, nhổ vài sợi tóc gắn vào băng dính, rồi dán băng dính lên các ngóc ngách trên cửa, dùng quần áo vào dây thun làm thành một chiếc cung.

Từ những gì nhìn thấy ở bưu điện, người giăng bẫy tôi khẳng định hết sức cao tay, chắc cũng chẳng phải dạng quê mùa gì. Cho nên, bọn họ nhất định sẽ dùng tới các thiết bị công nghệ cao để giám sát tôi, có lẽ trong phòng này cũng có một số thiết bị, mọi hành vi của tôi bọn họ đều đã thấy. Đầu tiên tôi sẽ thử nghiệm, tôi rốt cuộc bị theo dõi và khống chế chu đáo đến mức nào.

Tôi đi ra khỏi phòng, bọn họ nhất định không thể giám sát toàn bộ miếu lạt ma. Tôi bắt đầu đi quanh miếu, xác định trong phạm vi ngắn xung quanh không có ai, liền bắt đầu quan sát địa hình, đem tất cả mọi thứ trong người giấu ở nhiều góc phòng của miếu lạt ma. Tiếp theo tôi trở lại phòng mình, kiểm tra một lượt tóc trên cửa sổ, phát hiện vẫn còn nguyên. Không ai leo vào từ đó, nhưng tạm thời chưa thể nói lên được điều gì.

Tôi tiếp tục xem bút kí của Tiểu Ca, mãi đến tối mới ra khỏi cửa, chào hỏi một số người rồi đi ăn cơm. Vừa lúc đó liền thấy đám người Hương Cảng kia đang cùng mấy phu khuân vác hút thuốc ở cửa. Thuốc bọn họ hút chính là loại tốt nhất Mặc Thoát, ngày hôm qua tôi cũng đã mua. Nhìn vào đám người Hương Cảng và mấy phu khuân vác, tôi biết rằng cái bẫy đầu tiên của mình đã hiệu quả.

Trên đường phố Mặc Thoát, muốn đi theo tôi là việc không dễ dàng bởi vì không phải dân bản địa sẽ dễ bị phát hiện. Phu khuân vác ở đây lại thích hút thuốc, tôi ở khách sạn đã cố tình bỏ lại nửa bao, nếu bọn họ là dân không chuyên, nhất định sẽ nhặt lên hút.Tôi bình thản ngồi xuống bên cạnh đám người Hương Cảng. Bọn họ cũng chẳng biểu hiện gì khác thường, vẫn tự nhiên nói chuyện phiếm. Ở đây, trạng thái mỗi người đều rất tự nhiên, cho nên tôi ngồi ăn cạnh bọn họ, nghe xem họ đang nói chuyện gì.

Nói chuyện phiếm bằng tiếng Quảng Đông vô cùng khó nghe, rất nhanh sau đó tôi phải từ bỏ. Nhưng trong khoảng thời gian này, lần đầu tiên tôi quan sát kĩ từng người trong số họ. Ngay lúc ấy tôi liền cảm thấy xấu hổ về sự sơ xuất bản thân. Đám người kia có ít nhất ba kẻ thân thủ khẳng định không tồi, có dấu hiệu từng được trải qua huấn luyện chuyên nghiệp, hơn nữa cả đám ai nấy đều cường tráng, vạm vỡ. Với một đoàn du lịch bình thường, nhất định sẽ có người thân thể đặc biệt tốt, cũng có những kẻ đặc biệt thích trải nghiệm cuộc sống, nhưng tố chất thể lực của những người Hương Cảng này nhìn qua tốt hơn bình thường hơi bị nhiều.

Một lần nữa, tôi chăm chú nhìn đám người đó, phát hiện trong ba người tôi đoán thân thủ không tệ có một người là nữ nhân. Sau khi cô ta đi lại mới phát hiện có đường cong nữ tính, nhưng khuôn mặt vẫn che đi bởi lớp quần áo. Tôi đốt một điếu thuốc đi sang chỗ cô ấy. Trong một đội, người có thân thủ tốt ngược lại địa vị thường không cao, mà tôi tiếp cận một cô gái như vậy cũng không thể khiến nhiều người hoài nghi.

"Mỹ nhân." Tôi đi đến cạnh cô ta, cười nói, "tôi có mì ăn liền, cô ăn chán những thứ kia rồi có muốn làm nột bát không?"

Cô gái kia ngẩng đầu nhìn tôi, nhìn tay rồi quay lên nhìn mặt, bỗng nhiên đưa tay trái rút điếu thuốc từ trong ngươiệng tôi đưa lên ngươiệng mình, nói: "Quên đi, điếu thuốc này lão nương sẽ vui lòng nhận." Tôi sửng sốt một chút, người đàn ông bên cạnh cô ta liền mỉm cười. Sau khi đã lấy lại bình tĩnh, tôi cảm thấy không thể khúm núm trước đòn phủ đầu này, nói: "Tôi tên Ngô Tà, mĩ nhân tên gì vậy?"

Cô gái liếc tôi, nhổ điếu thuốc trên ngươiệng xuống đất: "Ta hối hận rồi đấy, điếu thuốc này không nên nhận mới phải, trả cho ngươi. Mau cút đi."

Cuộc đời tôi chưa từng thảm hại như vậy, tuy nhiên nếu là trước đây gặp loại chuyện này tôi sẽ tìm một cái lỗ mà chui đầu xuống - nhưng hiện tại tôi chỉ nghĩ nó khá thú vị.

Sau khi cô ta ném điếu thuốc đi, nhìn qua đã thấy nhiều kẻ xem náo nhiệt, tôi liền nhún vai, bọn họ lập tức cười lớn hơn nữa. Tôi hỏi một người trong đám đó: "Cô ấy tên là gì?" "Tôi cũng chẳng dám nói cho anh biết." Hắn đáp. Lập tức mọi người lại cười rộ. Tôi cũng cười theo, thầm nói nếu các người đang tính kế với tôi, tôi sẽ cho các người cười không nổi. Sau đó xoay người nhặt điếu thuốc dưới đất lên tiếp tục hút, rời khỏi đám người kia.

Tôi làm những việc kia mục đích rất đơn giản. Đó là do trong vài năm tự mình buôn bán đã tự lần mò ra cách mà có lẽ cũng chỉ có duy nhất tôi là người phù hợp, vì tôi vốn là người hay để ý đến tiểu tiết. Trước kia việc buôn bán của chú Ba là một hệ thống tập trung, lấy uy tín của chú quản lí toàn bộ dây chuyền. Mà tôi thì chắc chắn ko hợp với kiểu cách này, bởi vì bản thân khó có thể đặc biệt kiên nhẫn được với thuộc hạ, cũng không thể làm những việc tàn nhẫn và cứng rắn.

Tôi thích tất cả mọi người hòa hảo, tự lo kiếm tiền mình, sau đó sống trong yên bình với nhau. Vì vậy thủ hạ của tôi cũng gọi tôi là "Ngô tiểu Phật gia". Danh hiệu này xuất phát từ một câu cửa ngươiệng của tôi "A di đà phật, buông đao gác kiếm, kiếm tiền thành Phật", cái biệt danh này cùng với Trương Đại Phật Gia không có liên quan gì cả, nhưng khi tôi nghe thường cảm thấy đây là một điềm xấu. Tôi không thích tranh cãi, không có nghĩa tôi không biết tranh cãi. Tôi có cách riêng của mình, ví như là một lần phải đi nói chuyện với mười vị khách, gửi đi hơn mười kiện hàng. Bên này còn phải đàm phán một lúc nữa, trong khi bên kia đã bắt đầu bán. Vì thế mà người khác không thể nào cạnh tranh với tôi. Bởi vì đối với họ mà nói, các chi tiết và lượng thông tin quá nhiều, căn bản không biết tôi đang làm gì. Bọn họ cho dù có thể cướp đi của tôi một số thỏa thuận kinh doanh, nhưng những cái khác nhất định phải bỏ qua. Nhưng tôi đang nói đến các đơn hàng, từng chi tiết, tôi muốn bản thân là người nắm chuôi, rõ ràng thông suốt nhất.

Nếu muốn đối thủ lộ ra dấu vết, biện pháp tốt nhất chính là một lần tung ra vô số chiêu. Tôi giả thiết rằng có kẻ giăng bẫy tôi tới đây, hơn nữa còn bám đuôi tới tận Miếu lạt ma. Như vậy, người này nhất định có mục đích quan trọng, bọn họ bắt buộc phải theo dõi tôi. Như vậy một vài hành động khả nghi của tôi cũng có thể khiến họ chú ý. Ví dụ như, sau khi tôi xuống núi liền vào khách sạn nghỉ một đêm. Hoặc là tôi ở một phòng mà cửa sổ đều được dán băng dính tóc. Hay tôi đem đồ giấu trong Miếu lạt ma. Cũng có thể là khi không tôi bỗng nhiên làm một cái cung trong phòng mình. Rồi tôi đột nhiên đến gần nữ nhân trong đội bọn họ.

Tất cả hành động đó đều vô cùng là quỷ dị, nếu bọn họ đều theo dõi được hết, nhất định sẽ cảm thấy tôi đang âm mưu cái gì đó. Hành động suy đoán như này thật sự rất có tính tra tấn người khác, tôi trước kia có hay rơi vào vòng luẩn quẩn đó. Bọn họ nhất định sẽ tới thăm dò những nơi tôi từng đến, cho nên tôi để lại thuốc lá trong khách sạn, trong miếu cũng lưu lại một vài đồ vật. Ở những nơi chỉ cần có người đến thăm dò, nhất định sẽ để lại dấu vết. Đồng thời, hành động dán băng dính tóc cũng tạm thời gây trở ngại phần nào tới hành động của họ, ít nhất họ sẽ không thể dễ dàng đột nhập vào phòng của tôi. Hơn nữa, làm vậy cũng nhắc nhở họ, tôi dường như đã biết cái gì đó, họ chắc chắn càng phải cẩn trọng hơn. Tôi thích kế sách phủ vải lên mũi đinh như này, chỉ cần xung quanh tôi có cái gì ẩn nấp, thì nhất định sớm muộn sẽ giẫm phải đinh thôi. Đáng thương chính là thứ kia vẫn không thể trở mặt với tôi, hiện tại họ chỉ có thể đứng cạnh tôi mà nhìn vào.

Cục diện mà họ gặp phải chính là: tôi dường như đã biết cái chuyện gì rồi cho nên bọn họ phải làm việc vô cùng cẩn thận, nhưng tôi lại càng làm ra những việc kì quái, họ càng phải lần theo thăm dò.

Trở lại gian phòng của mình, tôi không tiếp tục đọc, mà tắt đèn, sau đó trèo lên giường trong bóng tối, chuẩn bị đi ngủ.

Tôi cũng từng theo dõi người khác, biết rằng việc làm cho kẻ theo dõi ghét nhất chính là cả đêm vô sự, năm sáu giờ sáng mới bắt đầu hoạt động. Khi đó kẻ ấy tối đã canh mệt, ban ngày sẽ dễ phạm phải sai lầm.

Vì thế tối nay tôi nhất định phải ngủ cho tốt.

CHƯƠNG 24 : Chi tiết gây kinh ngạc

Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, có lẽ lên núi quá mệt mỏi hoặc cũng có thể vì cân nhắc những chuyện xấu làm tôi tốn nhiều năng lượng.
Đồng hồ đặt năm giờ đánh thức tôi dậy. Cố gắng nhấc mình lên, bên ngoài trời vẫn còn là một tối mờ mịt. Hít đất vài cái làm bản thân tỉnh táo, sau đó đeo thắt lưng đi ra ngoài. Trong sân chẳng có động tĩnh gì, toàn bộ ngôi miếu im lặng như đáy vực sâu. Tôi ngậm điếu thuốc, đeo bao tay, lẫn vào bóng tối trong miếu. Nơi đầu tiên đi tới, tôi giấu từ trước bốn chiếc bật lửa, bề ngoài chúng đều giống nhau như đúc, tôi đặt theo thứ tự phía sau một tường đá, chỉ mình tôi biết ở đó có một ký hiệu vô cùng nhỏ. Tôi gỡ một chiếc bật lửa ra, trình tự lúc trước đúng là thay đổi, đối phương không thể biết được mẹo nhỏ này của tôi. Quả nhiên có người đang theo dõi, đáng tiếc tôi chẳng có cảm giác gì rằng đối phương là một cao thủ

. Vị trí thứ hai là nơi đặt súng cao su, đó là chỗ để một đống tạp vật trên xà nhà, trên đó vẫn tối đen. Giờ dù tôi có nhảy lên cũng không tới, muốn với tới đó phải leo lên hoặc dùng đồ vật để kê bên dưới chân. Nơi này có nhiều đồ có thể dùng để kê chân, tôi liếc mắt một cái đã thấy chúng không còn xếp theo thứ tự lúc trước tôi ghi nhớ. Ngồi xổm xuống thì thấy một cái bình có dấu vân tay, đem bình lộn ngược lại thì phát hiện nó từng bị người khác giẫm lên dưới đáy có một dấu chân mờ mờ. Nhưng người này hiển nhiên không muốn lưu lại dấu vết nên đã lấy tay chùi qua một lượt.

Tôi xem xét các vật khác, nhưng không có dấu vết từng bị giẫm lên, không khỏi có chút giật mình. Chiếc bình này cũng không cao, tôi cao 1m81, sau khi giẫm lên rồi có nhảy nữa thì cũng chẳng với tới cây cung, mà chỗ này chỉ có chiếc bình này bị sử dụng. Nơi này chứa nhiều đồ linh tinh. Không gian cũng chật chội, cho dù có là một người khéo léo nhảy lên, thì chắc chắc phải vương lại nhiều dấu vết hơn. Người này nhất định còn cao hơn cả tôi, nhưng trong đám người Hồng Kông kia tôi chẳng thấy ai cao hơn mình. Toàn bộ Miếu lạt ma, nếu tìm người cao hơn tôi thì chỉ có mấy người Đức.
Bọn họ cũng nhúng tay vào? Chẳng lẽ trong cả ngôi miếu này, chỉ có mình tôi vô tội, những người khác đều có vấn đề? Đến lúc này, lần đầu tiên trong lòng tôi có chút cảm giác sợ hãi, nếu là như vậy thì trong vở kịch này tôi là khán giả duy nhất. Hy vọng sự tình không phát triển theo chiều hướng ấy. Tôi chồng hai chiếc bình lên nhau, giẫm lên cầm cây cung xuống, cẩn thận xem xét một lượt, không thấy có thay đổi gì liền đeo vào sau thắt lưng. Một vài nơi khác tôi không nghĩ cần phải đi lần nữa, vẫn nên giữ một chút thần bí.

Trở về phòng đóng cửa lại, tôi liền dùng bật lửa đốt chỗ mì ăn liền sống rồi bóp vụn thành bột phấn, hòa đều trong nước, nhúng vào bàn chải đánh răng, sau đó, gợt nhẹ lông bàn chải, tạo giọt nước đen li ti bắn vào chiếc bật lửa. Rất nhanh liền thấy được dấu vân tay trên đó, rồi dùng băng dính dán trên mặt thu thập chúng lại. Đêm hôm đó, những người giúp việc tới tìm, tôi liền bảo họ gạt hết việc sang một bên, bản thân lại xuống núi tìm một nơi có điện thoại, truy cập internet rồi quét dấu vân tay gửi cho một người bạn. Tôi cần phải kiểm tra hồ sơ của chủ nhân dấu vân tay này.
Buổi tối, tôi vẫn trở lại khách sạn kia. Người bạn của tôi họ Mao cũng mới qua lại vài năm gần đây, hy vọng hắn có thể cung cấp một vài thông tin có ích. Rất nhanh sau đó, tôi liền nhận được hồi âm, trong điện thư gửi cho tôi, hắn nói trong bảy dấu vân tay tôi cung cấp thì có ba cái giống nhau, có thể là của bốn người khác nhau, hoặc bốn dấu vân tay của cùng một người. Hắn giúp tôi tra số liệu trong kho lưu trữ thì tìm được hồ sơ ghi chép dấu vân tay của một người. Trong bưu kiện cũng có gửi kèm. Vừa kéo ra, trước mắt tôi hiện lên một khuôn mặt ảm đạm.
Tôi có chút kinh ngạc, nhưng tôi lập tức ý thức được mình đã từng thấy khuôn mặt này. Con mẹ nó chứ, là cô gái kia, chính là người nhổ điếu thuốc lá của tôi hôm nọ. "Tiểu thư, thì ra là cô." Tôi lầu bầu một câu, phía dưới ảnh chụp là hồ sơ của cô ta. Cô ta họ Trương, nhưng trong bản ghi chép không thấy tên.
Hóa ra là người nhà của Tiểu Ca. Tiếp tục đọc, tôi phát hiện người này vào năm 1998 từng bị phán ba năm tù vì tội cố ý gây thương tích cho người khuyết tật. Tội danh và nghề nghiệp của cô ta khá khác biệt, lúc ấy cô ta đang là huấn luyện viên trong một cơ sở đào tạo.
Xem ra, thời điểm tôi giấu đồ trong miếu, theo đuổi tôi chính là cô ta, nhưng không rõ hiện tại có còn phải hay không. Năm 2001 cô ta ra tù, bản ghi chép không đề cập tới, nhưng tôi không phải là không có cách. Tôi thấy được số điện thoại của cơ sở đào tạo nơi cô ta làm việc, sau một hồi tìm tòi thì mò được trang web địa chỉ. Đó là một trung tâm huấn luyện thể thao ngoài trời ở Hong Kong, trong trang giới thiệu giảng viên, tôi thấy rất nhiều khuôn mặt quen thuộc. Những gương mặt này tôi đều từng nhìn qua trong Miếu lạt ma. Trong trang web của cái trung tâm mà giảng viên đều có mặt trong Miếu lạt ma ấy, tôi còn nhìn thấy ảnh chụp của cô gái họ Trương kia.

Có vẻ như sau khi ra tù, cô ta lại về đơn vị cũ làm việc, trung tâm này vẫn còn muốn thuê cô ta? Kia rốt cuộc là cái loại trung tâm huấn luyện gì, chuyên môn đào tạo những người đáng sợ để ứng phó với tôi sao? "Đội huấn luyện ứng phó Ngô Tà", đào tạo ra những người chuyên trị Ngô Tà?
Sau đó tôi liền phát hiện một chi tiết kinh người. Các gương mặt trên trang này, 80% huấn luyện viên đều là người họ Trương, đọc qua mà thấy họ Trương dày đặc. Trong lòng tôi khẽ động, một ý niệm không ổn chợt nảy sinh. Nhớ tới đám người đó, liền phát hiện, tôi cũng không nhìn tới tay của họ, đám người Hong Kong này lúc nào cũng đeo găng tay, chưa từng thấy cởi ra..

Mạng của khách sạn vô cùng chậm, mãi mới mở được trang, trong lòng tôi dần trở nên lo lắng. Nhưng không rõ từ khi nào lại bình tĩnh lạ thường, bình tĩnh đến mức tự tôi cũng sợ hãi, vì hoàn cảnh nguy hiểm như này mà tôi cũng dửng dưng. Những năm tháng bi kịch nhất của tôi, ngay cả phí điện nước cũng trả không nổi. Hiện tại đã tốt hơn nhiều, cho nên cùng lắm là trở về thời điểm kia, thất bại gì tôi cũng đều có thể chấp nhận. Mà những việc nguy hiểm đến tính mạng tôi cũng sẽ không làm, vì thế cứ từ từ mà sống. Duy chỉ có thấy tin tức như thế này, tin tức liên quan đến những bí mật trước kia, mới khiến tôi phải lo nghĩ.

Tên những người này càng xem càng rối. Người Hong Kong đa số đều dùng tên tiếng Anh, cho nên trên trang này đại bộ phận đầu là tên tiếng Anh, phía dưới là tiếng Trung bằng chữ phồn thể. Dường như tất cả tên gọi đều có ba chữ, Trương XX, trong đó có một người là Trương Long Thăng. Bên cạnh là một người cùng tuổi tên là Trương Long Bán. Họ cùng thế hệ trong gia tộc. "Mẹ nó, sào huyệt của của Trương gia, người nhà Tiểu Ca đến tìm anh ta sao?" Tôi sờ sờ mặt mình. Gia tộc của Tiểu Ca rất lớn, chẳng lẽ họ có cả thế lực ở Hong Kong? Nhưng xem ra họ ở đó cũng chị là hạng bình thường, toàn bộ gia tộc đều làm huấn luyện viên. Vậy nhóm của họ giăng bẫy tôi làm gì? Chẳng lẽ họ tìm không được Tiểu Ca, liền đem sự tình đổ lên đầu tôi?

Nhưng như thế cũng đâu cần giăng bẫy tôi, gặp tôi không được sao? Nếu muốn hỏi về hành tung của Tiểu Ca, tôi khẳng định sẽ nói thật với họ, nếu không tin thì có thể kéo tôi theo cùng cơ mà. Trong đầu tôi loạn thành một mớ, nếu họ là người cùng nhà với Tiểu Ca, là bạn bè, nhưng là địch hay là bạn cũng thực khó nói, thì tôi đâu cần dùng mấy chiêu ấy. Cả đám đều đeo găng tay, nếu ngón tay của họ giống như Tiểu ca, thì có phải nhóm người này đều thân thủ bất phàm hay không? Nếu thật vậy tôi đây cũng chẳng thể tiếp tục đùa giỡn âm mưu quỷ kế gì, cứ quỳ xuống đầu hàng mặc cho họ điều khiển luôn. Cho dù tôi có đấu cũng chẳng lại được họ.

Lo nghĩ một hồi, tôi cảm thấy phát hiện này vô cùng quan trọng, muốn ngay lập tức báo cho Bàn Tử. Vì thế suốt đêm gọi điện, nhưng Ba Nãi không ai nghe máy. Nhìn thời gian cũng đã quá khuya, đành để ngày mai gọi. Chung quy mà nói, kế hoạch của tôi tiến hành tương đối thuận lợi, không khỏi có chút đắc ý. Tôi chẳng biết người khác nghĩ gì, nhưng chỉ trong một ngày, mà học được một số chuyện rất hữu ích.
Mặt khác, nguyên nhân thứ hai tôi cảm thấy người trong gia tộc Tiểu Ca sẽ không làm hại tôi. Tôi đi đến nhà vệ sinh công cộng của khách sạn, ngồi thụp xuống hút thuốc rồi cân nhắc kế tiếp nên làm gì. Tôi không biết mục đích của bọn họ, hiện tại cũng đoán không ra, bọn họ dường như chỉ muốn theo dõi tôi. Vì cái gì? Tình huống như nào mà người ta cần theo dõi một ai đó? Tôi bỗng nhiên nghĩ tới băng ghi hình theo dõi Hoắc Linh. Theo dõi theo dõi, một suy nghĩ lóe lên trong đầu tôi, lẽ nào, bọn họ cho rằng, tôi không phải Ngô Tà? Tôi biết, trên đời này còn có một người giống tôi như đúc đang tồn tại, mấy chuyện hắn làm rất quỷ bí, mục đích bất minh. Người Trương gia rốt cuộc phán đoán tôi là thật hay cái hàng giả kia là mới là thật? Tôi đột nhiên cảm thấy rất hợp lý, lập tức nghĩ đến đi chứng minh bản thân. Nhưng vừa ngẫm lại thấy làm gì có kẻ trộm nào thừa nhận mình là đi ăn trộm? Hơn nữa nếu phân biệt dễ dàng như thế, những người Hong Kong này cũng sẽ không dùng phương pháp phức tạp như vậy. Nếu như bọn họ nghĩ tôi là giả, có phải sẽ giết không lưu tình hay không? Bỗng nhiên tôi có áp lực rất lớn với chuyện này, thầm nghĩ biểu hiện của tôi càng phải giống Ngô Tà mới được. Nhưng nếu như tôi đoán đúng, chí ít bọn họ và đồ giả kia không phải cùng một phe. Theo lý mà nói, bọn họ hẳn sẽ thích đồ thật hơn, vì thế tôi nên để cho bọn họ biết tôi là thật hay là bọn họ sẽ tiến hành thử tôi? Nhưng phải chứng minh như thế nào đây?
Tôi chợt phát hiện, thật ra trong triết học, con người rất khó tự chứng minh bản thân. Tôi thở dài một tiếng, cảm thấy không có tâm trạng đi vệ sinh, hơn nữa khí metan trong nhà vệ sinh thực sự quá thối. Cố gắng rặn mấy cái xong rồi tôi chỉ muốn xách quần rời đi. Khi ngẩng đầu, bỗng nhiên thấy trên cửa wc có người dùng thứ vô cùng kinh tởm gì đó vẽ bậy. Hình vẽ đó màu vàng, chẳng lẽ là phân? Con mẹ nó, ai mà tâm tình tốt như vậy,thời gian đi vệ sinh đem phân vẽ lung tung trên cửa, thật là kinh tởm.
Tôi có chút buồn nôn, cẩn thận đứng lên vì sợ đụng phải. Nhưng vì thế mà tôi lại phát hiện ra, bức tranh bằng bẩn bựa này là một thứ tôi rất quen thuộc. Đây là bản đồ Tháp Mộc Đà, tôi đã từng thấy trên máy tính xách tay. Ở bên cạnh bức vẽ là con số 104. 104 là số phòng nghỉ ở đây, tôi ngẩn người, thầm nghĩ đây là chuyện quái gì?

CHƯƠNG 25: Ám hiệu không biết đến từ đâu

Chẳng lẽ trước đây cũng có một đồng đạo cũng bị bức vẽ này làm nghi hoặc, sau đó ngồi lại đây, vừa bị táo bón vừa chất chứa đầy phiền muộn trong lòng, dùng chất thải vẽ loạn trên cửa để giải nỗi sầu tịch mịch cô liêu.
104 là có ý gì? Số phòng? Chẳng lẽ, đây là một gợi ý, có người muốn tôi chú ý đến số phòng 104? Gian phòng này cách phòng tôi khoảng bốn, năm phòng, tôi chợt thấy đây thực sự là một gợi ý. Mọi việc lúc càng thú vị, tới cuối cùng việc gì sẽ xảy đến với tôi?

Tôi đứng dậy dội nước, hăng hái ra khỏi nhà vệ sinh, quyết định không cần cân nhắc, lập tức đi tới phòng 104. Rất nhanh, tôi thấy cửa phòng không đóng, có người cởi trần ở trong phòng dùng khăn rửa mặt lau người, vừa lau vừa hát: "Muội muội, em đi phía trước. Ca ca ở trong phòng chờ. Yêu thương ân ái, đừng để cho người khác thấy." Tôi nhìn bụng người đó thấy có nhiều vết sẹo nhìn như bàn cờ, râu tóc dài lòe xòe, nhìn qua vô cùng lôi thôi, trên người đặc một khối mỡ. Bàn Tử?

Tôi kinh ngạc, nhưng theo quán tính liền đi qua cửa phòng 104, thẳng đường đi xuống lầu, vừa đi vừa nghĩ: người đó chính là Bàn Tử. Sao Bàn Tử có thể tới nhanh như vậy, trong cái thời tiết này đi từ vùng hoang dã kia đến vùng hoang dã này, sao có thể nhanh thế được. Hơn nữa đây là Mặc Thoát, tiến vào nơi này còn khó hơn vào Thập Vạn Đại Sơn. Nhưng dường như Bàn tử không muốn để lộ rằng tôi và anh ta có quen biết, nên không đi tìm tôi, mà chỉ để lại dấu hiệu trong nhà cầu, hơn nữa khi nãy còn mở cửa ca hát để ám chỉ tôi. Bước xuống lầu, tôi cũng không rõ mình muốn làm gì, liền tìm một nơi bắt đầu hút thuốc. Bỗng nhiên nhìn thấy Bàn tử người rỏ nước đi từ trên xuống, gọi với xuống dưới: "Bà chủ, không có nước ấm, mang hai thùng nước ấm lên đi." Phía dưới bà chủ người dân tộc Môn Ba vâng một tiếng rồi sai người mang nước nóng lên. Bàn tử còn nói tiếp: " Nhanh lên, đừng để tôi tiêu chảy. Đến cái chỗ quỷ quái của mấy người, cứ sáng ra đúng bảy giờ lại bị đi ngoài, đồ ăn của nhà này có phải không sạch sẽ không hả?" "Không có, ông chủ, tuyệt đối sạch sẽ. Ngài có phải là không quen ăn những thứ đó hay không?"
Tôi đốt điếu thuốc, không thể nhịn cười, sáng ra đúng bảy giờ lại bị đi ngoài. Được rồi, bảy giờ mười lăm tôi liền theo anh đi tiêu chảy.
Ngày hôm sau tới giờ hẹn, tôi đi vào wc, ngoài thứ mùi tanh tưởi rất mới bên ngoài, tôi thấy trên mặt sau cánh cửa có nhiều thứ rất ghê tởm dán vào giấy vệ sinh, phía trên viết nhiều chữ. Cẩn thận kéo xuống dưới, lòng nói quả thật tiêu chảy, Bàn Tử này đúng là rất lắm chuyện. Trên đó viết khá nhiều thông tin, tôi xem liền hiểu được hết.
Ba tuần trước Bàn Tử đã phát hiện điện thoại của gia đình A Qúy bị nghe trộm, nhưng án binh ở trong thôn lại không phát hiện có kẻ muốn theo dõi mình. Anh ta liền ý thức được, mục tiêu nghe trộm không phải là anh ta, mà là người mỗi tuần đều gọi cho anh ta - tôi. Cho nên, anh ta sắp đặt mọi thứ, dặn trước A Quý mỗi lần tôi gọi điện tới, A Quý thoạt đầu sẽ không nghe, mà chuyển cuộc gọi tới di dộng của Bàn Tử, làm cho tôi tưởng anh ta vẫn còn ở Quảng Tây. Nhưng trên thực tế thì đã sớm rời khỏi đó, đang chuẩn bị bí mật tới Hàng Châu tìm tôi. Kết quả là sau khi anh ta đi Hàng Châu mới phát hiện tôi đang ở Nepal, liền định chờ tôi trở về.

Mãi cho đến khi tôi đi Mặc Thoát, liền đợi tiếp một thời gian rồi mới rời Hàng Châu tới đây. Sau cuộc điện thoại cuối cùng, anh ta đã ở quanh vùng Lâm Chi, rồi lập tức liền tới Mặc Thoát. Tới nơi rồi, cũng không gặp mặt tôi, mà chờ đợi ở sơn khẩu rồi một đường luôn đi theo tôi. Anh ta nói tôi cứ rời một nơi khoảng ba phút là kẻ theo dõi xuất hiện.
Đều là dân bản xứ nên kinh nghiệm không nhiều, chỉ có thể thông qua sự quen thuộc về địa hình mà họ theo dõi tôi. Bọn họ không hề biết, bọ ngựa bắt ve chim sẻ rình sẵn, Bàn Tử luôn ở gần tôi.
Cũng vì nguyên nhân này mà anh ta không có cách nào liên lạc được với tôi. Anh ta nói, chỉ cần anh ta xuất hiện, nhất định cũng sẽ chung kết cục với tôi vì nơi này chẳng rộng lớn gì. Anh ta sẽ tự mình điều tra xem có thể phát hiện thêm gì không, nhưng lại không nghĩ ra cách liên lạc bí mật với tôi, mà nơi khiến tôi để ý nhiều nhất chỉ có thể là wc.

Tôi ném giấy vệ sinh xuống bồn cầu, trong lòng cũng vững vàng hơn rất nhiều. Bất kể là bản thân có mạnh mẽ cỡ nào, có người bảo vệ và chiếu cố luôn là việc tốt. Sau đó, tôi lại nghĩ đến trong đầu mình có hai chiều suy nghĩ mâu thuẫn với nhau. Theo như trước đây tôi từng thực hiện, lúc này lẽ ra chẳng nên nghĩ ngợi gì, cùng Bàn Tử rời khỏi đây trước rồi nói sau mới phải. Nhưng trong lòng tôi và anh ta đều nghĩ phải biết được rốt cuộc ai là kẻ giăng bẫy chúng tôi, mục đích là gì? Kéo quần, đẩy cửa đi ra ngoài, tôi cảm thấy mọi việc vẫn phải suy xét kĩ hơn. Ván cờ bây giờ mới vừa bắt đầu.

Nhưng vừa đẩy cửa đã thấy hai lạt ma đứng ở cửa nhà cầu. Tôi có chút sửng sốt, hỏi: "Xếp hàng sao?" Lạt ma lắc lắc đầu: "Ngô tiên sinh, đại lạt ma gọi cậu lập tức lên núi." "Có việc gì vậy?" tôi hỏi. "Việc hai mươi năm trước lại xảy lần nữa, có một người đi ra từ trong tuyết sơn." Tôi không nhớ rằng mình đã nói vị trí đang trọ với lạt ma, nhưng cũng không biết có phải lạt ma ở đây thần thông quảng đại hay phải gõ cửa từng nhà tìm người, hiện tại tôi cũng chẳng có thời gian so đo việc đó. Lập tức theo bọn họ lên núi, đi vào Miếu lạt ma, tôi mới phát hiện tất cả đều là một đống lộn xộn. Mọi người đều đáng ngờ, họ bận bịu không rõ là làm việc gì, nơi này giống như biến thành một cái bệnh viện dã chiến. Nhóm lạt ma đưa tôi thẳng tới phòng riêng của đại lạt ma, tôi phát hiện trong phòng còn có thêm một người.
Người này đưa lưng về phía tôi, mặc một chiếc áo choàng, lặng lẽ uống trà bơ. Tôi cảm thấy trong không khí có một chút tế nhị, bởi vì tôi vừa bước vào phòng, vài lạt ma trong đó đều dùng một ánh mắt hết sức kì dị nhìn tôi. Không thể nói là ánh mắt kì dị, mà đúng ra bọn họ cảm thấy tôi thực kì dị. Loại không khí này làm tôi kết sức không thoải mái, bước tới ngồi cạnh người kia, đưa mắt nhìn sang. Ngay lập tức, tôi dường như bật ngay ra khỏi chỗ ngồi, cả người nhảy dựng lên. Trong đầu tôi ong ong, dường như vừa bị dọa cho suýt ngất. Ngồi phía đối diện lạt ma, không phải là ai khác mà chính là tôi.

Không, đầu óc tôi rất hỗn loạn có phần nói năng lộn xộn, không phải tôi mà là kẻ giống tôi như đúc. "Là ngươi?" Tôi kinh ngạc. Đối phương nhìn về phía tôi, ánh mắt hết sức thờ ơ, chỉ gật đầu, nói: "Ta biết, cậu sẽ không dễ dàng chết như vậy."

"Ngươi rốt cuộc là ai?" Tôi mắng lớn, "Ngươi là cái thứ yêu quái gì vậy, vì sao lại giả dạng thành ta?"

Nói xong đã muốn xông tới bóp chết hắn, nhưng tên đó lập tức đứng dậy, lui về sau vài bước, làm cho đợt tấn công của tôi thất bại. Tiếp theo hắn khoát tay áo: "Chúng ta hiện tại không có xung đột về lợi ích, cậu không cần manh động như vậy với tôi."

"Không cần?" Tôi tiếp tục mắng lớn, "Mẹ ngươi không cần, chó má, nếu ngươi là ta, ngươi có thể không manh động không?"

"Ha ha, kì thật, ta chính là cậu, cậu chính là ta." Hắn uống tiếp ngụm trà bơ, "Đây cũng không phải điều tôi muốn, chúng ta đều là người bị hại."

Trong lòng tôi càng ngày càng tức giận, cảm thấy không thể tiếp tục nói lí, chỉ muốn choảng cho hắn một trận ngay tức khắc. Lúc này đại lạt ma bắt đầu lên tiếng. "Hai vị, không cần phải đấu khẩu với nhau, tốt nhất nên giải quyết vấn đề trước mắt của chúng ta đã." Tôi nhìn vào bản thân ở đối diện, rồi nhìn sang đại lạt ma, bỗng nhiên cảm thấy trận này giống như cảnh nào trong "Tây du kí". Đại lạt ma chính là Phật tổ Như Lai, tôi là Tôn Ngộ Không, còn anh ta là Lục Nhĩ Yêu Hầu. Tôi cảnh giác ngồi xuống, tên này trước kia từng muốn dồn tôi vào chỗ chết, tôi tuyệt đối sẽ không rơi vào trạng thái thiếu phòng bị. Cho nên tôi ngồi cách hắn một đoạn xa, hơn nữa bất cứ lúc nào cũng duy trì tư thế đủ để phòng ngự và phản công.

"Rốt cuộc là sao lại thế này?" Tôi hỏi. Đại lạt ma nói: "Vị tiên sinh này giữa trưa hôm nay đột nhiên xuất hiện ở cổng miếu, giống y như chuyện hai mươi năm trước. Anh ta nói với đệ tử của ta, anh ta từ trong tuyết sơn đi ra. Bởi vì anh ta trông giống y như cậu, nên đệ tử của ta tưởng cậu nói đùa. Nhưng sau khi ta tiếp xúc hồi lâu, mới thấy đúng là hai người khác biệt, vì thế ta cho người tìm cậu về đây. Muốn rõ đây là chuyện gì." Ngô Tà giả nói: "Tôi nói chuyện với mấy người này một lúc thì được biết cậu cũng ở đây. Nhưng họ không cho tôi rời đi, tôi nghĩ, rất nhiều việc nên gặp cậu nói rõ ràng sẽ tốt hơn."

"Ngươi từ trong tuyết sơn đi ra?"

Anh ta gật đầu, tôi hỏi: "Ngươi muốn rõ ràng, vậy nói cho ta biết, ngươi là ai? Mục đích là gì?" Anh ta cầm chén trà bơ, không khách khí uống tiếp, nói: "Tôi cho cậu biết chẳng có lợi gì cho cậu." "Ta cũng đã gần như chết rồi, nói cho ta biết." "Đáng tiếc, tôi lại muốn sống, cũng chẳng nể nang gì cậu. Tôi chỉ có thể nói cho cậu biết, chuyện tôi và cậu từng trải qua, tốt nhất không nên lẫn lộn."

Tên đó nói, "Mọi thứ cũng qua rồi, các người cũng đã tự do. Cậu không cần tiếp tục điều tra nữa, không cần hủy hết thành quả đi. Cậu không nên tiếp tục tìm kiếm linh tinh gì nữa, không nên phá hủy kết quả này ."

"Ta không quan tâm, lợn chết không sợ nước sôi, hơn nữa ta cũng chẳng thấy gì là linh tinh cả. Ta ở đây là vì một chuyện phải làm." "Không phải phải tự cậu tìm đến nơi này?" Hắn lộ ra vẻ mặt hơi giật mình. Tôi gật đầu. Hắn buông chén, hỏi: "Vậy sao cậu tới được đây?"
Tôi thầm nghĩ, không biết đáp sao? Chẳng lẽ kể với hắn là có kẻ đưa đẩy tôi tới đây? Tôi có nhất định phải nói ra sự thật không? Vì thế lắc đầu: "Ngươi quan tâm làm gì?" "Cậu không hề biết hoàn cảnh của mình." Tên giả mạo bỗng nhiên đứng dậy, "Nếu không phải cậu tự mình tìm tới đây thì hai chúng ta gặp phiền phức lớn rồi."
Hắn đứng lên rồi nhanh chóng nhìn xung quanh phòng, sau lại hỏi đại lạt ma: "Thượng sư, phòng này còn có cửa khác không?" Đại lạt ma lắc đầu. Tôi đang định hỏi hắn muốn cái gì, thì đột nhiên cửa phòng mở ra, có một vài người từ bên ngoài bước vào.

Là đám người Hong Kong.Cộng cả nhóm lạt ma, trong căn phòng nhỏ tập trung hơn 10 người.Cầm đầu nhóm người Hong Kong, tôi chỉ cần liếc mắt cũng có thể nhận ra, chính là gã trung niên Trương Long Bán. Ngoài ra còn có cô gái họ Trương kia, những người khác tôi không nhớ ra. "Quả nhiên, tiểu tử ngươi đã trúng kế. Cũng vừa hay, đầu óc ngươi không thể phát triển thêm tí nào sao?" Ngô Tà giả thở dài. "Mấy vị này vì sao không mời mà tới?" Đại lạt ma nói. Trương Long Bán không trả lời, chỉ nhìn về phía hai chúng tôi, nói: "Hai vị cũng chẳng cần nhọc công suy nghĩ làm gì, dựa theo thân thủ của hai người, tuyệt đối không có khả năng rời khỏi gian phòng này.

Thật không dễ gì hai người mới tụ lại một chỗ, như vậy nghi vấn của chúng tôi dường như cũng có thể vạch trần." "Ông là?" Tên Ngô Tà giả hỏi, "thần thánh phương nào? Vì sao phải bố trí kế hoạch này để bắt chúng tôi?" "Trước khi quyết định xem cậu có đáng tin hay không, chúng tôi cũng như cậu sẽ không để lộ thông tin." "Ông nghĩ mình thực sự hiểu tôi." Ngô Tà giả nói, "Nhưng các người quá tự phụ rồi." Nói xong, hắn bỗng tới gần tôi, lôi tôi kẹp chặt trong cánh tay, kéo về sau. "Tránh ra, nếu không, mục đích của các người sẽ chẳng thực hiện được đâu."

Trương Long Bán nhìn chúng tôi như nhìn hai kẻ ngốc, ông ta tránh ra một khe hở, phía sau là Trương cô nương kia. Cô ta đưa tay giơ lên thứ gì đó, tôi phát hiện đó chính là súng cao su tôi làm, trong nháy mắt có âm thanh xé gió, Ngô Tà giả ở phía sau tôi cả người chấn động, kéo theo tôi ngã xuống đất. Tôi vội thoát khỏi cánh tay hắn, đứng lên lại thấy tên kia ôm mặt đau đớn cuộn mình lại. Quay đầu lại, thì đã thấy cô ta nhắm súng cao su vào tôi. Tôi lập tức nói: "Dừng tay! Tôi rất biết điều......." Chưa nói xong, đã thấy súng rung lên, tôi ai da một tiếng, ngã xuống đất.

CHƯƠNG 26: Đối đầu với người của Trương gia

Sau khi ngã ra đất, tôi dùng hết sức mình cuộn người lại, muốn giảm bớt sự đau đớn trên trán và mũi. Tiện thể lộn luôn mấy vòng, lại phát hiện hai vị trí này không có cảm giác gì khác biệt, ngược lại là sau khi ngã, mông va xuống sàn nhà còn đau hơn.

Tôi buông tay, nghi ngờ nhìn về phía cô ta. Cô ta đang nhìn tôi như nhìn một phế vật, nói: "Đến đây thôi, dọa ngươi một chút liền thể hiện ngay. Chú Hai, người này khẳng định là thật."

"Chưa chắc, truyền thống của nhà Ngô lão cẩu là tung hỏa mù, cả đám nhìn vào ai cũng là kẻ có thể giao du, kỳ thật trong lòng đang tính toán gì chẳng ai lường được." Trương Long Bán nói.

Tôi nghe họ nói, nằm trên đất làm trò hề có chút xấu hổ, vì thế đứng lên nói: "Tôi thật sự là Ngô Tà, tôi không rõ thế hệ trước nhà tôi đạo đức ra sao, nhưng tôi đúng là phế vật. Không biết Trương Long Bán tiên sinh cố tình đưa tôi đến đây vì cái gì?"

Trương Long Bán nghe xong liền lộ ra vẻ mặt ngạc nhiên, tôi thấy an tâm rất nhiều. Xem ra những kẻ này không giống Tiểu Ca, một chút biểu cảm cũng không bộc lộ. Trương gia không phải sinh ra toàn người mặt liệt.
"Làm sao ngươi biết tên ta?" Anh ta hỏi.

Trong lòng tôi ngầm thích thú. Để khôi phục lại mặt mũi vừa nãy bị bà cô thối kia đùa giỡn, tôi quyết định giả vờ tỏ vẻ như hiểu rõ, nói: "Sự tình tôi biết còn rất nhiều, đừng cho là tôi không biết các người làm chuyện gì ở đây."

Trương Long Bán cũng không còn tiếp tục giật mình. Ở bên cạnh, đại lạt ma bắt đầu nói: "Các vị, mọi người rốt cuộc đang muốn làm gì vậy?"

Trương Long Bán liếc mắt với những kẻ khác, rồi lôi tôi cùng tên đang ngất trên mặt đất ra khỏi phòng đạt lạt ma. Tôi quay đầu nhìn lại, thấy Trương Long Bán ngồi xuống đối diện đại lạt ma, dường như chuẩn bị bắt đầu giải thích, cửa phòng từ từ đóng lại.

Tôi bị lôi tới địa bàn của bọn họ trong Miếu lạt ma. Cả quá trình, hai người chúng tôi đều bị còng tay. Lòng tôi thầm nghĩ không biết kế tiếp sẽ xảy ra chuyện gì? Nghe cách nói của Trương cô nương kia, bọn họ dường như hoài nghi về tính xác thực của hai chúng tôi. Hiện tại đã bắt được cả hai, bọn họ sẽ kiểm chứng như thế nào? Sẽ không chích máu nhận thân đấy chứ?

Tôi thầm nghĩ, có khi nào lão cha tôi cũng đã bị bắt tới trói trong phòng họ rồi đấy chứ? Hay là làm một bài kiểm tra vấn đáp tổng hợp, trước đó đã phỏng vấn rất nhiều bạn bè của tôi góp nhặt các thông tin, sau đó mở một cuộc thi vấn đáp trí lực. Câu hỏi đầu tiên có thể là: khi bạn năm tuổi mẹ bạn tặng bạn món quà gì?

Chó má mà, tôi làm sao mà nhớ được khi năm tuổi mẹ tôi đưa cho cái gì?

Tôi thầm chột dạ, miên man suy nghĩ nhưng không lấy gì làm sợ hãi, tôi vẫn có cảm giác nhóm người này chắc là sẽ không làm hại tôi. Nhưng đúng là tôi sẽ phải chịu chút khổ sở.

Bọn họ kéo cả hai vào phòng ăn, đóng toàn bộ cửa lại. Tôi nhìn thấy Trương Long Bán cũng đã bước tới, tất cả đám người Hong Kong đều tụ tập ở đây.

Hai chúng tôi bị buộc chặt trên ghế, lúc này tên bên cạnh mới bắt đầu tỉnh lại. Hắn rên rỉ vài tiếng, giương mắt mắng ầm lên, nhưng đau nhức ngay lập tức làm hắn phải chun mặt lại. Tên khốn ấy còn nhìn về phía tôi nói: "Ngươi thật ngu ngốc, nhìn xem ngươi đã làm nên chuyện tốt gì đây."

"Chẳng liên quan tới ta. Thứ nhất, ngươi xui xẻo thì ta vui vẻ; thứ hai, họ muốn bắt cả hai chúng ta, ta là tự mình chui vào, ngươi cũng là tự mình chui vào, ngươi có tư cách gì mà mắng ta."

"Nếu không phải tại ngươi mò tới đây, thì con mẹ nó ta có cần chui đầu vào rọ không?"

"Con mẹ nó, ai bắt ngươi giả danh ta? Nếu không phải vì tên giả mạo nhà ngươi, việc này căn bản sẽ không xảy ra."

"Mẹ nó, ai cải trang ngươi? Ai ui!" Hắn mắng được một nửa, tiếng xé gió xẹt qua, cả người cả ghế liền lập nhào xuống đất. Tôi quay đầu vừa thấy, Trương cô nương kia cầm súng của tôi, hung hăng đi tới, nói: "Có im đi không? Còn tiếp tục tranh cãi ta sẽ đánh đến chỗ khác của ngươi."

"Vì cái gì mà cô đánh tôi không đánh tên kia?" Kẻ trên mặt đất mắng to.
"Hai người bộ dạng giống nhau, ai mà phân biệt rõ ràng được."

"Con mẹ nó, các người thật bất công."

Trong lòng tôi cười thầm, cô gái họ Trương kia cũng cười, đi đến bên cạnh thuận tay vỗ vỗ mặt tôi: "Đừng nghĩ là lão nương này lờ đi cho ngươi. Hút của ngươi điếu thuốc lá, lão nương tha ngươi một chút nhân đạo. Các ngươi nếu còn tranh cãi, ta sẽ oánh cả hai."

"Đừng quá thân cận với bọn chúng." Phía sau có người nói, "Hai tên tiểu tử này không đơn giản đâu." Trương Long Bán đi tới, địa vị của ông ta có vẻ khá cao, vài người phía sau đều không nói không rằng bước lùi lại. Ông ta lấy một chiếc ghế rồi ngồi xuống trước mặt chúng tôi, nói: "Ta xem da mặt của hai ngươi, khẳng định trong đó có một kẻ đội mặt nạ. Nhưng thời gian mang mặt nạ đã vượt quá 20 năm, cho nên lớp da và mặt đã hoàn toàn dung hợp lại với nhau. Một trong hai người còn từng trải qua phẫu thuật để tăng thêm thích ứng với mặt nạ. Hơn nữa, vì điều chỉnh chiều cao, hai chân khẳng định đã trải qua phẫu thuật kéo xương."

"Tuy nhiên, tất cả dấu vết phẫu thuật đã bị xóa bỏ, việc này thực hiện cũng đã lâu, ta tin phải cách đây 20 năm hoặc hơn. Nói cách khác, cuộc phẫu thuật đã được thực hiện khoảng 20 năm trước. Hiện tại chúng ta không có thiết bị chuyên dụng, chẳng thể phán đoán các dấu vết giải phẫu. Cho nên, về mặt lí thuyết, nếu không kiểm tra DNA, không có các giám định chuyên nghiệp, thì các ngươi dường như cùng là một.

"Chúng tôi có một tin tức quan trọng muốn nói cho Ngô Tà tiên sinh. Nhưng sau khi bắt đầu tìm kiếm thì phát hiện có hai Ngô Tà cùng hoạt động, một người sau khi đến Mặc Thoát liền biến mất, còn một người thì xuất hiện khắp mọi nơi trong nước. Chúng tôi ngồi chờ ở Mặc Thoát để tìm kiếm Ngô Tà bị mất tích, đồng thời quyết định chọn Mặc Thoát là địa điểm tập kết, dụ người còn lại tới đây. Một khi hai người cùng xuất hiện, chúng tôi hy vọng có thể so sánh để tìm ra Ngô Tà thật sự."

"Hai mươi năm trước làm gì có ai biết được tôi trưởng thành sẽ có bộ dạng ra sao? Tôi hỏi.

"Ngươi lúc đó đã mười mấy tuổi, có thể phỏng đoán 80% dáng vẻ trong tương lai." Trương Long Bán nói, "Được rồi, ta sẽ cho mười lăm phút để các cậu chỉ ra được sự khác biệt, nhưng các cậu sẽ phải nếm mùi khổ sở đấy. Ta sẽ nói rõ ràng, sau khi xác minh được, kẻ giả mạo sẽ bị giết, vì vậy hai người nên dốc hết sức mình mà chứng minh bản thân là thật."

"Chờ một chút." Tên bên cạnh liền lên tiếng, "Mấy người dựa vào đâu mà xác nhận thật giả? Mấy người đâu biết cái gì."

"Rất nhiều người nói với chúng tôi, Ngô Tà là một kẻ vô cùng yếu ớt. Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng, rất nhiều chuyện có thể ngụy tạo được trong thời gian dài.Cho nên, mạnh yếu, trí tuệ đều không thể dùng để xác minh. Trước đây lâu rồi chúng ta chỉ biết, Ngô Tam Tỉnh của Ngô gia có thể đồng thời xuất hiện ở hai nơi cách xa nhau mấy ngàn km. Ta muốn biết, các ngươi giải thích ra sao về việc đó?"

"Ông nghĩ quá nhiều rồi." Tôi nói, "Ngu ngốc nhất mới chính là thật, tôi thực sự rất ngu ngốc, ông làm gì mà phải dựng chuyện như vậy."

"Bởi vì ta không thể dựa vào đó để xác định thật giả, cho nên ta mới cần đem hai ngươi đặt cạnh nhau." Trương Long Bán nói, "Phương pháp của ta các ngươi nghe xong sẽ hiểu ngay. Đừng sợ, nếu là thật, nhất định sẽ không việc gì." Nói xong ông ta nháy mắt ra hiệu.

Bên cạnh đó, Trương cô nương liền lấy ra mấy thứ từ trong bọc, bầy ra trước mặt chúng tôi. Tôi vừa thấy mấy thứ đó, gần như đã muốn tiểu ra quần.

CHƯƠNG 27: Bảy Ngô Tà

Kỳ thật kia cũng không phải dụng cụ tra tấn gì, thứ này bản thân nó không thể tạo ra thương tổn với chúng tôi. Nhưng với những người liên lụy tới việc này, sự uy hiếp quả thật rất lớn.
Tôi quay đầu nhìn người bên cạnh, đối phương cũng lộ rõ vẻ kinh ngạc.
Đây là bảy chiếc đầu người. Cô ta đặt chúng thành một hàng trên bàn trà trước mặt chúng tôi.Đầu người này không quá mới, đã trải qua xử lí, khuôn mặt vàng ởn và có phần bình thản, nhưng đó chính là trạng thái lúc chết. Điều làm cho đầu tôi muốn nổ tung, là bảy người này đều có gương mặt dài.
Kia đều là mặt tôi.
"Đây......Đây là chuyện gì?" Tôi lắp bắp nói, "Vì sao lại có nhiều tôi như vậy?"
"Có nhiều chuyện không phải chỉ một lần là có thể thành công, một bản sao hoàn hảo được tạo ra sao khi trải qua nhiều lần khiếm khuyết. Mà những hàng lỗi thì chẳng cách nào tái tạo lại được, cũng không thể đem vào sử dụng." Trương Long Bán nói, "Vì thế, bọn họ chỉ có thể tồn tại như một tư liệu."
"Những thứ này là..."
"Đây là những con tốt làm nền cho một trong hai ngươi. Trước khi một trong hai trở thành Ngô Tà thì những người này cũng từng biến thành Ngô Tà, nhưng tiếc là vận khí của họ không được tốt."
Tôi nhìn những đầu người kia, vẫn có phần lấy làm khó hiểu: "Nhưng bọn họ đều chết hết. Cho dù có thất bại, cũng không cần phải giết họ chứ."
"Ngươi biết ta họ Trương, cũng có thể đã biết lai lịch của ta. Năm đó, kĩ thuật dịch dung có thành công hay không, không phải chỉ dựa vào khuôn mặt, mà từ thân đến tâm đều phải vô cùng hoàn hảo. Hàng năm trời phải ở tại một nơi để bắt chước một người khác. Tuy nhiên, thời gian quá dài, có vài kẻ trong lòng phát sinh ý định muốn sống mà không muốn tiếp tục sứ mạng của mình, những kẻ như vậy thường trốn ra nước ngoài. Kĩ thuật dịch dung khó có thể duy trì trong thời gian dài được, cho nên việc lừa những người thân quen với người được giả mạo là điều không hề dễ dàng, chỉ có thể thực hiện trong một phạm vi nhất định, vì thế rất nhiều chuyện không thể hoàn thành được."
Trương Long Bán ngừng lại một chút, dường như vuốt tóc trên đầu, lát sau mới nói: "Bọn ta trong một khoảng thời gian, phát hiện trong phạm vi cả nước có ai đó đang tìm kiếm người tên Trương Khởi Linh, vì thế mới bắt đầu tham gia, đồng thời cũng nhận ra một âm mưu khiến người ta bàng hoàng trân trối. Bọn ta đứng ngoài quan sát âm mưu này liền phát hiện sự tình càng ngày càng không thể khống chế. Để đưa mọi chuyện về lại tầm kiểm soát, bọn ta đã âm thầm can thiệp vào một phần, thu được một số kết quả khiến ai nấy đều phải ngạc nhiên."
"Vậy nhóm của ông là người của Trương Đại Phật gia, hay chỉ là người của Trương gia?" Tôi hỏi, kì thật cũng không hoàn toàn hiểu những gì ông ta nói.
"Đã sớm không còn là Trương gia nhân nữa rồi. Tuy nhiên, trước thời điểm của Trương Đại Phật gia, cũng đã không còn thuộc về hệ thống của bọn ta."
Trương Long Bán nói, "Thời kỳ đại lục rối ren, bọn ta đã xây dựng được một hệ thống thương mại quốc tế tại Hong Kong, vận hành nó một cách tương đối hoàn chỉnh ở đây."
"Như vậy những người này, đều do các người giết?"
"Đúng vậy, những tiền bối của bọn ta phụ trách phần lớn trong số đó. Nếu ngươi biết về việc gia tộc của ngươi cũng tham gia vào toàn bộ âm mưu, thì ngươi sẽ phát hiện có rất nhiều nơi lưu lại dấu tích của bọn ta. Kỳ thật bọn ta luôn luôn quan sát các ngươi."

Lúc nói ra câu này, Trương Long Bán toát ra một loại khí thế bình tĩnh có chút ngạo mạn, cảm giác ấy khiến tôi rất khó hình dung. Sau đó tôi nhận ra rằng nó là khí thế phát ra từ bản thân ông ta, thế lực quý tộc. Nhưng không phải kiểu khí thế xa hoa, mà là cảm giác ưu việt thấu triệt mọi sự.
"Chuyện cụ thể ta sẽ nói sau khi phân biệt được hai ngươi, nói cho Ngô Tà thực sự. Bây giờ, chúng ta bắt đầu thôi." Trương Long Bán ra hiệu với Trương cô nương. Cô ấy liền cùng một người khác nhấc bảy chiếc đầu đến gần chúng tôi, nói: "Chỉ có một câu hỏi - các người nhìn kĩ đám đầu người này, nói xem người nào giống với mình nhất."
Tôi cùng tên kia liếc nhìn nhau. Lòng thầm than: sao có thể đoán được? Rốt cuộc có giống hay không, hoàn toàn là mỗi người một ý, hơn nữa đều là gương mặt của tôi chỉ nhìn vào đã đủ hoa cả mắt, căn bản không thể phán đoán.
"Chỉ cần dựa theo cảm nhận là được." Trương Long Bán nói, "Quyền quyếtđịnh là ở ta." Đoán trong 1/7 cơ hội. Đầu óc tôi đau tới mức quả thật không thể nhìn thẳng vào mấy cái đầu người. Ở bên cạnh Ngô Tà giả bèn nói với tôi: "Đừng để bị lừa, bất luận thế nào cũng chẳng phân rõ được đâu. Chúng ta cứ cự tuyệt mới có cơ hội cùng nhau bảo toàn mạng sống."
"Thực ra cũng không phải vậy." Cô gái kia nói, " Đối với bọn ta thì nếu thực sự nhận không được đành phải đánh gãy chân tay các ngươi, đem nhốt lại, để cho các người chết già."
"Tôi không tin các người sẽ làm như vậy." Tôi phản bác, "Chúng ta dù sau cũng không oán chẳng thù."
"Các ngươi còn 10 phút, nếu không các ngươi chỉ có thể dành phần đời còn lại để bò loanh quanh một chỗ." Trương Long Bán không thèm để tâm đến lời nói của tôi.
Tôi vẫn còn chưa hết than thầm thì tên bên cạnh đã liếc tôi một cái rồi nói: "Tôi chọn xong rồi, đưa giấy bút đây tôi viết."
"Mẹ nó." Tôi mắng một tiếng, "Ngươi nói chuyện cũng thật là thúi quá đi."
"Bởi vì tôi tin họ đã làm đến mức này thì cậu cũng nên nhanh chóng chọn đi." Hắn nói. Đầu óc tôi cứ ong ong, nhìn bảy cái đầu bày ra mà hoa hết cả mặt mày. Người nào giống tôi hơn? Tôi thèm vào, nếu chọn sai thì tôi cũng thành cái đầu thứ tám.
Không thể tưởng tượng nổi đầu mình rồi cũng trở thành vật phẩm sưu tầm, hơn nữa còn rất đầy đủ. Tôi nghĩ đến trước đây chơi trò đánh bụi dứa, thầm nguyền rủa: chó má, chính mình giờ đây cũng trở thành nạn nhân trong cái tộc săn đầu này.
"Cậu có chọn không? Sớm chết sớm siêu sinh." Trương cô nương nhìn tôi thúc giục.
Tôi mắng: "Chọn sai thì chẳng phải các người cũng đem đầu tôi phơi nắng hay sao, tôi không thể vô trách nhiệm với đầu mình như vậy."
"Được, vậy tiếp tục suy nghĩ đi." Cô ta nhìn tôi có vẻ cảm thấy rất buồn cười, "Tuy nhiên trong thời điểm quan trọng này, ngươi còn có thể trêu đùa thì cũng coi là có bản lĩnh. Nếu ngươi chọn sai, ta sẽ cho ngươi một cái chết thỏa mãn."
Tôi không để ý đến cô ta, tiếp tục quan sát chiếc đầu. Người nào giống tôi? Người nào giống tôi? Mẹ nó, trông cái nào mà chẳng giống nhau.
Nghĩ đi, nghĩ đi, tôi phải có một ý tưởng, một phương hướng.
Tôi cố buộc bản thân phải suy nghĩ: nhìn vào mặt thì phương diện nào dễ nắm bắt nhất? Là tuổi sao?
Căn bản chẳng còn nhìn ra tuổi được nữa, đã chết thành như vậy còn nhìn sao ra tuổi sao? Tôi đã nghĩ đến không biết trước kia mẹ tôi hình dung diện mạo tôi như thế nào, chắc có thể- không giống như sinh ra mà là bị lôi ra ngoài.
Chết tiệt, mẹ của con à, không còn cái ý kiến mang tính xây dựng nào hơn sao?
"Còn 3 phút."
"Đừng thúc giục, cô giục tôi, tôi phiền lắm." Tôi mắng lên.
"Được rồi, được rồi." Cô ta nói xong liền lui qua một bên.
Tôi nhìn về phía mấy chiếc đầu, đột nhiên nảy sinh một ý tưởng.
Phiền - khi tôi còn học đại học, có một cô gái khi ấy hình như thích tôi đã nói với tôi một câu, nói mặt tôi thực sự rất bình thản, người khác nhìn sẽ không thấy phiền muộn.

CHƯƠNG 28: Lựa chọn khó khăn

Cái nào trong đây nhìn không phiền muộn? Khuôn mặt bình thản nhất...
Tôi nghĩ ngợi, bỗng cảm thấy không đúng. Cô gái ấy cảm thấy gương mặt tôi rất bình thản, có phải vì tôi cứ trơ trơ ra không?

Ngoài ra, cũng rất khó nhận ra trạng thái lúc sắp chết của mấy người này. Nhìn rất tĩnh lặng, rất bình thản, có lẽ do lúc chết đã quá tuyệt vọng, không nhất định là do tính cách nên như vậy.

Tôi lắc đầu biết mình đang lãng phí thời gian. Đâu còn thì giờ để tôi cân nhắc được chăng nữa, chỉ có thể hít sâu nhìn lại một lượt mấy cái đầu người.

Nghe nói trong thời điểm căng thẳng cao trào, não người hoạt động nhanh gấp mười mấy lần bình thường. Một lần này tuy chỉ khoảng 10 giây, nhưng tất cả chi tiết của bảy chiếc đầu đã được sắp xếp trong đầu tôi. Nếu để ý tôi sẽ thấy có một đầu người không nhắm mắt như số còn lại, mà chỉ khép hờ, tôi có thể trông thấy lòng mắt của anh ta.

"Để tôi tiến gần, để tôi tiến gần." Tôi nói. "Cho tôi xem ánh mắt của tất cả mấy cái đầu này."

"Ánh mắt?"

Con mắt không thể dịch dung được. Lòng tôi thầm nghĩ, người giống tôi nhất chắc chắn sẽ có các chi tiết y như tôi, vậy con mắt cũng nhất định là giống.

Tôi từng có thời gian nghiên cứu thuật dịch dung, đọc qua rất nhiều tài liệu, trong đó có một vài phân tích công nhận cách đơn giản nhất để phát hiện dịch dung là quan sát đôi mắt đối phương. Từ độ sâu của ánh mắt, rồi tròng mắt, các tơ máu, đồng tử to hay nhỏ, mỗi người mỗi khác.

Chi tiết của con mắt cần phải trông gần mới thấy được, cho nên nếu không phải người đặc biệt thân thiết thì bình thường sẽ không phát hiện ra. Hơn nữa thực chất ít ai đặc biệt thân thiết với tôi, thậm chí ngay cả tôi cũng không quá quan tâm đến chi tiết con mắt của mình. Trùng hợp là gần đây có đọc một cuốn sách về khía cạnh này nên cũng có từng quan sát mắt mình, lúc này liền thấy có cơ hội.
Bất kể đây có phải là mục đích của đối phương hay không, thì đây cũng là một phương hướng, không đến nỗi làm tôi tuyệt vọng.
Bọn họ mở còng tay cho chúng tôi. Dù sao thời gian cũng sắp cạn, Ngô Tà giả đã viết đáp án ra giấy, tôi bèn mở mí mắt mấy người kia lên, nhìn vào tròng mắt của họ.
Sau khi quan sát tôi mới biết là mình thật ngu ngốc, bởi vì tất cả mắt người chết đều trợn trắng, chỉ có người mắt nhắm hờ kia nhìn thẳng về phía trước, rõ ràng là thời điểm chết không nhắm mắt.
Người chết không nhắm mắt kia có con ngươi không hề giống tôi.
Tôi nhìn Trương Long Bán, hỏi: "Tôi có thể động đến những chiếc đầu đó không?"
"Sao lại muốn động tới chúng? Cậu muốn ăn não khỉ chắc?" Ông ta hỏi.
"Tôi muốn móc mắt của họ ra."
"Bỏ đi, khi xử lí chống phân hủy không thể xử lí được mắt, nên mắt của họ đều thành nhựa cây." Trương Long Bán lắc đầu, "Hơn nữa không còn thời gian, nhanh quyết định đi."
"Chờ một chút. Các người không nghĩ là, nếu các người làm việc này mà nhược điểm của Ngô Tà thật là vào lúc hoảng sợ nhất không thể phát hiện được mà chọn sai, cuối cùng các người sẽ giết nhầm tôi sao?"
"Bọn ta không cần biết." Trương Long Bán không chút chần chừ, "Với việc lựa chọn này, bọn ta tuyệt đối tin tưởng."
"Các người tin tưởng vào tôi đến vậy sao? Tôi hiện tại cũng chẳng có chút tin tưởng nào vào mình."
Lúc này Ngô Tà giả bên cạnh nói: "Ngươi không thể nhanh hơn được à? Không được thì chọn bừa một cái đi. Tranh luận lắm thế làm gì?"
Tôi nhìn mặt anh ta, chọn bừa một trong hai còn chưa chắc, đây lại còn 1chọi 7 xác suất vô cùng nhỏ, chọn bừa cái con mẹ nó.
Chờ một chút, đoán mò?
Tôi nhíu mày, tất cả lời nói lúc rồi văng vẳng bên tai.
"Chúng tôi không quan tâm." Đây là lời Trương Long Bán.
Bọn họ không quan tâm là có ý gì? Không thể nào đi. Nếu họ thực sự muốn tìm Ngô Tà mà tới mức phải quật tung cả nước, thì làm sao lại có chuyện không quan tâm. Nếu như tôi bị tình cảnh này dọa sợ đến tè ra quần, rất có thể sẽ chọn sai, như vậy bọn họ cũng không tìm được Ngô Tà.
Không quan tâm, nhưng lại tin tưởng tuyệt đối vào quyết định của tôi.
Chẳng lẽ mục đích của họ không phải là tôi lựa chọn cái nào trong bảy cái này?
Đây chỉ là một cách ngụy trang, bọn họ thực sự phân biệt thật giả theo những phương diện khác?
Ví như phản ứng của tôi đối với bảy người này mới là cái chính để họ khảo nghiệm, còn bản thân chúng thực chất không có ý nghĩa gì.
Nghĩ đến đây tôi bỗng có cảm giác như bị dội nước vào đầu. Ra là như vậy, chính thế, bố trí một ván cờ bí mật, người có năng lực bày mưu này không thể nào đi phạm sai lầm ấy được.
Nhất định là lựa chọn gì cũng không mấy ý nghĩa.
Đề bài không có ý nghĩa, như vậy bọn họ quan sát chính là hành vi hai người. Nói cách khác, bản thân quá trình chính là một thử nghiệm.
Xem ra Ngô Tà giả đã sớm biết điều này, cho nên vượt qua bài kiểm tra theo một cách khác, còn tôi thì ngốc hết chỗ nói.
"Đến giờ rồi, anh rốt cuộc có chọn hay không?" Trương cô nương kia hỏi.
"Cô có phải là rất muốn cắt đầu của tôi hay không?" Tôi mắng, chỉ chỉ đầu người mắt nhắm hờ, " Cái này."
Trương Long Bán liếc mắt với cô gái, nhìn nhìn Ngô Tà giả rồi đưa cho cô ta tờ giấy - phía trên hẳn là đáp án hắn viết. Sau đó cô gái kia thở dài, từ sau lưng rút ra chủy thủ đưa ra trước mặt tôi: "Tìm một chỗ trong sân buộc người lại, ta muốn thử dao một chút."
Tôi đần người ra. Mãi cho đến khi đám người đó trói tôi lại đẩy vào trong sân, áp đầu tôi xuống một tảng đá, tôi mới kịp phản ứng, nói: "Chẳng lẽ tôi đoán sai?"

Quay đầu đã thấy cô gái kia đi đến bên cạnh, giơ chủy thủ lóe sáng trước mặt tôi, một tay giữ sau cổ, nắm vào động mạch. Cô ta nói: "Đừng sợ, ta sẽ cắt từ tủy sống, ngươi sẽ không có cảm giác đau đớn gì đâu, chỉ trong chớp mắt thôi."

"Tôi thật sự là Ngô Tà, các người lầm rồi." Tôi hét lên. Cùng cảm giác lạnh gáy, máu nóng liền chảy xuống. Ngay sau đó, tôi phát hiện mình không còn cảm thấy thân thể mình nữa.

Xong rồi, tôi sẽ chết, lòng thầm nghĩ.

Đây chính là sự thật. Tôi bỏ ra nhiều tinh lực như vậy, dùng nhiều vận may như vậy, trải qua hàng trăm chuyện lẽ ra đáng chết một vạn lần mà vẫn chưa chết. Giờ thì ở đây, chỉ vì bị uy hiếp đến ngây ngốc, trả lời sai câu hỏi liền dễ dàng chết như thế.

Nhân sinh quả là kì diệu!

Giờ khắc này tôi lại không có cảm giác tiếc nuối, trong lòng còn có chút vui sướng hả hê, thầm than: Tiểu ca từ trong Thanh Đồng môn đi ra nhất định sẽ phát hiện tôi bị người nhà anh ta sát hại, đến lúc đó xem cô cùng cái lão Trương Long Bán kia mặt mũi để đi đâu.

Chương 29: Trương gia sụp đổ

Có rất ít người được trải qua trải nghiệm như tôi, trong lúc vẫn tỉnh táo mà cảm giác được có người đang cắt cổ mình. Nhưng Trương cô nương kia không hềlừa tôi, tôi chẳng cảm thấy có chút gì đau đớn, chỉ là thấy máu nóng theo bả vai chảy xuống. Cái cảm giác nóng bỏng này, không phải bởi vì máu tôi thật sự nóng mà là vì cơ thể tôi rất lạnh.

"Anh tội gì phải giả trang người khác." Cô ta đưa lưỡi dao đi dọc cổ tôi, nhẹ giọng nói.

"Cô bắt sai người rồi." Tôi dùng khí lực toàn thân, nói một câu.

À, không, không phải khí lực toàn thân, tôi đã chẳng còn toàn thân rồi, cơ thể kia rất có thể đã tách rời với đầu mình rồi.

Tiếp theo, tôi thấy vô cùng buồn ngủ. Ngô Tà giả đốt một điếu thuốc bước đến trước mặt tôi, nhìn tôi cười cười với một biểu cảm chế nhạo, tay làm một tư thế "không còn cách nào khác".
Tôi càng ngày càng thấy mí mắt nặng dần, một khắc trước khi mất đi ý thức, nghe được Ngô Tà giả nói với cô gái kia: "Cậu ta là thật đấy. Dừng lại đi, đừng hù chết cậu ấy."

Sau đó một cảm giác đau nhức lan truyền trên lưng, rồi lan truyền khắp cơ thể. Tôi dần không còn thấy buồn ngủ nữa, ý thức từ từ khôi phục lại. Có người nâng tôi dậy đặt ngồi trên ghế trong phòng, Ngô Tà giả không biết từ đâu bước ra đưa cho tôi một chiếc khăn mặt.

Tôi mơ mơ màng màng hỏi: "Sao lại thế này? Các người không phải muốn cắt đầu tôi à? Đầu tôi rụng rồi, sao tôi vẫn chưa chết?"

"Bọn ta chẳng hứng thú gì với cái đầu của cậu đâu." Ngô Tà giả nói.

"Bọn ta? Sao ngươi cũng xưng là "bọn ta"? Ngươi không phải cũng chỉ là hàng giả sao?" Tôi yếu ớt nói.

"Ta chỉ diễn khổ nạn cùng cậu thôi. Xin được tự giới thiệu, tôi họ Trương, cùng họ với bằng hữu của cậu. Tên là Trương Hải Khách." Ngô Tà giả ngồi vào đối diện tôi, "Ta là thành viên của chi tộc này, người vừa rồi cắt cổ cậu là Trương Hải Hạnh, em gái ta, bọn ta đều là người của Trương gia ở nước ngoài. Thật ngại quá, vì thử xem cậu có phải Ngô Tà hay không, bọn ta đã khiến cậu hoảng sợ. Là do kiểu mặt nạ da người này trong một thế kỉ qua đã bị lạm dụngquá mức lợi hại."

"Vậy sao, làm thế nào anh... cổ tôi vừa rồi...."

"Vừa rồi bọn ta đã tiêm sau gáy cậu một ít thuốc mê, sau đó đổ máu heo lên gáy." Hắn đưa cho tôi điếu thuốc, "cậu ngốc tới mức tin rằng cổ mình đã bị chặt đứt."

Lòng tôi nghĩ: mẹ nó, đám người này thật xấu bụng.

"Tuy nhiên, ta tin tưởng kẻ đã bị dồn ép đến mức này chắc là không còn biết nói dối. Hơn nữa trong trạng thái vừa rồi cậu cũng không thể phán đoán được đó chỉ là một trò cá cược." Trương Hải Khách vỗ vỗ tôi, "Cậu cũng đừng tức giận. Nhìn bảy cái đầu người này xem, chúng tôi chính vì tìm cậu, mà tìm đượcnhiều người như vậy. Gần đây ở những chỗ cậu không biết tới, đâu đâu cũng có bóng dáng "cậu" hoạt động."

"Vậy đây là vì cái gì?" Tôi nhìn mặt hắn. Tôi không trông thấy nhiều cái "tôi", mà chỉ thấy được cái "tôi" này.

"Bởi vì cậu là người duy nhất." Trương Hải Khách nói, "Có lẽ chính cậu cũng không biết, cậu chính là người duy nhất trên đời này có thể cứu được Trương gia."

Tôi nghĩ thầm: thôi đi mẹ nó chó má, các người toàn một đám trâu bò, làm sao còn cần tôi cứu vớt? Muốn cứu thì cứu cổ tôi trước đây này, đau chết mất.

Nửa giờ sau, Trương Hải Khách kể hết vài chuyện mà tôi không biết. Tôi nghe cứ mông mông lung lung, cũng vỡ ra được tám, chín phần.

Năm đó, thế lực Trương gia chủ yếu chiếm cứ ở vùng đông bắc, lớn mạnh dần theo thời gian. Gia tộc này kì thật khống chế rất nhiều sự kiện lịch sử, trong lịch sử Trung Quốc cũng có rất nhiều danh nhân họ Trương, đều là những quân cờ ngầm của Trương gia dùng để "can thiệp" vào toàn bộ lịch sử.
Gia tộc này như một mạng lưới vô hình, thâm nhập vào tất cả các vị trí then chốt trong xã hội. Trải qua vô số triều đại, chính bọn họ cũng không thể lí giải vì cái gì mà Trương gia có thể sụp đổ trong một ngày đêm.

Khởi đầu từ khi một chi là tổ tông của Trương Đại Phật Gia tách ra, Trương gia cũng dần bị tư tưởng mới ăn mòn mà từ từ tan rã. Lúc ban đầu, bọn họ cũng không hiểu được vì sao một hệ thống hoàn chỉnh như vậy có thể bị phá hoại được? Sau khi nghĩ thông suốt, thì ra là bởi họ đã phát triển trong một thời gian quá dài, gần như tất cả mọi nỗ lực đều đã thực hiện vì thế nhiều kẻ trong số họ mong đạt được một trạng thái hoàn toàn mới.

Giống như một trò chơi điện tử, một người đánh easy level đã cả ngàn lần, sẽ sinh ra cảm giác chán ghét với trò chơi, nhưng lại chưa có trò chơi mới. Cho nên, biện pháp của người đó là chiến sang hard level.

Hệ thống chủ chốt tan rã vô cùng nhanh chóng, mặc dù nhiều người trẻ trong gia tộc mong muốn hướng tới cảm giác tự do, nhưng một nhóm khác thì hoàm toàn ngược lại.

Họ là người của Trương gia hoạt động ở khu vực Đông Nam Á, chính là cửa ngõ vươn ra bên ngoài, cũng là hệ thống bảo hộ của Trương gia, chi tộc duy nhất nằm ngoài vòng cấm.

Chi này được tự do phát triển trong khu vực Đông Nam Á, cho nên với các trào lưu tư tưởng mới mẻ họ đều thích ứng vô cùng mau lẹ. Nhóm người này vẫn vô cùng ổn định cho đến tận khi Trương gia sụp đổ hoàn toàn, phát triển cường đại ở nước ngoài, dần trở thành một hình thái khác.

Đối với đám người của Trương gia ở nước ngoài mà nói, bọn họ luôn thấy gia tộc trong đại lục vô cùng phức tạp: Một mặt, gia tộc đại lục vô cùng lợi hại, cao thủ nhiều như mây, khống chế cả một hệ thống khép kín hùng mạnh. Bọn họ cảm thấy mình thực may mắn có thể từ bệ phóng này vươn ra bốn phương. Nhưng mặt khác, gia tộc đại lục lại có liên hệ cực kì chặt chẽ với họ, mối quan hệ hết sức gần gũi. Bọn họ không cách nào ngăn chặn được sự sụp đổ của gia tộc, nhưng vẫn luôn cùng các chi khác trong hệ thống duy trì mối quan hệ. Nói cách khác, tuy rằng họ sống ở nước ngoài, hoàn toàn có thể không cần thực hiện hết thảy sứ mệnh của Trương gia. Nhưng đã là Trương gia nhân, bất luận là ở nơi nào, đối với gia tộc của mình luôn duy trì một mối ràng buộc bền chặt. Bọn họ chẳng qua chỉ là xé lẻ từ đó mà thôi.

Tình trạng này kéo dài suốt một thời gian dài, mãi cho đến khi chi của Trương Hải Khách cũng chuyển ra nước ngoài. Nhân tài trong Trương gia ở nước ngoài mới nhận ra rằng gia tộc của họ đang trải qua một tai kiếp. Dường như có một thế lực vô hình muốn chia cắt toàn bộ Trương gia, thậm chí muốn quét sạch họ khỏi lịch sử.

Đây là việc vô cùng khó khăn, thậm chí đối với cả một quốc gia cũng không có cách nào đối phó với mạng lưới vô hình của Trương gia. Nhưng thực sự đã có kẻ làm được. Nó không chỉ làm sụp đổ mạng lưới, mà còn muốn xóa bỏ tới những phần nhỏ nhất.

"Người đó là ai vậy?" Tôi hỏi Trương Hải Khách, nhưng hắn không trả lời, ý bảo tôi nên tiếp tục nghe.

Vì thế, Trương gia ở nước ngoài liền bắt đầu tiến vào nội địa điều tra, liền phát hiện một cục diện kì quái.
Lão Cửu Môn chẳng qua chỉ là một gợn sóng trong vòng xoáy đó mà thôi, nhưng vì nó có liên quan đến chính trị và Tiểu Ca nên họ đặc biệt quan tâm tới. Họ dầnnhận ra một mạng lưới lớn thiết kế bao vây triệt hạ thế lực Trương gia đang dần phát huy tác dụng.

Mà kẻ giăng ra mạng lưới này chỉ có một người.

Trương Hải Khách nhìn về phía tôi: "Người này họ Uông, tên là Uông Tàng Hải, ông ta đã chết cách đây cả ngàn năm."

Chương 30: Điềm báo ngàn năm của Uông Tàng Hải

Một người đã chết cách đây cả ngàn năm sao có thể giăng ra thiên la địa võng, khiến cho một gia tộc vững chắc và cường đại trong gần một nghìn năm sụp đổ?

Trương Hải Khách nói chẳng ai biết được, bọn họ chỉ lần theo một vài đầu mối rất nhỏ mới nhìn thấy toàn bộ cạm bẫy đáng sợ mà Uông Tàng Hải đã giăng ra.

Đầu tiên, Uông Tàng Hải nhất định đã phát hiện thấy vết tích âm thầm can thiệp của người Trương gia. Năm đó, ông ta đi tới khu vực Đông Bắc núi Trường Bạch chính là vì tìm kiếm các manh mối về Trương gia, không ngờ lại bị bắt cóc đi xây dựng hoàng lăng Đông Hạ.

Lại nói tiếp vị trí đó vô cùng kỳ quái, nhà họ Trương là gia tộc có thế lực khổng lồ, của cải nhiều mà nhân tài cũng đếm không xuể. Tuy rằng tôi không rõ Trương Nghi, Trương Lương, Trương Giác, Đông Phương Sóc (vốn là họ Trương), những người đóng góp vào tiến trình thay đổi lịch sử có quan hệ gì với Trương gia hay không, cũng không rõ Trương Đạo Lăng - người sáng lập ra đạo giáo có phải cũng nằm trong kế hoạch của họ - nhưng chỉ xét theo tên thì rất có thể đó là người nhà họ Trương. Nếu đã vậy thì một gia tộc như thế vì sao lại lựa chọn sinh sống ở vùng núi Trường Bạch hanh khô, rét lạnh?

Không phải nói khu vực đó không tốt, nhưng ít ra so sánh với sự giàu có và sung túc của Giang Nam, Dương Châu thì mọi khía cạnh đều nảy sinh vấn đề. Đấy là nơi giao thoa giữa các dân tộc Nữ Chân , Triều Tiên, chiến tranh xảy ra liên miên, họ sao lại nhất định phải sinh sống giữa nơi tứ phía đều là bất ổn, núi non trùng điệp như thế?

Bọn họ là vì Đông Hạ sao?

Trương gia không biết vì cái gì mà tích lũy tất cả nguồn lực, toàn bộ dốc sức canh giữ cánh cửa Thanh Đồng kia?

Nếu thế, phía sau cửa Thanh Đồng rốt cuộc là cái gì?

Chúng tôi cho rằng khi đó trên thế giới tồn tại ba luồng thế lực, một là người Đông Hạ sử dụng cánh cửa Thanh Đồng, hai là gia tộc canh giữ và phong bế người Đông Hạ chính là Trương gia, còn một là kẻ phát hiện phát hiện về sự tồn tại của Trương gia - Uông Tàng Hải. Uông Tàng Hải nhất định vô cùng hiếu kỳ đối với mối liên hệ phức tạp giữa cánh cửa Thanh Đồng, nền văn minh Đông Hạ và người nhà họ Trương.

Vì thế trong khi ông ta thăm dò bí mật của người Đông Hạ đồng thời cũng phát hiện ra Trung Hoa đang bị đặt dưới sự kiểm soát của một mạng lưới khổng lồ.

Người nhà họ Trương nhất định không muốn bí mật của cánh cửa Thanh Đồng bị lan truyền ra ngoài, mà Uông Tàng Hải lại hy vọng công bố bí mật đó cho tất cả mọi người biết.

Bí mật của Trương gia.

Tôi nhớ rõ trước đây Tiểu Ca từng nói, Trương gia tộc nhân có một bí mật rất lớn đã được bảo vệ qua nhiều thế kỉ. Sau khi thế lực Trương gia sụp đổ, Tiểu Ca hy vọng thông qua Lão Cửu Môn có thể thay thế lực lượng Trương gia. Nhưng rõ ràng Lão Cửu Môn kỳ thực cũng chẳng tin tưởng lời anh ta nói, hay đúng hơn, Lão Cửu Môn suy sụp quá nhanh không thể giữ đúng được lời hứa.

Bí mật này nhất định là có liên quan với thế giới sau cánh cửa Thanh Đồng, hơn nữa có thể còn chôn dấu đâu đó trong Trương gia cổ lâu.

Vì thế, Uông Tàng Hải đã làm rất nhiều việc, nhưng ông ta rất nhanh chóng phát hiện được rằng mình không thể thoát ra khỏi mạng lưới của Trương gia. Bất cứ tin tức gì ông ta truyền ra ngoài đều biến mất vô cùng mau lẹ.

"Cho nên, Uông Tàng Hải phải hủy diệt Trương gia mới có thể đạt được mục đích?" Tôi hỏi.

"Điều này không thể đạt được bằng cách đó." Trương Hải Khách nói.

"Vậy cốt lõi tranh đấu của Uông gia với Trương gia, không phải trọng tâm ở việc công khai bí mật mà Trương gia che dấu, mà điều kiện tiên quyết của tranh đấu là Trương gia nhất định phải tan rã. Tôi lí giả như vậy đúng chứ?" Tôi vừa nghĩ liền nói: "Nói cách khác, hiện nay mục tiêu của các người là tiếp tục bảo hộ bí mật kia, bởi vì cuộc đấu tranh của các người đã đi đến giai đoạn cuối cùng."

Trương Hải Khách gật đầu: "Bí mật sắp bị bại lộ, gia tộc bọn ta cũng vì bảo hộ nó mà tồn tại. Cậu nghĩ thử xem, một gia tộc phải biến mình trở nên lớn mạnh thao túng cả xã hội mới có thể bảo trụ bí mật kia, giờ nó bị công khai ra hậu quả sẽ nghiêm trọng đến mức nào?"

"Các người có biết bí mật đó là gì không?"

"Không ai rõ, chỉ biết nó đại biểu cho thế giới chung cực." Trương Hải Khách nói, "Bọn ta dù sao cũng là người họ Trương, phải vì gia tộc của mình mà gánh vác."

Tôi nhếch miệng cười. Một số mệnh bế tắc, nhưng nó cũng là cơ hội cho rất nhiều người gặp được nhau.

Tôi chỉ chỉ vào mặt Trương Hải Khách, nói: "Tôi tin lời anh, nhưng chuyện gì đã xảy ra với mặt của anh? Vì sao mà phải làm như thế này?"

"Kết cấu trong Lão Cửu Môn mấy người rất phức tạp, ta không đi vào thì không thể biết mục đích của họ. Cho nên ta phải sử dụng gương mặt của cậu, giả thành cậu, tìm hiểu xem vì cái gì họ phải đóng giả thành cậu. Bởi vì theo phán đoán của bọn ta, cậu chẳng có giá trị gì."

"Sau đó thì sao?" Đó cũng là điều tôi nghi hoặc-- chẳng lẽ là bởi vẻ ngoài này của tôi cũng có chút đẹp trai.

"Ta chưa thể nói cho cậu biết, trừ khi cậu đáp ứng một điều kiện." Trương Hải Khách cười cười, "Đáp án đó là lợi thế của bọn ta, cậu cần phải đánh đổi lại."

"Mời nói."

"Bọn ta muốn cậu giúp đi vào trong tuyết sơn kia mang ra một vật. Phương pháp cụ thể sẽ có người chỉ cho cậu, việc đó rất khó, khẳng định sẽ có nguy hiểm, nhưng cũng không đến mức hại đến tính mạng. Đồ vật này do vị tộc trưởng kia để lại đó, bọn ta thực sự rất cần nó." Trương Hải Khách nói, "Nếu cậu có thể thành công đi ra, bọn ta sẽ nói cho cậu biết bí mật này."

"Vì sao mà các người không tự mình vào?"

"Bọn ta không vào được."

"Đừng đùa nữa đại ca, đám các người hổ báo như vậy cơ mà. Tôi chỉ có bộ dạng soái ca thì chẳng còn bản lĩnh gì khác. Các người không thể vào thì tôi biết làm cách nào chứ."

"Cậu có thể còn sống mà đi ra khỏi Trương gia cổ lâu, sao lại nói là không có bản lĩnh? Đương nhiên bọn ta sẽ không để cậu đi vào một mình, bên ta sẽ cử hai người tới bảo vệ, chiếu cố cậu." Trương Hải Khách chỉ vào Trương Hải Hạnh, "Một là cô ấy, còn một cậu có thể lựa chọn trong số người của bọn ta."

Tôi nhìn đám người đang vây quanh, lại hỏi: "Tôi có thể mang theo người của mình không?"

"Cậu có dẫn theo người?"

Tôi gật đầu: "Tôi không phải con sơn dương đợi làm thịt đâu. Nếu cho tôi thêm vài ngày, chúng tôi tuyệt đối cũng mạnh không kém đâu."

"Ha ha!" Trương Hải Hạnh nói, "Xem ra người cậu mang đến thân thủ không tồi. Như vậy đi, để ta thử hắn, nếu hắn có thể qua được cửa của ta, bọn ta sẽ đểhắn đi. Còn không, bọn ta cũng không thể để cậu kéo theo người khác chịu chết."

Tôi nhìn Trương Hải Hạnh, cân nhắc thân thể to lớn của Bàn Tử hẳn là không có vấn đề. Tuy nhiên Trương Hải Hạnh cũng có chút đặc biêt, tôi nói: "Có thể, nhưng không được quyến rũ."

"Hắn thích gái đẹp sao."

Chương 31: Thực lực của Bàn Tử

Bốn giờ sau, Bàn Tử bị trói mang trở về. Nhưng dường như Trương Hải Hạnh cũng không chiếm được nhiều lợi thế, trên tóc toàn là lông, quần áo bị kéo rộng thùng thình, vẻ mặt tức tối.

Thấy đầu Bàn Tử bị trùm khăn tôi quay sang Trương Hải Hạnh, hỏi: "Cô làm gì vậy? Tính cưỡng gian anh ta sao? Nếu cô có lòng cứ cưỡng gian tôi, dù tôi không được cũng còn hơn anh ta."
Trương Hải Khách không để ý đến lời tôi, bắt đầu hỏi Trương Hải Hạnh: "Người này thực lực thế nào?"

"Thân thủ không tệ, nhưng lại chẳng có đầu óc, thời điểm giao đấu còn hành xử rất tệ. Nếu không thể giết hắn, lão nương rất muốn thiến hắn tại chỗ luôn."

Tôi nhìn Trương Hải Hạnh liền cười, tuy nhiên cũng có chút buồn bực: mẹ nó, lão tử sẽ không vì chút nhượng bộ này mà nằm xuống giơ đầu chờ chém đâu. Sớm biết thế này tôi đã phản kháng một chút, chỗ muốn sờ phải sờ một cái.

"Em thấy để đi cùng hay người của ta đi cùng thì tốt hơn?"

"Em nghĩ người như vậy khí lực thì có nhưng trong môi trường kia có thể không thích ứng linh hoạt. Anh phải biết là sau khi chúng ta đi vào, rất nhiều việc không thể dùng vũ lực mà cần đến mưu trí." Trương Hải Hạnh phủi quần áo đáp lại, " Em cảm thấy đi cùng người của chúng ta sẽ hợp lý hơn."

Tôi thở dài, Trương Hải Khách liền nhìn về phía tôi nói: "Xin lỗi, ta tin cách nói của Hải Hạnh đủ khách quan. Cậu có chịu chấp nhận không?"

"Sao tôi có thể chấp nhận được chứ, tôi vẫn cảm thấy các người nên nghe bằng hữu của tôi nói. Mau cởi trói cho anh ta, buộc như vậy là muốn ép chết anh ta à."

Trương Hải Hạnh nổi giận: "Bất kể là ai nói cũng không có tác dụng, trừ khi bây giờ hắn tự trốn được, nếu không đối với bọn ta mà nói hắn đã chết một lần rồi."

Nói xong cô ta liền đánh rớt khăn trùm trên đầu Bàn Tử. Tôi nhìn theo, muốn xem khuôn mặt khó xử của anh ta, nhưng khăn trùm vừa rơi, tôi liền phát hiện không đúng, bất giác "A" một tiếng.

"Các người bắt nhầm rồi." Tôi nói. Dưới lớp khăn trùm đầu kia căn bản không phải Bàn tử, mà là một người Tây Tạng cường tráng, dáng người cũng có chút giống Bàn Tử nhưng đen hơn, hắn hình như không nghe hiểu chúng tôi đang nói gì, vẻ mặt ngây ngô nhìn cả đám.

"Đây không phải bạn của cậu à?" Hải Hạnh kinh ngạc nói.

"Không, bạn của tôi sao lại so với tên đáng khinh này."

"Vậy hắn là ai?"

"Tôi không biết, cô tự hỏi đi." Tôi nói.

Trương Hải Hạnh nhìn sang người kia, mồm như súng máy bắn một tràng. Tên kia liền đáp lại vài câu, tôi thấy sắc mặt Trương Hải Hạnh bỗng tái đi.

"Phiên dịch lại xem nào." Tôi biết cô ta khẳng định đã bị lừa, trong lòng vô cùng khoái trí, muốn làm khó cô ấy chút nữa.

"Hắn nói, hắn bị một tên mập người Hán chuốc rất nhiều rượu ngon, cả thuốc lá xịn, rồi say nằm trong phòng người đó ngủ luôn. Tiếp theo, bỗng nhiên có người đến bắt hắn. Hắn lúc ấy mới nổi điên lên đánh nhau cùng đám người đó, kết quả là bị trói đến đây." Trương Hải Hạnh phiên dịch lại.

Tôi cười không khép miệng được. Thật là thỏa mãn mà, nha đầu này quá ngang ngược, may mà Bà Tử cơ trí, con mẹ nó hãnh diện quá đi.

"Bàn Tử thật đang ở đâu?" Trương Hải Hạnh có phần không nhịn được mà lập tức hỏi tôi.

Tôi nói: "Tôi làm sao biết được? Tuy nhiên đối với hiểu biết của tôi về Bàn Tử, anh ta nhất định không phải loại người để người khác trói cổ mình đi, đây chỉ là một phần trong kế hoạch của anh ta. Bàn Tử không giống tôi, mềm yếu trước phụ nữ, nhất định anh ta sẽ tấn công, hơn nữa còn vô cùng nặng tay. Một khi anh ta đã đánh, đối phương chỉ có thê thảm thôi. Bàn Tử là kẻ bên ngoài thì thô thiển, nhưng lại vô cùng khó trúng kế.

"Chắc chắn lúc này tên đó đang ở gần chúng ta."Trương Hải Khách nói, "Nếu là ta, nhất định sẽ bám đuôi theo tới, hơn nữa còn có chuẩn bị chu đáo. Nếu đối phương đông đảo, khẳng định bây giờ chúng ta như cá trong chậu rồi."

"Em sẽ cho người tăng cường bảo vệ."

"Không cần, theo lời của Ngô Tà, tên Bàn Tử này nhất định đã biết chuyện của chúng ta, đây cũng không phải nhân vật tầm thường."

Vừa nói xong, từ trong quần áo của người Tạng kia rơi ra một chiếc lọ.

"Đây là cái gì?" Trương Hải Hạnh hỏi hắn.

Người kia chỉ lắc đầu. Bỗng nhiên, chiếc lọ nổ mạnh, khí vàng trong lập tức ngập đầy gian phòng, một mùi cay gắt xộc thẳng vào mũi, khiến tôi suýt thì ngất.

"Khí độc. Mọi người nằm úp xuống mặt đất! Mở hết cửa sổ ra." Trương Hải Hạnh hô lên.

Người của Trương gia phản ứng rất mau lẹ, dường như chỉ trong tích tắc, tất cả cửa sổ lập tức mở tung. Bên ngoài gió lạnh thổi vào, khói độc tan đi sau đó khoảng năm phút.

"Có ai lẻn vào không?" Lúc vẫn đang mờ mịt, Hải Hạnh chợt lên tiếng, "Có mất đi người nào không?"

"Không, đều ở đây cả."

"Mẹ nó, muốn đánh lén à?" Trương Hải Hạnh bỗng chốc nổi điên lên, nhìn tôi nói, "Gọi bằng hữu của cậu ra đây đi, có giỏi thì cùng lão nương đấu một trận, đừng ở đó giở thủ đoạn tiểu nhân chó má ấy ra."

Lời còn chưa dứt, Trương Hải Khách đột ngột giữ chặt không cho cô ta nhúc nhích. Sau đó chúng tôi nhìn thấy, trên trán cô ta có một điểm sáng laser. Một tia laser chiếu vào từ bên ngoài cửa sổ, chiếu thẳng vào trên trán cô ta. Bất luận cô ta di chuyển thế nào, nó đều đi theo.

"Ngô Tà, nói cho bằng hữu của cậu biết bọn ta là ai, giải thích cho hắn, bọn ta đã thất lễ với hắn, đừng hành động thiếu suy nghĩ, kia chỉ là hiểu lầm đáng tiếc."

Tôi nhìn Trương Hải Hạnh, cô ta đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại, không nói lời nào chỉ nhìn tôi.

Trương gia các người đã chiếm ưu thế lâu quá rồi, chỉ sợ trong một thời gian dài không biết thảm bại là gì. Tuy nhiên, Bàn Tử kiếm được ở đâu khẩu súngkhủng bố này?

Tôi nhìn bên ngoài là một khoảng tối đen, Bàn Tử có vẻ ở cách đây khá xa, cho nên bảo vệ mới không phát hiện được. Nhưng cứ kéo dài thế này, tôi cũng không biết liên lạc với anh ta thế nào.

"Đừng di chuyển." Tôi đột nhiên có một chủ ý xấu, "Tôi không nói chuyện được với anh ta, chỉ có thể dùng hành động để cho anh ta biết chúng ta là người một nhà."

"Hành động gì?"

Chậm chạp đi tới bên cạnh Trương Hải Hạnh, dựa vào gần mặt cô ta. Cô ta có chút luống cuống, nói: "Cậu muốn làm gì? Nếu cậu hành động thiếu suy nghĩ, lão nương dù có bị vỡ đầu cũng không tha cho cậu."

"Yên tâm, tôi không giống cô, tôi là người văn minh." Tôi nói.

Nói xong, liền xoay đầu mình che đi chấm đỏ trên đầu cô ta. Trong nháy mắt, Trương Hải Hạnh liền nhảy ra với tốc độ cực nhanh. Tôi nhìn mà cảm thấy buồn cười, xoay người sang kéo Trương Hải Khách lại gần, làm vài động tác anh em tốt. Bộ dạng hai chúng tôi giống nhau như đúc, cảnh tượng đó hẳn là rất buồn cười.

Laser chạy trên người chúng tôi một lúc sau đó tắt, ngay cả tôi cũng nhẹ nhàng thở phào. Trương Hải Khách nói: "Mời bằng hữu của cậu ra đây! Hắn dùng được, đúng là nhân vật lợi hại."

Tôi ha hả cười không ngừng, quay đầu lại đã thấy người Tạng kia tự mình cởi dây trói từ bao giờ, đang điềm nhiên ngồi trên ghế salon uống trà bơ, nói: "Cứ như vậy là xong sao? Bàn gia tôi còn chưa chơi đủ."

Tôi ngạc nhiên nhìn hắn dùng quần áo lau đi màu trên mặt, kinh ngạc suýt rớt cả cằm.

Hải Hạnh trợn mắt nhìn tôi: "Cậu không phải nói tôi bắt sai người sao? Hai người liên thủ bẫy ta."

Sau khi anh ta lau mặt xong, kéo bộ râu xuống nhìn tôi nói: "Ăn ý, cô nghe hiểu không? Đấy gọi là chiến hữu ăn ý."

Quả nhiên là Bàn Tử.

Tôi lấy lại bình tĩnh, lòng nghĩ: cái chiến hữu ăn ý chết tiệt gì chứ, anh hóa trang thành như vậy, tôi làm sao có thể nhận ra? Nhưng tôi cũng không thể để lộ, vì thế ngửa mặt cười to, đi đến vỗ vỗ bả vai Bàn tử.

"Ngoài cửa sổ là ai?" Trương Hải Hạnh hỏi.

"Là đứa con của bà chủ quán trọ nơi tôi ở. Đấy không phải laser, mà là món đồ chơi giáo viên thường dùng làm giáo cụ khi giảng bài." Bàn Tử nói, "Các người cũng tự tin quá đấy. Bằng hữu của tôi đây Thiên Chân vô tà, một chút sức chiến đấu cũng không có, tôi sao có thể để cậu ta một mình ở đây được. Bản thân đã sớm thả trên người cậu ấy máy nghe trộm rồi." Nói xong liền lấy từ trong túi ra một vật nhỏ, là điếu thuốc tôi mua ở quầy đồ. Anh ta xé rách bao bì liền lộ ra có thiết bị bên trong: "Các người nói gì tôi đều nghe được hết. Cô nương, các người còn non lắm, chưa thích hợp lăn lộn với đời đâu, về tu luyện tiếp đi."

Trương Hải Hạnh tức đỏ cả mặt, xoay người bước đi.

Bàn tử mở bao thuốc, rút một điếu thuốc châm lên, nói: " Phụ nữ kiểu gì cũng vẫn là phụ nữ, không có con gà là không đáng tin." Bỗng nhiên anh ta ngây cả người, cầm bao thuốc nhìn đi nhìn lại rồi lấy ra một vật.

"Làm sao vậy?" Tôi hỏi.

"Còn một máy nghe lén nữa, nhưng không phải do tôi đặt vào."

Vừa dứt lời, ngoài cửa sổ đồng loạt chiếu vào vô số điểm đỏ laser, trên đầu mỗi người đều có một chấm.
Ai da, lòng tôi thầm nghĩ: loạn rồi, còn thứ gì đó đang nấp sau lưng!

Chương 32: Biện pháp bảo đảm của Bàn Tử

Sự tình phát triển rất nhanh khiến chúng tôi không kịp trở tay. Cả đám không ai dám động, Trương Hải Hạnh nhẹ giọng hỏi Bàn tử: "Đó cũng là người anh sắp xếp?"

"Nói linh tinh, tôi đi đâu tìm được lắm con bà chủ quán như vậy?"

Lớn chuyện rồi, lòng tôi thầm than. Giằng co một hồi liền thấy hai người nước ngoài đi vào cửa.

Là hai người trong nhóm người Đức. Trước kia tôi không hề chú ý, nhưng bây giờ nhìn họ đi tới, con mẹ nó, họ quá to lớn, to như gấu vậy. Cả hai đều cao hơn tôi một cái đầu, tóc màu xám bạc, trên mặt là những vết sẹo sâu như dao khắc.

Đây là gương mặt của người thường đi núi.

Sau khi đi vào, hai người đó phất tay, tất cả đèn laser liền biến mất. Nhưng tôi hiểu, cái này cũng không phải là tất cả tay súng đang tập kích đã lui đi, mà là họ muốn nói với chúng tôi, bọn họ vẫn đang theo dõi chúng tôi, hiện tại tắt laser chỉ để chúng tôi không rõ hướng dịch chuyển của họ. Khẳng định vẫn còn số lượng không nhỏ đang nhắm bắn chúng tôi ở phạm vi ngắm bắn tốt nhất, có thể khóa chặt hai mục tiêu cùng lúc.

Người Đức kia đi tới, ôm quyền kiểu Trung Quốc chào hỏi chúng tôi, một kẻ dùng thứ tiếng Trung ngọng nghịu nói: "Thật ngại quá, ngại quá, mọi người cùng ngồi, ngồi đi."

"Cái này trong phim võ hiệp thấy không ít đâu." Bàn Tử ở bên cạnh tôi nói.

"Hai vị có thể đi." Một người nước ngoài nói với tôi và Bàn Tử.

"A?" Tôi có chút kinh ngạc, Bàn Tử hỏi: "Chúng tôi có thể đi?"

"Đúng, đi nhanh đi." Ông ta không thèm nhìn chúng tôi nói, "Chuyện ở đây không liên quan đến hai người, là việc giữa tôi và bọn họ."

Tôi vừa nhìn sang Bàn Tử, Trương Hải Khách đã nói: " Còn chưa đi mau? Tự chúng tôi ứng phó được."

Chuyện này thật là kì quái, đây là cái logic gì? Bàn tử nhìn tôi nhếch miệng, ý bảo có tiện nghi thì phải chiếm, đừng đợi đến khi tên người nước ngoài đổi ý, cứ đi trước rồi nói sau. Tôi cùng Bàn Tử chầm chậm rời khỏi phòng, đi vào trong sân, tôi liền quay sang Bàn Tử, nói: "Bây giờ làm gì? Đi đâu đây?"

"Trước cứ đi về phòng cậu đi, nơi này không có việc của chúng ta, tôi đã thỏa thuận với đám người Đức rồi." Bàn Tử nói.

"Vậy đám người này đúng là do anh sắp xếp?" Tôi kinh ngạc nói.

Bàn Tử ra hiệu cho tôi ngậm miệng: "Đừng nói nữa, không phải sắp xếp, mà là biện pháp bảo đảm của tôi. Bàn gia tôi từ lúc tới đây đã cảm thấy có nhiều thành phần âm mưu cho nên đã xuống nước với đám người Đức. Nơi này nói chuyện không tiện, về đã rồi tính sau."

Tôi gật đầu, lòng cảm thấy thật giống như đi làm khách ở nhà bằng hữu, kết quả là người bằng hữu kia và vợ hắn cãi nhau một trận, chúng tôi chờ đợi thực xấu hổ vừa đi ra vừa nghĩ: bên trong sẽ không xảy ra chuyện chồng giết vợ hoặc vợ giết chồng đấy chứ? Trong lúc đang không biết phải làm thế nào thì người bạn đi cùng lại nói: yên tâm đi, người vợ anh ta yêu là tôi.

Ngẫm lại thì thấy hình như nội dung cũng không hợp lắm, đợi Bàn Tử giải thích xem sao. Tôi và Bàn Tử đi thẳng về phòng rồi đóng cửa lại, tôi lập tức hỏi anh ta hàng loạt sự việc này là sao?

Bàn Tử nói không việc gì. Trước khi gặp tôi anh ta đã đóng giả thành nhân viên bán hàng, bán cho tôi mấy bao thuốc lá cài thiết bị nghe trộm, trong mỗi bao đều có. Sau đó khi anh ta theo dõi tôi liền hiểu được kế hoạch tôi dự tính.

Hơn nữa khi anh ta ở gần Miếu lạt ma đã nghe được chuyện người Trương gia muốn thử anh ta, nên lập tức quay về, sắp sẵn kế hoạch này.

Tuy nhiên trước đó, khi anh ta trông chừng tôi đã phát hiện ra tuy người Trương gia đang theo dõi tôi nhưng lại đồng thời có người theo dõi Trương gia.

Đây là vấn đề về số lượng. Bàn Tử chỉ có một mình cho nên khó bị phát hiện, nhưng theo dõi Trương gia lại cần nhiều người, hơn nữa đều là người nước ngoài, nên chỉ cần thoáng qua cũng rất dễ dàng phát hiện.

Bàn Tử cảm thấy nếu chính người của Trương gia đang tiến hành hoạt động theo dõi, thì tất nhiên cũng sẽ phát hiện ra mình bị theo dõi. Nhưng người họ Trương quá tự tin, toàn thuê dân địa phương, dân bản xứ nên không có kinh nghiệm, không biết bản thân khi đang theo dõi người khác thì chính mình cũng bị theo dõi.

"Vậy những người nước ngoài đó là ai? Tôi hỏi Bàn Tử.

"Người đầu tư vào công ty Cầu Đức Khảo ở nước ngoài." Bàn tử nói.

Tôi lắc đầu, không hiểu được. Bàn tử nói: "Công ty của Cầu Đức Khảo là một công ty cổ phần, sau khi lão chết, tất cả liền biến thành mớ hỗn độn. Tôi tin rằng cậu cũng đã biết bọn họ loạn thành cái dạng gì. Lúc đó ban giám đốc công ty đưa ra hai quyết định: đưa những thế mạnh của công ty tách riêng ra, thành lập một công ty mới, đồng thời đem rất nhiều hạng mục và tư liệu của Cầu Đức Khảo lưu lại công ty mẹ. Bởi vì dự án này lỗ nặng, cho nên tạo thành một cục diện rối rắm. Bọn họ phải bán lại công ty để trả nợ, hy vọng sẽ có người mua lại vì giá thấp, nếu không thể thì đành tuyên bố phá sản."

"Kết quả giống như một kì tích, có người đã chấp nhận mua lại đống hỗn độn đó, không chỉ chi trả các khoản nợ, mà còn giữ lại nhiều hạng mục lúc trước, trong đó quan trọng nhất là hạng mục của Cầu Đức Khảo ở Trung Quốc. Người mua là một công ty của Đức, tên tiếng Trung là "An Tĩnh".

An Tĩnh? Có liên quan đến an lợi không nhỉ? Lòng tôi nghĩ, miệng hỏi: "Vậy làm cách nào mà anh móc nối được với bọn họ?"

"Nói ra thì thật mất mặt, không phải tôi tiếp cận họ mà là họ tìm tới tôi." Bàn Tử nói, "Sau khi cậu lên núi không lâu bọn họ liền tới tìm tôi. Chó má, mười vạn Euro cùng mấy khẩu súng máy, Bàn gia tôi liền thay đổi ý nghĩ, hợp tác cùng bọn họ một lần. Cái họ muốn là tìm hiểu mục đích thực sự của đám người Hong Kong, hy vọng tôi có thể phối hợp với họ. Vì thế tôi xem họ là một phương án dự phòng, nếu chúng ta có xảy ra vấn đề, ít nhất cũng còn một đường lùi và đồng minh."

"Nói như vậy, đám người Đức không hề biết tầm quan trọng của tôi, mới có thể để cho tôi đi như thế."

"Dường như là vậy mà cũng chưa hẳn. Có lẽ đối với họ mà nói, cậu căn bản chả đáng để tâm. Lấy ví dụ, nhiệm vụ của đám người Hong Kong là lấy một thứ đồ từ trong núi tuyết, vì chuyện này nên cậu trở thành kẻ quan trọng đối với họ. Nhưng với người Đức, mục đích của bên đó chỉ là tới nơi trong lòng tuyếtsơn kia, cho nên cậu liền trở thành vô giá trị. Đám người Hong Kong thì lại biết lộ tuyến đi tới hồ nước kia, hai nhóm đó có thể trực tiếp hợp tác với nhau là được."

Tôi trầm tư một lát, cảm thấy có chút đạo lí. Nhưng nếu họ đạt được thỏa thuận thì không sao, còn nếu không thể thống nhất được thì chẳng phải trong miếu này sẽ phát sinh một trận sống mái hay sao?

"Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi." Bàn Tử nói, " Tại hạ Gia Cát Phì Long cảm thấy bất kể kết quả ra sao đều có lợi cho chúng ta. Dẫu sao thì trong cục diện này ta cũng là yếu thế, hiếm khi hai bên kia thừa hơi, cứ để bọn họ đánh nhau sẽ có trò vui cho mình xem, đợi bọn họ hết nóng đầu, chúng ta lại tiếp tục."

Tôi nghĩ tới Trương Hải Hạnh, bỗng cảm thấy có chút không ổn. Trương Hải Khách, Trương Long Bán đều là những kẻ hành động cay nghiệt, không đạt được mục đích thề không bỏ qua. Trước mặt tôi lại luôn lễ độ hòa hảo chẳng qua bởi vì tôi quan trọng với họ, còn Trương Hải Hạnh lại là một cô gái chân thật. Quả thực là tôi không muốn người như vậy uổng mạng ở đây. Có lẽ xuất phát từ cảm tình với Trương gia cùng thái độ căm thù Cầu Đức Khảo, lập trường của tôi đã nghiêng về phía Trương gia.

Tôi cảm thấy không thể để cục diện phát sinh biến hóa như vậy, có thể hỗ trợ được thì tôi liền hỗ trợ.

Châm một điếu thuốc, tôi nhìn Bàn tử nói: "Ý tưởng này của anh rất tiêu cực, người làm cách mạng như chúng ta phải tích cực hướng về phía trước ."

Nói được nửa câu, chợt nghe thấy âm thanh như bóp nghẹt, một ánh lửa như sao băng từ ngoài cửa sổ bắn vào, huyệt thái dương của Bàn Tử máu bắn tung tóe, người bị bật ra ba bốn bước rồi lật mình ngã xuống đất.

Chương 33: Suýt chết

Tôi hoảng sợ, lập tức muốn đi xem đã xảy ra chuyện gì, vừa chạy tới bên người Bàn Tử đã bị anh ta đá cho một cước. Tôi lảo đảo ngã dúi xuống đất, cùng lúc ấy, một viên đạn khác dường như dán sát sau lưng tôi, bắn trúng cây đèn trong phòng.

Đèn bị bắn cho tia lửa văng tứ tung trên mặt đất, tôi nghĩ ngay đến nguy cơ hỏa hoạn, nhưng kết quả là dầu hỏa cháy được một chút liền tắt rụi. Xem ra sàn nhà này trải qua nhiều năm rồi, nền đất dày có vẻ khá an toàn.

Trên người tôi cũng dính vài đốm lửa, tôi vừa chụp tắt thì Bàn Tử một bên liền mắng: "Lớn như vậy rồi mà chẳng thông minh tí nào. Giờ này còn chạy lung tung nữa sao, mau nằm sấp xuống."

"Anh sao rồi? Tôi tưởng anh phải headshot rồi chứ." Trên mặt anh ta toàn là máu, "Lão tử đây không phải là lo lắng cho anh sao."

"Lo cái rắm, tôi chết cũng không phiền cậu chôn, lão tử không thiếu thân nhân lo lắng lúc lâm chung. " Bàn Tử nói, một tay ôm huyệt thái dương. Lòng tôi thầm nghĩ không phải bắn thủng đầu rồi đấy chứ, nếu không sao lời nói lại trở nên trôi chảy như vậy.

"Bàn gia tôi xuất thân từ đâu chứ, tưởng ngắm bắn tôi dễ lắm à. Nếu không phải cái nơi lạnh lẽo chết tiệt này, Bàn gia tôi chẳng tới mức tránh không nổi như vậy." Bàn Tử nói, "Nhớ hồi còn đi học, tôi còn nổi danh bởi biệt hiệu "bao thịt bất khả xâm phạm".

Tôi nhìn huyệt thái dương của anh ta, thực sự chỉ là trầy da thôi. Thầm nói tên kia tay nghề cũng thật kém, đầu Bàn Tử to thế mà bắn cũng không trúng.

Bàn Tử nói: "Chúng ta ở nơi giang hồ hỗn loạn, ở chỗ dễ bị đánh lén, đầu óc phải vận động không ngừng, cái đó gọi là phòng ngừa chu đáo."

Bình thường Bàn Tử nói chuyện đều rung đùi đắc ý, tôi thầm nghĩ lại ba hoa chích chòe rồi, đây nhất định là thói quen ngớ ngẩn của anh ta. Vừa định bật lại vài câu, thì phát súng nữa lại lã vào, cũng không biết đã bắn trúng chỗ nào chỉ biết vụn gỗ văng khắp nơi. Tôi cùng Bàn Tử đều rụt cổ lại.

"Tôi chắc tên bắn súng này là kẻ mù, chúng ta nằm sấp xuống mà hắn cũng bắn, hắn không sợ sẽ bị lộ sao?"

"Không phải, nhìn xem, đèn bị bắn tắt rồi, giấy dán cửa sổ lại dày nữa, chắc hắn chỉ có thể căn cứ theo bóng dáng hiện trên cửa sổ để bắn. Chúng ta nằm xuống, hắn liền ngừng lại, nếu biết được chúng ta trốn ở đâu, thấy cái gì động cũng không cần lập tức nổ súng như vậy."

"Vậy chẳng phải là an toàn rồi sao?"

"Nhưng chúng ta cũng không thể tiếp tục nằm đây mãi được, nghe tiếng súng lúc nãy, hẳn là hắn ở cách đây khá xa. Nơi này lạnh như vậy, ngón tay bị đông cứng nên hắn mới bắn trượt. Tuy nhiên cách xa như vậy mà vẫn có thể bắn người chứng tỏ hắn không phải dạng tay mơ đâu, chúng ta không thể tùy tiện mạo hiểm. Trước hết cứ nằm im cho hắn chết rét đã."

"Chó chết là kẻ nào?" Tôi nói, "Đám người Đức kia chẳng phải thả chúng ta đi sao? Chẳng lẽ thả chúng ta đi để có hai cái bia tập bắn di động."

"Đám người Đức kia muốn giết chúng ta thì rất dễ dàng, không phải họ làm đâu. Nếu là người Trương gia, thì cả đám đó thân thủ đều cao cường, sẽ không dùng đến thủ đoạn bắn tỉa. Bắn tỉa thường là lấy ít địch nhiều, chúng ta ở đây có hai người. Nếu bên ngoài có năm tên bắn tỉa trở lên thì cũng chẳng cần bắn làm quái gì, trực tiếp đi vào đánh luôn là được, dù sao chúng ta cũng chẳng phải đối thủ của chúng." Bàn Tử dùng áo che vết thương, nhìn chung quanh, dường như đang tìm cách thoát khỏi tình hình này, "Do đó ngắm bắn chúng ta, chỉ e là số người quá ít, thậm chí chỉ có một người, thấy hai ta lạc lõng liền muốn diệt trừ thôi."

"Không phải người của bên nào chúng ta biết?" Tôi kinh ngạc nói, lòng thầm nghĩ không hiểu trong ngôi miếu này tụ tập bao nhiêu thế lực? Mới vừa dứt lời, lại hai tiếng súng vang lên. Viên đạn xuyên qua cửa sổ, bắn thẳng tới chỗ tôi, đúng phương hướng chỉ chệch lên trên, nó bay vụt qua đầu tôi.

"Đúng nhất định còn một nhóm người nữa." Bàn Tử nói, "Thật ra tôi vẫn còn chuyện không nói với cậu, nhưng hiện giờ không có thời gian, tối nay chúng ta sẽ thảo luận tới sau. Để ý mà xem, hình như hắn đã đoán được vị trí của chúng ta."

"Vì sao?"

"Kinh nghiệm, trước đây nhất định hắn đã từng kiểm tra qua gian phòng này." Bàn Tử nhìn xung quanh,

"Trong phòng này nơi có thể trốn được cũng chỉ có vài chỗ, tên kia nhất định đã xem xét những nơi ta có thể ẩn nấp từ trước rồi lựa chọn những góc chết trong phòng mà bắn. Bây giờ hắn đang đánh cược, dùng viên đạn để thử cậu."

Vừa nói xong, lại một viên hướng tôi bay đến. Lần này góc độ cực gần, vẫn từ hướng cửa sổ bay vào, nghiêng xuống dưới, bắn vào phía sau tôi rồi nện xuống nền nhà. Sàn nhà chấn động còn toàn thân tôi thì tê rần, tôi lập tức bò nhanh sang bên cạnh.

Bàn Tử cũng lộ ra biểu tình kì quái: "Tuy nhiên, tên này đánh cược cũng thật chuẩn xác."

"Có lẽ vừa rồi hắn nhìn thấy tôi chạy về chỗ anh nên đoán tôi sẽ trốn ở chỗ này."

"Không có chuyện đó, nếu trong trường hợp này ai cũng sẽ chọn một nơi bí mật tối tăm để ẩn nấp. Nếu hắn thực sự trông thấy chúng ta thì chúng ta cũng sớm chết rồi, cho nên hắn vẫn đang đoán, nhưng tại sao lại đoán chuẩn như vậy?."

Phía bên kia căn phòng, có một khung gỗ, đấy là nơi tôi phơi quần áo. Dù sao đợi ở đây nhiều ngày, quần lót của tôi đều giặt sạch rồi phơi ở nơi ấm áp trong phòng, chờ vài giờ liền khô. Bàn Tử quay đầu, thật cẩn thận rút một thanh, nhìn tôi nói: "Bất chấp hết đi, đầu tiên chúng ta lừa hắn bắn hết đạn, rồi trong khi hắn thay băng đạn mới, ta sẽ nhảy ra từ cửa sổ, chạy về phía ngọn núi."

Nói xong, anh ta liền cởi áo khoác trên người, buộc lên thanh gỗ. Vừa lộ áo khoác ra khỏi cửa sổ thì ba viên đạn bắn vào, áo khoác lập tức bị bắn hạ.

Tôi nhìn Bàn Tử, thấy anh ta nói: "Đây là loại súng ngắm gì mà tốc độ cao như vậy."

Trong nháy mắt tôi nghe thấy một âm thanh kì quái, vì thế lập tức lấy tay xua Bàn Tử ngậm miệng. Anh ta thấy tôi lộ ra vẻ mặt này nhất định là có mục đích, liền im lặng. Tôi nín thở cảm nhận, bỗng thấy từ ngoài sân có một âm thanh xào xạc rất nhẹ. Tôi chỉ vào lỗ tai Bàn Tử rồi chỉ ra ngoài, anh ta liền lắng tai nghe, sau đó trong chốc lát lộ ra biểu cảm tức giận. Anh ta dùng khẩu hình bảo tôi tiến đến cạnh cửa sổ, lấy tay đếm "1,2,3" sau đó đá chân, ý bảo sau khi thấy anh ta hô "1,2,3" liền đá văng cánh cửa.

Tình bạn của chúng tôi nhiều năm qua đã luyện thành một sự ăn ý gần như là bản năng. Tôi không chút do dự, lập tức tới cạnh cửa. Bàn Tử ở một bên, ngồi xổm thân mình, cầm lấy đế đèn, nhìn tôi đếm '1', tôi gật đầu, hít sâu một hơi. Tiếp theo anh ta '2' rồi '3' trong nháy mắt thân người bỗng đứng phắt dậy.

Vào lúc này tôi dùng sức đá văng cánh cửa gỗ rồi ngồi xổm xuống. Trong khoảnh khắc hai phát đạn liền bắn gần sát tóc Bàn Tử, anh ta lăn người một vòng, đế đèn trong tay ném văng ra ngoài, anh ta cũng theo đó xông ra. Tôi nghe được bên kia liên tục vang lên tiếng súng nhưng lại là từ trong sân phát ra.

Xoay người đứng dậy thì thấy Bàn Tử đang đánh nhau với một kẻ nữa, súng của hắn đã bị Bàn Tử dùng miệng cắn chặt. Tôi chạy nhanh tới, nhặt đế đèn trên mặt đất lao vào tham chiến, một tay bóp cổ kẻ kia, tay còn lại dùng đế đèn đánh mạnh vào đầu anh ta.

Kẻ kia vô cùng cường tráng, nhưng đối với đấu pháp của tôi và Bàn Tử, không có kẻ nào chịu đựng được. Tôi nện vài nhát vào đầu hắn, tên đó liền không thấy động tĩnh, tôi cùng Bàn Tử liền xoay người đứng dậy, phát hiện đó là một lạt ma. Bàn Tử nhặt súng lên thấy đây là một khẩu súng lục, trên đó còn có ống giảm thanh.

"Mẹ nó, tên khốn kiếp này lấy súng lục mà bắt chước súng bắn tỉa." Bàn Tử nghịch ngợm cây súng, rồi giắt vào trong thắt lưng.

Tôi nói: "Anh liều quá rồi đấy, liền như vậy mà lao ra. Anh cũng chẳng phải Tiểu Ca, đế đèn này mà không ném trúng thì anh đã lẳng cù đèo."

"Nghe tiếng thôi tôi cũng đoán được đối phương chỉ dùng súng lục, âm thanh khá nhẹ, nhất định là gắn ống giảm thanh. Hơn nữa theo góc bắn vừa rồi, nếu là ở trong sân, khẳng định là rất gần cánh cửa, cho nên liền liều một phen. Quả nhiên, người này cách cửa có mấy mét, thời tiết lạnh như vậy dùng súng lục bắn trúng mới là lạ."

Tôi vừa rồi không nhìn thấy liền hỏi: "Thế vì cái gì mà bắt sát như vậy?"

"Hắn nghe được chúng ta nói chuyện, nên đoán được vị trí."

Tôi ngồi xổm xuống nhìn gương mặt kẻ kia phát hiện là lạt ma ở trong miếu, tôi từng thấy hai lần đều là trong nhà ăn. Tuy nhiên vừa rồi hình như tôi xuống tay quá nặng, lỗ mũi hắn đều đổ máu.

"Thiên chân, lâu ngày không gặp, thủ pháp của cậu có phần giống Bàn gia tôi rồi đấy." Bàn Tử chế nhạo tôi rồi nhìn xung quanh không thấy có người tiếp tục ám toán, nói: "Đầu tiên trở về phòng, kẻ này xem ra thân phận có chút đặc biệt, không hiểu vì sao mà truy sát chúng ta. Trong ngôi miếu này dường như ai cũng có vấn đề, chúng ta càng phải cẩn thận gấp bội."

Tôi nghĩ ngợi rồi nhìn anh ta nói: "Nếu đã vậy, phòng của tôi khẳng định không ở được. Anh đi theo tôi, tôi đưa anh đến nơi an toàn hơn."

Chương 34: Biến động kỳ quái

Bàn Tử khiêng lạt ma, tôi đi trước dẫn đường. Xuyên qua một quãng hành lang tối đen, cũng không rõ đã đi qua bao nhiêu khoảng sân, đi tới chỗ đặt bức tượng Tiểu Ca. Điểm kì lạ chính là dọc đường đi cả ngôi miếu hoàn toàn tĩnh lặng, không một tiếng người.

Chẳng lẽ các nguy cơ như vậy lại làm cho mọi người ngủ ngon hơn sao?

Lúc Bàn Tử nhìn thấy bức tượng liền giật mình, thiếu chút nữa đã đá nó một cước. Tôi phải giữ lấy anh ta, sau tìm bừa một gian phòng trong sân, đẩy cửa bước vào.

Bên trong toàn là các thùng gỗ, bởi vì quá tối nên cũng chẳng rõ bên trong tình hình thế nào. Chúng tôi đặt lạt ma trên mặt đất, dùng bật lửa chiếu sáng, phát hiện trên người hắn chẳng có thứ gì.

"Nghèo rớt." Bàn Tử mắng.

"Anh không thể chuyện gì cũng làm giống như đi trộm đồ người chết thế được." Tôi nghiêm túc kiểm điểm lại anh ta, "Anh đâu có khó khăn gì, sao mà cứ mỗi lúc như này lại làm ra mấy cái hành động bỉ ổi như tên ăn cắp vậy."

"Cái đấy gọi là khiêm tốn, cậu hiểu không? Cậu xuống tay mạnh như vậy, khó tránh hắn đã nghẻo rồi. Tôi động vào người hắn cũng khác quái gì đi trộm vật phẩm chứ."

Trong lòng tôi lộp bộp một tiếng, thầm nghĩ: ngàn vạn lần đừng như vậy, tôi không muốn thiếu nợ mạng sống của hắn đâu.

Bàn Tử tiếp tục nói: "Tên này không giống người Tạng mà giống người Hán hơn. Không phải kẻ thù của chú Ba cậu vẫn bám theo cậu đấy chứ?"

"Có nhà anh ghi thù mới đuổi đến tận chân núi Himalaya này ấy." Tôi nói. Tôi nhìn tên này chẳng thấy có sự khác biệt gì về chủng tộc, trừ một số đặc điểm có vẻ giống người bộ tộc Khang Ba.

Bàn Tử dùng dây thừng trói hắn lại, rồi bắt mạch, nói: "Xem ra, phải một lúc nữa hắn mới tỉnh. Tôi đi trước xem tình hình giữa Trương gia và đám người Đức thế nào. Cậu trông chừng hắn đấy."

Anh ta nói xong định đi thì bị tôi giữ lại. Bàn Tử hỏi gì vậy, tôi đáp: "Tôi trước kia suốt ngày phải canh tù nhân, mỗi lần như vậy lại gặp chuyện chẳng hay ho gì, tôi mặc kệ đấy. Anh canh hắn đi, tôi đi xem tình hình bọn họ. Hơn nữa, ngôi miếu này tôi quen thuộc hơn anh. Để anh đi không chừng đến lúc mặt trời mọc cũng vẫn còn lang thang bên ngoài."

Bàn Tử nghĩ cũng phải, nói: "Vậy thì cậu phải cẩn thận, đừng có vờ ngây ngốc."

Trong lòng tôi thầm nói: "Yên tâm, tôi giờ không còn là tôi của ngày trước." Gật đầu rồi đi ra cửa.

Cả đoạn đường, tôi nhẹ nhàng thở phào, bỗng nhiên cảm thấy mình cũng giỏi thật, có thể bắt Bàn Tử ở lại canh doanh trại.

Trong giây lát, vô số lần ở lại canh chừng hiện lên trong đầu tôi. Cái cảm giác buồn tẻ, nhàm chán, lo lắng, bất lực, giống như mình là đồ vô dụng làm tôi có chút cảm khái.

Ngô Tà ơi là Ngô Tà, ngươi rốt cuộc cũng không còn là binh tốt nữa, hiện tại cũng có thể được lên làm quân chủ lực rồi.

Chạy qua các khu vực vắng vẻ trong miếu, đi vào nơi hoạt động của các lạt ma, tôi bắt đầu cẩn thận dọc theo các khối nhà từng chút từng chút, đột nhiên cảm giác mình y như một Ninja.

Tôi có điểm tò mò, trong tình huống hỗn loạn vừa rồi, bây giờ mấy người lạt ma ra sao? Chẳng lẽ tất cả đều đang ngủ ngon.

Chẳng có lẽ, bọn họ cầm vũ khí vây quanh phòng ngủ của đại lạt ma? Nghĩ ngợi một lúc tôi cảm thấy trong tình huống đó, có lẽ việc đầu tiên ông ấy làm là báo cảnh sát. Tuy nhiên, chờ đến lúc cảnh sát tới được nơi này thì số người chết đã nhiều gấp ba rồi.

Trở lại vị trí lúc trước đám người Trương gia tụ tập thẩm vấn tôi, vừa thấy liền sửng sốt, lúc trước nơi đó đèn đuốc sáng trưng, giờ chỉ còn một mảnh tối đen. Một chút ánh sáng cũng không có, chỉ còn vài bóng mờ dưới ánh trăng bàng bạc.

Trong lòng chợt lạnh, thầm nghĩ đi lúc nào mà êm như vậy, chẳng lẽ cả đám đều trở về ngủ cả rồi.Hay là nãy giờ đều là ma, là ma diễn kịch. Nhưng mấy con ma này cũng thật nhàn rỗi, lên tận núi Himlaya để trêu tôi sao?

Đứng ngoài sân do dự một lúc, cảm thấy tóm lại vẫn phải tự mình vào xem, nếu không lấy gì mà nói với Bàn Tử. Tôi mà cứ như vậy quay về, anh ta hỏi việc ra sao mà tôi lại nói: "Không có việc gì, bọn họ đi cả rồi, chúng ta cũng đi thôi." Đảm bảo anh ta không hộc máu mới là lạ.

Cẩn thận đi vào trong sân, cũng may tuyết đều đã được quét gọn sang một bên. Đi tới cửa, mở ra, toàn bộ lò than bên trong đều đã dập tắt. Thật là kì quái, bên trong chẳng thấy cái gì, tôi quét quanh tất cả những nơi trong phạm vi ánh trăng, tim bắt đầu đập mạnh. Nói thật tôi cũng không sợ hãi gì, sau khi trải qua những chuyện lúc trước, nỗi sợ bóng tối đã giảm bớt rất nhiều. Thời gian dài còn có cảm giác ỷ lại, bóng tối giúp che giấu người nhiều hơn là hù dọa người.

Tôi không dám bước về phía trước bởi vì thật sự chẳng thể nhìn rõ thứ gì trong phòng. Sờ tay vào lò than phát hiện vẫn còn ấm, tôi bắt đầu bới lư than bên trong thì thấy hình như đã dùng trà bơ để dập tắt. Cố gắng căng tai nghe âm thanh trong phòng, chậm rãi một hồi thì thấy bên trong nhất định không có ai.

Rốt cuộc đã xảy ra việc gì, chẳng lẽ sau khi chúng tôi đi người Trương gia liền nổi điên, chế ngự đám người Đức?

Dựa vào thân thủ của đám người ấy, thì khả năng đó không hề nhỏ nhưng bọn họ cũng đâu nhất thiết phải rời đi. Hơn nữa, vừa rồi lặng thinh không một tiếng súng, sau khi Trương gia tắt hết đèn liền phát động tấn công, tôi chắc rằng giữa họ rất ăn ý, tuy nhiên đâu cần tắt ngấm hết lò than. Loại lò than này cũng không phải kiểu dễ dàng tắt như vậy. Nhất định phải cả nồi trà bơ cỡ lớn đổ vào mới tắt rụi thành thế này. Nếu không phải như vậy thì chẳng lẽ là đám người Đức phát động tấn công?

Người Đức kia nếu muốn giết người Trương gia thì nhất định phải có thời cơ thuận lợi. Bọn họ có thể đã âm thầm tụ tập, cho dù không thể giết hết toàn bộ, cũng có thể giết được phần lớn, sau đó mai phục người ở xung quanh dùng vũ khí bắn nốt số còn lại. Nếu là như vậy, thì trong gian phòng này sẽ là một cảnh tượng hoàn toàn khác, có thể toàn bộ người họ Trương đã bị giết chết bên trong.

Không thể nhìn thấy cái gì, tôi thực sự cảm thấy chuyện này có thể xảy ra. Tuy nhiên nếu mà Trương Hải Hạnh cũng chết ở đây thì tôi có điểm khó chấp nhận.

Trong không khí không có mùi máu, một chút cũng không ngửi thấy. Không biết do căng thẳng hay tại sao, tôi cảm giác mũi mình gần như tê liệt, tựa như bị đông lạnh.

Tôi lần mò trong người lấy ra một cái bật lửa, cũng không rõ đã do dự bao lâu, dường như lo lắng đến đánh mất khái niệm thời gian, sau đó mới bật lên.

Bởi vì thực sự quá tối, nay đột ngột ánh sáng soi ra, cả căn phòng liền hiện ra phần nào. Giật mình phát hiện, cảnh tượng đáng sợ lúc trước tôi tưởng tượng không hề xảy ra. Trong phòng không có một ai, không ai cả, phía trước chỉ là hàng ghế dựa.

Nhìn kĩ một lượt, quả thật vẫn thế, vì vậy tôi tiến tới đốt đèn, gian phòng liền một lần nữa sáng trưng.

Không một ai.

Không một vết đạn bắn.

Không có máu.

Bọn họ thực sự rời đi? Lòng tôi thầm nghĩ, chó chết thực sự không có nghĩa khí mà. Một cảm giác đặc biệt quen thuộc chợt dâng lên. Chẳng lẽ mất tích tập thể. Quả nhiên, thói quen của Tiểu Ca không phải lỗi của anh ta mà là bệnh di truyền trong gia tộc. Vấn đề là lần sau làm ơn đừng chuồn êm như vậy, dọa người quá mức rồi.

Suy nghĩ một hồi, tôi chạy ra khỏi phòng, bỗng nhiên nhận ra, vừa rồi một đường tới đây chẳng hề nhìn thấy một ai. Cả ngôi miếu giống như chết lặng.

Chương 35: Toàn bộ đều biến mất

Tôi chạy đến phòng đại lạt ma, lạt ma trẻ tuổi luôn đứng ngoài cửa lúc trước đã không thấy đâu. Đẩy cửa bước vào, bên trong là một màu tối đen, tôi lần mò đốt đèn lên trong gian phòng. Không có một ai, nhóm lạt ma cũng không thấy.

Bản thân bất giác phát run, nghĩ đến rất nhiều việc lúc trước, cảnh tượng như vậy đã trải qua rất nhiều lần.

Mỗi khi xuất hiện chuyện như vậy, nhất định đã có sự tình không hay phát sinh. Tôi vỗ vỗ đầu mình, trong lòng cầu nguyện, đi về chỗ Bàn Tử, tôi hy vọng, anh ta vẫn còn ở đó, nhất định phải ở nguyên đó.

Thời điểm tôi nhìn thấy Bàn Tử đứng cạnh bức tượng Tiểu Ca, suýt thì nước mắt tuôn ra.

Ông giời quả là có mắt, trải qua nhiều lần bất trắc, bao năm khốn khổ như vậy, rốt cuộc cũng để cho tôi một lần không bị biến thành kẻ ngốc, lão thiên gia cuối cùng cũng nương tay.

Nếu ngay cả Bàn Tử cũng biến mất, tôi lại trở thành kẻ đơn độc. Mặc dù cảm thấy mình cũng sẽ không đến mức phát điên, nhưng chắc chắn sẽ suy sụp mà làm ra những chuyện ngu xuẩn.

Bàn Tử nhìn tôi thở hồng hộc tiến vào cửa, có chút kinh ngạc nói: "Cậu không phải lại gây họa rồi đấy chứ? Sắc mặt có vẻ không giống như đã hoàn thành nhiệm vụ."

Lòng tôi nói: vậy lúc tôi thành công thì phải có sắc mặt thế nào, chẳng lẽ phải hát quốc tế ca xông tới sao? Tôi nhìn Bàn Tử nói: "Không phải tôi gây họa, tuy nhiên cũng chẳng có tin tức tốt lành gì, rất nhiều chuyện... Tôi không biết phải nói thế nào với anh, để tôi bình tâm một chút đã, sau đó cho tôi chạm vào anh một chút, xem có phải anh thực sự đang ở đây không?"

Bàn Tử chẳng hiểu vì sao, bảo: "Cậu đang nói cái quần què gì vậy?"

Chúng tôi bước vào phòng, tôi mới dần bình tĩnh trở lại. Xem ra lạt ma kia vẫn ngoan ngoãn nằm trên mặt đất. Lòng tôi thầm nghĩ thế quái nào mà Bàn Tử trông người lại bình an vô sự, chẳng lẽ đám phạm nhân cũng chọn người mà dở chứng, hay trên mặt tôi bày ra cái bộ dạng "có cơ hội đào tẩu"?

Bàn Tử hỏi lại tôi, nhưng bản thân tôi vẫn có chút bối rối không biết phải bắt đầu từ đâu, sau nửa ngày liền nhìn anh ta đáp: "Bọn họ đều đi cả rồi."

"Đi rồi? Đi chỗ nào?"

"Không biết nữa, xung quanh cũng không thấy ai, ngay cả lạt ma cũng không gặp. Có khi là đang đi ăn khuya?" Tôi tính học theo kiểu của anh ta, lời nói dí dỏm mộtchút.

Bàn Tử nhíu mày, kêu một tiếng, nói: "Cậu còn nói cậu đã có tiến bộ, tiến bộ chỗ nào? Trước kia còn có thể thét vài tiếng chói tai, nay ngay cả nói cũng không nên lời rồi. Nói cho cậu biết, kiểu hài hước trong tình huống nguy cấp chính là hài hước đặc biệt cao cấp. Hiện tại đâu đâu đều là kẻ đeo mặt nạ da, tôi không còn sức mà hài hước vớ vẩn đâu. Đặc biệt trước đây cậu không hề như thế, bây giờ bỗng nhiên như vậy, tôi lại cảm giác có chút kỳ quái. Nếu không phải tôi với cậu đã nhiều lần vào sinh ra tử, hiểu rõ được giọng điệu của cậu thì tôi đã đoán rằng cậu bị đánh tráo rồi đấy."

Tôi thấy Bàn Tử nói rất nghiêm túc, lòng cũng thấy có chút đạo lí, liền gật đầu. Bàn Tử tiếp: "Cái gì gọi là ăn khuya cơ chứ, rốt cuộc sao lại thế. Đừng nhiều lời, nói rõ ràng xem nào."

Tôi hít một hơi thật sâu, im lặng một phút đồng hồ, sau đó đem hết những gì vừa nhìn thấy, chính là các chi tiết khả nghi nói lại một lượt với Bàn Tử.

Sau khi nói xong anh ta có vẻ không tin, liền nói: "Làm gì có chuyện đấy. Nói như cậu, thì hiện tại trong miếu chỉ còn ba người chúng ta thôi sao."

Tôi nhìn anh ta: "Ít nhất thì trong những chỗ tôi đi qua, một người cũng không thấy. Tôi đã hô hoán vài lần cũng chẳng ai đáp lại. Hơn nữa điểm vô cùng kì quái là, tất cả lò than đều tắt ngấm. Nếu như gặp cướp hay có chuyện đột ngột phát sinh, thì không thể chu toàn như vậy được. Bọn họ dường như cực kì bình tĩnh mà rút hết khỏi đây."

Bàn Tử gãi gãi đầu, nói: "Bàn gia tôi không phải không cảm thấy kì quái, nhưng chuyện như thế này cũng không phải xảy ra lần đầu tiên. Điều kiện tiên quyết chính là, cậu thực sự không nhìn lầm trong cảnh tối lửa tắt đèn. Hoặc vì nhìn thấy ngoài cửa một mảnh tối đen liền không dám ra xem, hút một điếu thuốc liền quay lại."

"Con mẹ nó, anh đang nghĩ tôi là Trư Bát Giới đấy à, lười biếng, đặt điều?" Tôi nổi điên.

"Thiên Chân, cậu cứ nói thật đi, tôi sẽ tha thứ cho cậu."

Tôi không thèm đếm xỉa đến anh ta, nói: "Anh không tin thì tự đi mà nhìn. Hơn nữa bây giờ tôi cũng không phải sợ hãi, chỉ cảm thấy mỗi lần như vậy đều rất không bình thường. Lần nào mọi việc cũng không đi đúng hướng mà tôi nghĩ, làm tôi đặc biệt cảm thấy suy sụp."

Bàn Tử bảo: "Được, tôi tin cậu. Nhưng cậu có nói như vậy với tôi, tôi cũng sẽ cảm thấy không ổn. Như này đi, cậu ở lại đây canh tên lạt ma. Tôi đi nhòm qua một lần, xem có tìm ra được điểm gì cậu bỏ sót hay không?"

"Ngàn vạn lần đừng. Anh đi xem một lần, con mẹ nó, đến lúc đó lại không về nữa, anh bảo tôi đi đâu tìm anh. Tôi phải cùng tên lạt ma này sống nương tựa vào nhau, con mẹ nó nghĩ đến cũng đã thấy thảm."

Bàn Tử nói: "Vậy làm sao bây giờ, chẳng lẽ bỏ qua, rồi chúng ta đi ăn khuya?"

Tôi nghĩ ngợi rồi bảo: "Bây giờ chúng ta đi theo hướng ra ngoài ngôi miếu, tiện thể quan sát xung quanh. Đem luôn cả tên kia theo nữa, tùy tình huống rồi quyết định. Nếu trong miếu thực sự không có ai, chúng ta sẽ xuống núi ăn khuya, chờ sáng ngày mai, mới tìm người."

Bàn Tử gật đầu, tôi kéo lạt ma đặt trên lưng anh ta, rồi đi trước để anh ta theo sau, lặng lẽ đi. Đầu tiên, tôi dẫn anh ta tới nơi của Trương Hải Khách và Trương Hải Hạnh, rồi qua nhìn phòng của đám người Đức, đi tới khoảng sân của Đại lạt ma. Sau khi vòng vèo một hồi, sắc mặt Bàn Tử từ từ biến đổi, anh ta hạ giọng nói: "Mẹ nó, đúng là thật."

Lần này chúng tôi đi tới nơi khác của ngôi miếu - chỗ thường tụ tập đông người, mong tìm được kẻ khác ngoài chúng tôi, nhưng ngay một chút ánh nến cũng không thấy.

Cuối cùng cả bọn đi ra cửa lớn của ngôi miếu, Bàn Tử đẩy cửa nhìn qua lớp tuyết đọng, xoay người lắc đầu với tôi: "Thiên Chân, kiếp trước của cậu có phải đã làm rất nhiều chuyện thất đức không?"

Tôi hỏi sao lại thế, anh ta nói: "Tự cậu xem đi." Nói xong liền đứng sang một bên, để cho tôi nhìn.

Chương thứ 36: Rời miếu lạt ma

Tôi còn tưởng sau khi Bàn Tử tránh sang bên sẽ nhìn thấy cảnh tượng kinh khủng gì lắm, mà không nghĩ tới là chẳng thấy thứ gì ngoài bậc cầu thang dốc đứng đi lên. Người ta nói đường cầu thang như vậy thường nguy hiểm, rất nguy hiểm, vô cùng nguy hiểm. Sau đó thì tôi lại thấy nếu dùng hết khả năng của giày đi bộ đường dài cùng tứ chi thì thềm đá này cũng không phải quá khó đi.
Ngoài cửa chẳng trông thấy gì trừ đống tuyết lớn đã được quét gom lại. Tôi hỏi Bàn Tử: "Nhìn cái gì? Kiếp trước tôi có làm ra việc gì chẳng phải cũng do anh xúi sao?"

"Cậu xem, tuy rằng trước cửa tuyết đã được quét, nhưng chỉ tới khoảng 6, 7 bậc thang, xuống chút nữa vẫn toàn là tuyết. Chúng ta vừa rồi giằng co một hồi lâu, mà lúc tôi tới dấu chân vẫn còn ở đó. Nếu vừa rồi những người kia xuống núi thì khẳng định đã giẫm lên lớp tuyết này, điều đó chứng tỏ trong khoảng thời gian ngắn không có ai qua đây."

"Ý anh là những người đó vẫn còn trong miếu chưa đi ra ngoài sao?" Tôi hoảng sợ hỏi.

Bàn Tử nói: "Không rõ có còn trong miếu hay không..... hoặc có khi họ ra bằng đường khác."

Tôi lắc đầu. Theo tôi biết thì hẳn là không có, nếu không năm ấy Tiểu Ca xuất hiện sẽ không gây kinh ngạc đến mức đó. Nếu nói rằng có một con đường khác thì chính là tiến vào núi tuyết.

Quả nhiên, Bàn Tử bảo: "Vậy hoặc là đám người kia còn trong miếu, con mẹ nó, hoặc là họ đã đến nơi Tiểu Ca từng tới?"

Tôi lắc đầu. Không có khả năng đó, nói thế nào cũng không thông. Sau khi chúng tôi rời đi, Trương Hải Khách và Trương Hải Hạnh cũng không có bao nhiêu thời gian, bọn họ sao có thể chỉ trong thời gian ngắn như vậy mà thống nhất ý kiến, sau đó lập tức xuất phát? Trừ khi bọn họ đều uống thuốc trường xuân* mà lớn, cảm xúc đặc biệt khó nhịn.

(Trường xuân dược: Bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lực phái mạnh :D )

Vấn đề là không chỉ không thấy bọn họ, mà còn không thấy cả các lạt ma, dù sao thì lạt ma sẽ không uống thuốc ấy theo chứ?

Bàn Tử mắng vài tiếng, bỗng nhớ ra trên lưng mình còn khiêng một người, vì thế lập tức quăng người nọ xuống mặt đất, nói: "Chút nữa thì quên mất hắn. Chúng ta nghĩ nữa cũng vô dụng thôi. Trước tiên, đánh thức hắn, có lẽ tên này biết một ít sự tình cũng nên. Bàn gia tôi trong đầu vẫn rất u ám, tóm lại vẫn cảm thấy có chỗ không hợp lý, lũ người kia cứ như ma quỷ ở đây làm trò cho chúng ta xem vậy."

Bên ngoài rất lạnh, chúng tôi quay người trở về trong miếu. Bàn Tử nói: "Nếu mọi người đã không còn ở đây, thì cũng đừng quay về phòng cậu, quá nguy hiểm. Chúng ta cũng đừng quay lại phòng chứa củi vừa rồi, nơi đó rất loạn, rất không ổn. Tới chỗ của đại lạt ma, ở đó điều kiện vô cùng tốt. Chúng ta vào trong phòng ông ta nhìn một chút, có lẽ phòng ngủ của ông ta tích khá nhiều bảo bối."

Tôi nói: "Anh lại bắt đầu rồi đấy, hạ đấu thì có thể, nhưng không thể trộm của người sống được, quá là hạ cấp."

"Tôi thèm vào, tôi chỉ muốn nhìn qua thôi. Hơn nữa trong tình hình hiện nay, chúng ta có thể coi như nhân viên tìm kiếm cứu hộ. Nhân viên tìm kiếm cứu hộ dùng tài sản của người được cứu đi gây quỹ cũng đâu phải không thể."

Tôi biết có cãi cọ cùng anh ta cũng vô dụng, anh ta nhất định có rất nhiều cớ để ngụy biện, vì thế lập tức đi vào.

Trở lại phòng riêng của đại lạt ma, vừa đi vừa nói chuyện phiếm. Bàn Tử đặt lạt ma đang cõng trên lưng xuống đất. Tôi đốt hết tất cả đèn trong phòng, gẩy lò than. Lúc này trời mới tờ mờ sáng, Ngọn đèn vàng leo lét cũng không chiếu sáng được phạm vi rộng lớn.

Tình trạng của kẻ bị chúng tôi đánh ngất có vẻ càng tệ hơn, tuy rằng máu mũi và lỗ tai đều đã nghừng chảy, nhưng mắt hắn lại bắt đầu đổ máu. Tôi không ngừng nghĩ chẳng lẽ lần này thật sự giết người rồi.

Tuy nhiên tôi cảm thấy lúc dùng đế đèn đánh hắn cũng không dùng lực quá lớn, vẫn thủ hạ lưu tình, tuy rằng âm thanh nghe rất dọa người nhưng cũng không đến mức gây ra án mạng. Lúc trước khi Tiểu Ca đánh người, luôn dùng tay đánh sau gáy, nhưng chưa từng thấy ai chết, chẳng lẽ dùng hung khí đánh người hôn mê cần có bí quyết?

Tôi cầm cái bình ra sân đào một ít tuyết sạch, sau đó đặt gần lò than, tìm một mảnh khăn thấm ướt rồi lau hết máu ở lỗ mũi cùng lỗ tai, day day huyệt thái dương người kia. Sau đó dùng mảnh vải đặt trên mắt hắn ta, hy vọng cầm được máu. Vẫn nghe được tiếng hô hấp cùng nhịp tim đập, tôi có chút thở phào nhẹ nhõm.

Bàn Tử không ngừng lục tung phòng đại lạt ma, vơ vét tài vật tiếc rằng chỉ tìm được mấy cuốn sổ tiết kiệm. Anh ta hùng hổ nói, đại lạt ma này thật không có phong cách, trong nhà có chút vàng nào cũng đem gửi ngân hàng, không biết trong thời điểm này, nhân dân tệ đang mất giá hay sao. Mắng xong cũng chưa chịu dừng tay, vẫn lục lọi đến cả góc tường hay chai lọ cũng không tha.

Tôi nói gì chứ, anh ta cho đại lạt ma là người keo kiệt sao? Đem tiền giấu ở mấy chỗ như thế. Anh ta lại bảo tôi hiểu sai rồi, anh ta đang đói bụng, không lấy được tiền, chí ít phải kiếm được chút thức ăn. Vài ngày ăn đồ địa phương, anh ta đã chán ghét đến chết.

Bàn Tử nói: "Tôi xem thức ăn của đại lạt ma chắc là phải tốt hơn hẳn người khác, phải kiếm xem có bánh quy hay mì ăn liền gì không."

"Lạt ma ở đây đều rất sùng đạo, đối với cuộc sống không chú ý nhiều như vậy đâu. Bọn họ chắc chắn đều ăn thức ăn truyền thống, anh tìm làm cái gì."

Bàn Tử đáp: "Cho dù là thực phẩm truyền thống, cũng là thực phẩm truyền thống tốt, so với thứ đất sét trắng chúng ta ăn tốt hơn nhiều."

Lòng tôi thầm nghĩ lời này hơi bị quá đáng rồi. Người ta cho ở lại miễn phí thoải mái như vậy, nói mấy câu kiểu thế này tôi không thể thốt ra được.

Lục nửa ngày, anh ta cũng tìm được một gói gì đó. Mở ra thì thấy, có vẻ là thực vật phơi khô, ngửi rất thơm. Bàn Tử cầm một khối lên nhai, tôi vội can: " Đừng ăn vội, nếu là dược liệu hay thứ gì đó không thể ăn như thuốc nhuộm thì sao, anh muốn tự đầu độc mình à?"

"Có muối, cậu đã thấy ai bỏ muối vào trong dược liệu chưa." Bàn Tử vừa ăn, vừa ngồi xuống bên cạnh tôi, " Cuống lên cái gì chứ, ăn đi, ăn xong rồi chúng ta tính biện pháp. Cậu chưa từng nghe qua sao? Bàn Tử tôi có đầu của Gia Cát Lượng."

Tôi cũng ăn vài ngươiếng, hương vị quả thật không tệ. Phòng cũng dần ấm áp bởi vì các cửa sổ đều đóng kín, cảm giác chỗ này tương đối an toàn. Tôi nhìn Bàn Tử nói: " Chúng ta cân nhắc lại từ đầu xem đây là chuyện gì. Lúc trước anh bảo có việc chưa kể với tôi, giờ nói đi."

Bàn Tử nhấp ngụm trà: "Cậu có nhớ lúc tôi nói với Trương Hải Hạnh tôi là người Môn Ba, có trao đổi vài câu Tàng ngữ không."

Tôi gật đầu, bỗng nhiên hiểu ra ý của anh ta, hỏi: "Từ khi nào mà anh nói được tiếng Môn Ba, chẳng phải anh là người thất học toàn năng sao?"

"Tôi không bảo tôi nói tiếng Môn Ba, ý tôi là ở đây có một thứ tiếng không phổ biến lắm, gọi là tiếng Dát Lai, khá giống với giọng Môn Ba. Nói thứ tiếng này không tới ba nghìn người, cái này tôi dám chắc. Nhưng chỉ cần là dân địa phương vừa nghe khẩu âm của tôi là biết tôi nói càn, còn với người bên ngoài cho dù nghe người Môn Ba nói cũng không dám chắc. Lão tử nói mấy câu vặn vẹo đó tốn không ít tế bào thần kinh. Lúc đó Trương Hải Hạnh hỏi tôi bằng tiếng Môn Ba, vì vậy tôi tính toán một phen liền nói bừa. Người Dát Lai so với dân tộc thiểu số thì còn thiểu số hơn nữa nên bọn họ khẳng định không biết được. Cho nên tôi đã nghĩ cô ta sẽ nói với những người khác là cô ta nghe không hiểu. Nhưng vì cái gì đó mà cô ta không làm như vậy, nói hươu nói vượn giải thích một hồi. Vì vậy chuyện này cũng có chút kì quái."

Tôi nhíu mày: "Anh có ý gì?"

Bàn Tử nói: "Giả sử cô ta thật sự bị lừa, cho rằng tôi là dân bản xứ thì cô ta tuyệt đối không phạm sai lầm, nhất định sẽ nói cho Trương Hải Khách lời của tôi cô ta nghe không hiểu. Nhưng cô ta lại không như vậy, ngược lại còn làm bộ thuật lại như là nghe được bằng tiếng Môn Ba.

Cái này chứng tỏ Trương Hải Hạnh có vấn đề. Có vài khả năng. Thứ nhất, Trương Hải Hạnh không muốn cho người biết cô ta không biết tiếng Môn Ba."

"Vì sao? Chẳng lẽ cô ta là sợ mất mặt à? " Tôi nghĩ loại tính cách này chỉ là nhược điểm cấp thấp, người Trương gia nhất định sẽ khắc phục từ thời còn bé. Như vậy, chỉ có thể là tình huống, những người khác biết rằng cô ta hiểu tiếng Môn Ba, mà thực ra cô ta lại không biết. Cái này chứng tỏ Trương Hải Hạnh kia là giả. Hoặc cũng có thể Trương Hải Hạnh biết Bàn Tử là giả nhưng lại giúp chúng tôi.

Tôi cau mày nói: "Nhưng bộ dạng nổi cáu của cô ta lúc trước không giống như là giả."

"Cậu không nghĩ tới Tiểu Ca à, Tiểu Ca bình thường là cái bộ dạng gì, nhưng khi anh ta cải trang lại thành dạng gì? Con mẹ nó chứ, đám người kia đều là ảnh đế, ảnh hậu cả đấy."

Trong đầu tôi đột nhiên hiện ra nghi thức trao giải Oscar, Tiểu Ca cùng Trương Hải Hạnh đồng thời lên đài nhận giải. nhưng lập tức xua tan ý nghĩ kì quái đó, tôi nhìn Bàn Tử nói: "Nói như vậy, kì thật trong Trương gia cũng có vấn đề."

Anh ta gật đầu: "Tôi cảm thấy khả năng là có sự trà trộn vào, nhưng việc này rất quan trọng, cụ thể thế nào bây giờ còn chưa nói chắc được. Dù chúng ta có tìm được họ, cũng không thể hoàn toàn tin tưởng họ được."

Tôi gật đầu, lòng rất hỗn loạn, đấu đá, điều tra bí mật, các thế lực đan xen cùng một chỗ. Nếu ngay cả Trương gia cũng có vấn đề, thì chứng tỏ độ rối ren còn vượt xa sức tưởng tượng của chúng tôi. Nhất định không phải đi mật báo gì đó là có thể xử lý.

Hiện tại nếu tình huống là như thế, tôi thật sự nảy sinh một ý niệm trong đầu: mục đích cốt lõi của những điều này là gì?

Tất cả việc tôi đã trải qua hỗn loạn không chịu nổi, các chuyển biến cũng không trùng khớp. Nếu đây là một bộ phim truyền hình, thì đầu óc ông đạo diễn có vẻ có chút vấn đề, còn nếu không thì là do thủ pháp biểu hiện quá cao siêu, tôi không cách nào lí giải được.

Bàn Tử nghĩ ngợi, lắc đầu, nói: "Kỳ thật, tôi có một số manh mối, có thể cậu sẽ chẳng thích nghe."

"Vì sao?"

Anh ta nói: "Chờ, tôi đi lấy tờ giấy vẽ cho cậu xem."

Chương 37: Vua phá án

Sau đó Bàn Tử lấy từ trên bàn một mảnh giấy, chọn một cây bút rồi bắt đầu viết. Nhìn dáng vẻ này, tôi hiểu là anh ta bắt đầu dùng đến phương pháp điều tra đặc trưng của mình.

Anh ta nói: "Đầu tiên chúng ta nhất định phải làm rõ nhóm người này đã đi bằng cách nào. Đây là một ngôi miếu biệt lập giữa sườn núi, mặt sau là tuyết sơn, mặt trước chỉ có duy nhất một đường lên núi. Toàn bộ ngôi miếu cũng vô cùng lớn."

Bàn Tử vẽ hình dáng một ngôi miếu rồi hỏi tôi có đúng hay không, tôi liền giúp anh ta sửa lại vài chi tiết.

"Cậu xem, đầu tiên, tôi có thể khẳng định bọn họ chắc chắn không hề xuống núi, trừ phi cả đám trực tiếp nhảy hoặc lăn xuống, mà tôi không nghĩ họ ngu như vậy. Thứ hai, bọn họ đều mang đủ trang bị, giả sử nếu tôi muốn làm cậu kinh sợ hoặc muốn tạo một tình huống mà mình đột ngột mất tích thì sẽ không dùng cách này. Tôi sẽ đốt toàn bộ đèn, kiểu như mọi người còn đang ở trong nói chuyện, thực chất là đã đem toàn bộ trang bị mang đi. Tuy nhiên hiện tại, đèn đều bị dập tắt chứng tỏ bọn họ cũng chẳng muốn làm cậu bối rối, cũng không ngại để người khác biết được bọn họ đã rời đi, đúng không?"

Tôi gật đầu.

Bàn Tử tiếp: "Nếu là tình huống như vậy, có thể họ đã không xuống bằng cửa trước. Mà cậu thì cho rằng họ không có khả năng tiến vào tuyết sơn, vậy thì có lẽ nhóm người đó đã chọn một con đường mà chúng ta không biết tới."

Với tình huống hiện tại, suy luận như thế là hoàn toàn hợp lý.

Tôi tiếp tục gật đầu.

Anh ta vẽ bên ngoài mô hình Miếu lạt ma một vòng tròn lớn: "Ngôi miếu này nhất định có chỗ bí mật mà chúng ta không rõ, một con đường nối bên trong với bên ngoài chẳng hạn. Vị trí này vốn cũng rất bất thường, thực có thể cũng không đơn giản như chúng ta nghĩ. Có lẽ đã có người bí mật bố trí bên trong, như vậy nói không chừng nơi này có một số đường hầm hoặc phòng bí mật."

Tôi ngẫm cũng cảm thấy có lí.

Ngôi miếu này có kết cấu cực kì phức tạp, nhiều phòng quá mức, ngay cả người ở đây cũng chỉ hoạt động trong một khu vực nhất định, rất nhiều khu vực còn chưa từng đến. Hơn nữa, ngôi miếu rất giống được thiết kế, không phải kiểu thi công tự phát mà thành, nói cách khác, ít nhiều đã có nghiên cứu về mặt phong thủy.

Tôi học ngành kiến trúc nên luôn có cảm giác này, nhưng dù sao đây cũng là Miếu lạt ma, không phải phạm trù của tôi nên cũng chẳng dám nói nhiều.

Bàn Tử còn nói: " Kế tiếp, chúng ta thử xem xét nơi ở của những người đó xem có thể tìm ra đường hầm hay không?"

Sau đó anh ta đánh dấu trên hình phòng ở của đại lạt ma, rồi tới anh em Trương Hải Khách, đám người Đức, cùng nơi ở của vài người nữa.

"Cậu xem, bọn họ phải đi về lấy trang bị." Bàn Tử vẽ một con đường, chỉ vào đó rồi nói, "các lạt ma khác sống ở đây và ở đây, tôi không rõ họ còn ở đó không, chúng ta có thể đi coi thử. Nếu bọn họ không lấy trang bị lúc ấy thì chứng tỏ họ cũng đã trở về phòng từ trước đó. Vì trong lúc thảo luận với người Đức, vừa muốn trở về thu dọn đồ đạc, vừa muốn rời khỏi đây mau lẹ, thì không thể huy động nhanh như vậy. Hay nói cách khác, nếu muốn âm thầm rời khỏi đây thì tất cả phải hoạt động trong khu vực này, mới có thể làm kịp. Chúng ta có thể chứng thực được, xem chạy qua chạy lại những chỗ này mất bao nhiêu thời gian, rồi tự hỏi nếu chúng ta bị nhốt thì sẽ ra sao, đại khái có thể tìm ra đường đi nước bước của họ."

Tôi nhìn Bàn Tử, thầm nghĩ ý định của anh ta cũng thật rõ ràng, không rõ đã bao nhiêu lần tôi phải tán thưởng đầu óc nhanh nhạy của anh ta. Trải qua thời gian dài tĩnh dưỡng như vậy, mạch suy nghĩ của Bàn Tử dường như càng mạch lạc hơn trước.

Tuy nhiên anh ta nói những lời này, làm cho lòng tôi lộp bộp một tiếng. Nhìn vào lạt ma vẫn đang nằm dài trên nền đất, tôi nghĩ thầm, liệu có phải như vậy hay không, nhìn sang Bàn Tử, nói: "Lạt ma cầm súng lục này, muốn bắn chúng ta để làm gì? Hắn không muốn giết người, nhưng lại cố kéo dài thời gian. Chẳng lẽ là vì ....."

Bàn Tử lập tức ngắt lời tôi: "Lúc trước tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng không có khả năng đó." Anh ta chỉ lên vết sẹo trên đầu mình: "Muốn cho viên đạn sượt qua trán tôi mà không giết chết tôi là việc vô cùng khó. Việc đó chỉ có thể là ngoài ý muốn thôi."

"Có lẽ anh ta chỉ là không muốn giết tôi, còn anh không quan trọng."

Bàn Tử nghĩ ngợi một hồi, nói: "Lời này cũng có lí." Rồi đánh mắt sang chỗ lạt ma đang hôn mê, nhổ bãi nước bọt: "Con mẹ nó, đúng là phân biệt đối xử, Bàn Tử tôi không phải là người sao."

Tôi nhìn anh ta nói: "Vừa rồi tôi chợt nảy ra một ý, thôi cứ nói thẳng luôn. Kỳ thật, có một vài tình huống có thể lí giải mâu thuẫn này. Ví dụ, trong đấu trường La Mã cổ người ta đem một con hổ và một con sư tử nhốt trong lồng sắt, hổ vô cùng khỏe, sư tử vô cùng nặng, sau đó đưa võ sĩ giác đấu đẩy vào. Phía sau trận đấu của võ sĩ cùng sư tử và hổ còn có rất nhiều nhân công. Nếu lúc này bọn họ thả hổ cùng sư tử ở trong lồng ra thì anh cảm thấy sẽ có tình huống nào xảy ra?"

Bàn Tử trầm mặc một hồi lâu, nói: "Tôi hiểu rồi, ý cậu là bọn họ là nhân công còn chúng ta là lão hổ?"

"Sai, chúng ta là võ sĩ giác đấu, hổ và sư tử được thả ra, toàn bộ nhân công đương nhiên phải sơ tán." Tôi nhìn ra cửa sổ, "trong khi võ sĩ giác đấu còn ngơ ngẩn, thì đám nhân công đã ẩn náu, có lẽ hổ và sư tử đang ở nơi chúng ta không biết, quan sát chúng ta."

Kỳ thật tôi đoán như vậy cũng có chỗ bất hợp lí, bởi vì nếu thế thì chuyện này phát triển không ổn chút nào. Đám người Trương gia cùng số người Đức, còn cả tình hình của đại lạt ma, bọn họ không có khả năng là cùng một nhóm. Nhưng thì bọn họ cũng không thể thống nhất ý kiến trong thời gian ngắn như vậy.

Có lẽ là một tình huống khác, thời điểm Trương gia và đám người Đức đang đàm phán, có lạt ma bỗng chạy tới, nói với bọn họ: "Chạy mau, nơi này xảy ra chuyện rồi." Vì thế bọn họ gác lại tâm tình, chạy trước nói sau.

Từ từ đã, có thể hay không vị lạt ma kia được phái tới thông báo cho chúng tôi, nhưng không biết vì đâu lại hiểu nhầm, cho rằng nhóm tôi là hổ, sư tử nên mới dùng súng bắn người.

Tôi lập tức tiến tới xem xét lạt ma kia, lòng thầm nói, đại sư, thí chủ ta thực lòng không cố ý. Lần này là ý định thật tâm muốn chăm xóc hắn, theo như cách nói của Bàn Tử thì là kiểu tâm lí áy náy dâng trào chứ không phải muốn ưu đãi tù nhân. Lúc tôi dùng nước nóng xoa bóp cho lạt ma kia thì đột nhiên hắn ho khan hai tiếng, cuộn người lại. Tôi lập tức đỡ hắn ngồi dậy, sau khi tỉnh lại liền chậm rãi mở mắt nhưng có vẻ vẫn rất mơ màng.

Bàn Tử vỗ nhẹ lên mặt hắn: "Này, người anh em, ngươi nói xem có phải ngươi kì thị người béo không?"

Anh ta nhìn hết Bàn Tử lại quay sang tôi, mặt đột nhiên biến sắc, đứng phắt dậy. Nhưng có thể do lúc tôi đánh vận khá nhiều lực, nên sau khi đứng dậy hắn lại ngã xuống mặt đất, bắt đầu nôn thốc nôn tháo.

Chờ hắn nôn xong, tôi lại túm hắn dậy. Tên đó nói: "Giờ là lúc nào rồi?" Kia là nói một câu bằng tiếng Hán phổ thông.

Tôi nhìn đồng hồ, bảo trời sắp sáng. Sắc mặt hắn lập tức trắng bệch, mò mẫm mặt đất muốn đứng dậy, thều thào: "Xong rồi, xong rồi. Chết chắc rồi."

Tôi vừa định hỏi là sao, thì hắn đã nói tiếp: "Đừng nói gì hết, mau, các người mau đóng hết cửa sổ lại. Mau....Mau.....Mau!"

Có lẽ vì ngữ khí cùng biểu cảm của hắn quá rõ ràng, cái loại sợ hãi phát ra từ tâm can, không giống như giả bộ, cho nên tôi cùng Bàn Tử lập tức làm theo đóng hết các cửa sổ lại.

Lúc ấy chúng tôi cũng không có nghĩ nhiều, bởi vì sau khi trải qua quá nhiều chuyện, chúng tôi hiểu rằng, biểu cảm của con người rất khó ngụy tạo. Đây giống như là một bản năng, tôi cơ bản có thể từ biểu cảm của một người mà lập tức đoán được chuyện này có phải thật hay có âm mưu đứng sau. Đương nhiên Tiểu Ca là ngoại lệ, vẻ mặt của anh ta chỉ có một, tư liệu sống quá ít.

Trong quá trình đóng cửa tôi luôn nhòm ra ngoài nhưng chẳng thấy thứ gì, ngoài cửa sổ vẫn là khung cảnh ấy. Sau khi đóng hết các cửa lại, trong phòng chỉ còn mấy ngọn đèn chiếu sáng, khung cảnh có chút thần bí.

Bàn Tử đi qua đi lại, nói: "Anh đừng đùa giỡn với bọn tôi. Vốn tôi với anh cũng không có ác ý gì, nhưng nếu thực sự muốn đùa bọn này, tôi nói cho anh biết, tuyệt đối anh chịu không nổi đâu."

Lạt ma đáp: "Cục diện cho đến hiện tại đều là giả. Nhiều nhất là trong nửa giờ tới, các người sẽ thấy mọi chuyện so với tôi nói còn nghiêm trọng hơn. Hiện tại nếu các người nghe tôi thì may ra còn có con đường sống."

Bàn Tử quay sang nhìn tôi, kì quái nói: "Chẳng lẽ đây là ngày ác quỷ tụ họp, hàng năm cứ vào ngày X tháng X khi trời vừa sáng sẽ xuất hiện. Đó là cái gì mà lợi hại như vậy, khiến anh phải sợ tới mức này sao?"

Hắn nói: "Ác quỷ cái gì chứ?"

Tôi cùng Bàn Tử đưa mắt nhìn nhau, chẳng hiểu gì cả, hắn thì đã bắt đầu cởi lạt ma bào. Tôi phát hiện thân thể tên này được rèn luyện vô cùng tốt, cơ bắp hết sức rõ ràng, các sợi cơ như thép, chắc chắn là được huấn luyện rất bài bản. Hắn vừa cởi vừa nhìn chúng tôi nói:

"Hãy cởi áo ra đi."

Chương 38: Thoát thân

Tôi cùng Bàn Tử chẳng hiểu tại sao nhưng vẫn làm theo. Cởi xong, hắn bắt đầu hất toàn bộ than trong lò xuống sàn nhà gỗ, than củi cháy bừng bừng, sàn nhà nhanh chóng tỏa ra mùi khét lẹt. Hắn còn dùng áo choàng bịt kín đống than làm nó tắt rụi. Sau khi dập tắt lò than lại dùng quần áo của chúng tôi gói một ít tro than nóng, bọc lại, bảo chúng tôi ôm vào người.

Xong đâu đấy, lạt ma kia tóm lấy tay tôi, nhìn nhìn đồng hồ trên tay rồi nói: "Bây giờ nội trong ba phút các người phải nghe hiểu những gì tôi nói, hơn nữa còn phải làm theo bởi vì chúng ta không còn thời gian để hỏi đáp. Cái gói trong tay các người hiện tại có thể là cơ hội sống duy nhất."

Tôi cảm thấy thật quái dị, nếu là nói từ bây giờ trời sẽ trở nên vô cùng lạnh cho nên chúng tôi cần có đồ để sưởi ấm, vì vậy phải cởi áo rồi ôm cái bọc quần áo nóng rẫy này, có vẻ như điều đấy chẳng có tác dụng gì lắm. Cái bọc này có thể giúp chịu được giá rét sao? Chúng tôi thân trên đều để trần, việc này so ra chả có lấy một chút ý nghĩa. Nếu không phải như vậy thì cái bọc này có tác dụng gì? Chẳng lẽ bởi vì thứ tro bên trong?

Bàn Tử hỏi: "Có phải chúng ta đem bụi này đi tạt mắt địch nhân, làm mù mắt bọn họ?"

Lạt ma kia hết sức thái độ, quát: "Đừng nhảm."

Bàn Tử vừa định quát lại thì bỗng nhiên toàn bộ cửa phòng đại lạt ma chợt chấn động. Tên lạt ma nhìn nhìn cửa sổ, nhìn chúng tôi làm động tác giữ im lặng. Hai người nhanh chóng bịt chặt miệng, điều chỉnh hô hấp. Ngoài cửa sổ thủy tinh không biết từ bao giờ xuất hiện rất nhiều bóng đen kì quái.

Những bóng đen này vô cùng mờ, giống như hình dạng cành cây in ngoài cửa sổ. Nhưng chúng tôi hiểu rằng không phải thế, vì trong sân vốn không có cây. Lạt ma kia nhìn chúng tôi cúi rạp trên nền nhà, liền nắm gáy lôi đứng dậy, sau đó chỉ vào bọc than chúng tôi đang ôm, dùng một giọng vô cùng nhỏ nói: "Ôm cái này, rồi chạy theo tôi với tốc độ nhanh nhất." Dứt lời hắn chỉ chỉ cửa, ý bảo Bàn Tử ra mở.

Toàn bộ các khung cửa rung lên kịch liệt. Trong lòng tôi đặc biệt sợ hãi vì tôi hiểu sau khung cửa chắc chắn có thứ không bình thường. Nhưng nó rốt cuộc là cái gì? Nếu chúng là những thực thể tồn tại, là người hay quái vật, thì bóng dáng in trên cửa nhất định càng đen càng đậm. Nhưng đây chỉ là những đốm loang lổ, tôi căn bản không tưởng tượng được bên ngoài là sự gì. Hơn nữa lúc trước khi ra đóng cửa, tôi đã xem xét bên ngoài, không hề thấy gì khác thường. Hiện tại mới qua một chút thời gian mà đã thành ra cục diện này. Mấy thứ kia rốt cuộc từ đâu tới? Tôi cảm thấy lời lạt ma kia có lẽ không sai, bởi vì bất kể thế nào, hắn sẽ không tự đưa mình vào chỗ chết.

Tôi nhìn sang Bàn Tử, gật gật đầu. Bàn Tử cùng lạt ma lần mò tới cạnh cửa, sau đó chậm rãi mở ra. Đột nhiên, lạt ma bước ra một bước, trong khoảng khắc đó hắn hất toàn bộ bụi than của mình về phía người tôi và Bàn Tử, rồi co giò chạy như điên.

Hai chúng tôi bị đống bụi than làm không thở nổi, dính đầy toàn thân, không ngừng phủi. Không chờ tới khi cả hai nhìn ra tình hình trước mắt, đã có vô số côn trùng có cánh từ cửa bay vào. Trong giây lát, một trời đầy trùng ập tới chỗ chúng tôi. Cả căn phòng ngập tràn cái giống như ruồi bọ, tôi càng không ngừng gạt đi thì phát hiện đám trùng này vô cùng lợi hại, vừa bám vào người liền chui vào trong da. Tôi còn chưa kịp đập phát nào, trên người đã thấy đầy thương tích. Lúc này, mắt tôi mới có thể trông thấy tình trạng phía trước, nhất thời mắt trợn tròn.

Trong sân dày đặc toàn côn trùng, đám côn trùng này cứ như bắt sóng được thứ mùi gì đó trong phòng mà xông đến. Chết tiệt, đám trùng này không biết từ đâu mà tới, vài phút trước vẫn tuyệt nhiên không thấy. Ngôi miếu này là sao vậy, người thì bỗng nhiên mất tích, trùng thì tuồn ra cả tấn.

Bàn Tử so với tôi còn thảm hại hơn, rống lên: "Con mẹ nó, con lừa chết tiệt ấy lại ám toán chúng ta."

"Vì cái gì mà trùng không cắn thằng cờ hó ấy, toàn nhắm vào chúng ta?" Tôi hỏi.

"Nhất định là do đám tro kia, mau đưa tôi cái bọc." Tôi cùng Bàn Tử đem bọc chứa tro than ném vào bờ tường, quả nhiên đám trùng liền bay theo hướng đó. Rất nhanh, chúng vây lấy bọc quần áo, cắn tan thành nhiều mảnh nhỏ. Đám trùng chui vào bên trong tro than nóng rẫy lập tức chết cháy, nhưng lớp trước ngã xuống, lớp sau lại xông lên. Đến lúc này, chúng tôi mới có cơ hội thở một hơi, thoái lui đến góc phòng sáng sủa.

Nhìn đám trùng này thì phát hiện chúng giống với đom đóm. "Đom đóm thế quái nào mà lại cắn người?" Bàn Tử nói.

Tôi cảm thấy vô cùng kì lạ, bởi vì đom đóm vốn sống ở nơi ẩm ướt. Ở cái chỗ rét lạnh nhiều năm nhiệt độ về âm như thế này sao lại có đom đóm tồn tại. Tro than vì sao lại hấp dẫn chúng, chẳng lẽ là do nhiệt độ? Tên lạt ma kia đã giăng bẫy chúng tôi, làm chúng tôi ôm tro than nóng để nhiệt độ cơ thể cao hơn so với hắn, vì thế đám trùng ấy bay về chỗ chúng tôi để hắn có cơ hội chạy trốn. Nếu là như vậy thì không hay rồi, nhiều trùng như vậy mà than sẽ nguội dần, chúng rất nhanh sẽ phát hiện chúng tôi cũng thân nhiệt cao hơn. Làm sao bây giờ?

Côn trùng trong phòng vẫn dồn dập bay vào đống tro than. Côn trùng bên ngoài thì đổ xô tiến lại trong này, xung quanh đống than không có chỗ chen liền bay loạn, nửa nhắm vào lò than, nửa nhắm đế đèn, còn một số rải rác phát hiện thấy chúng tôi, liền bay tới, lập tức bị chúng tôi đập chết. Bàn Tử nói: " Nếu chúng đã thích lửa như vậy, không bằng chúng ta nhóm cho to lên"

Nói xong, Bàn Tử liều mạng phi thân tới bên cạnh lò than, một cước đem lò than lật xuống, than nóng lăn trên nền gỗ. Anh ta đem hết vô số hồ sơ trên bàn cùng kinh phật ném vào trong lửa, sau đó nhìn tôi nói: "Mau hỗ trợ, đem tất cả những gì có thể đốt được ném vào đây. Chúng ta cần một nguồn nhiệt lớn, hấp dẫn toàn bộ số trùng tới."

"Anh định phóng hỏa cả ngôi miếu à."

"Tôi chả cần biết, bây giờ còn để tâm nhiều như vậy. Chúng ta mặc đám lạt ma bọn họ, không cần thay họ suy nghĩ làm gì, nói không chừng bọn họ đã mua bảo hiểm trước rồi."

Lòng tôi thầm nghĩ cũng đúng, quan tâm nhiều chuyện làm gì, chạy bảo mạng bây giờ quan trọng hơn. Vì thế lập tức vơ vét các thứ trong phòng, vừa phẩy vừa dùng chăn bông ném vào trong lửa. Chăn bông thực rất dễ cháy, lập tức tỏa nghi ngút khói đen, rất nhanh trong phòng đã bị khói bao phủ. Bàn Tử nhìn tôi hô: "Không cần thả chăn bông nữa, cậu định hun khói chúng ta sao?"

"Khói đen này có thể đuổi chúng đi."

"Cậu không thấy chúng ngay cả lửa cũng không sợ sao, chúng thích nhiệt độ cao đủ để vượt xa sự sợ hãi rồi. Cậu không giết chết chúng, mà biến hai ta thành thịt hun khói trước thì có."

Bàn Tử nói thì cũng đã quá muộn, cả căn phòng giờ chìm trong khói. Chúng tôi chỉ có thể khom lưng, tiếp tục nhóm lớn ngọn lửa. Rất nhanh, phòng đại lạt ma dần biến thành một đống lửa trại cực lớn. Đàn trước rơi xuống, đàn sau lại lao thân lửa trại kia. Mỗi khi chúng tôi nhóm được lớn hơn một chút, chúng lại tiến vào làm rụi bớt đi, dường như trong cơ thể chúng toàn là nước.

Cả phòng có thứ gì đốt được đều bị chúng tôi đem nhóm hết, khói lửa phủ kín nóc nhà, mà trùng thì vẫn chưa thấy hết. Bởi vì khói quá dày đặc nên cũng không nhìn thấy tình hình trong sân, chẳng rõ giờ chạy ra còn nguy hiểm nữa không. Bàn Tử nói: "Chúng ta chắc chắn không thể đi ra sân, nhìn thử xem phòng này còn lối khác hay không. Không cần mở cửa sổ đối diện sân, mở cửa phía sau núi ấy, nhìn thử xem tình hình thế nào."

Tôi gật đầu, phủi rơi đám trùng trên người, nhanh chóng chạy tới cửa sổ phía sau núi, vừa cẩn thận mở ra, ngay lập tức phát hiện có gì đó không đúng. Toàn bộ nhà gỗ đã bị đám trùng vây kín, mới hé của ra chúng đã đổ xô tới. Tôi vỗ mặt mình, nhìn Bàn Tử lắc đầu: "Tình hình không mấy lạc quan, đám trùng này không biết từ đâu tới, ít cũng phải trên triệu con."

"Chuyện này thật không hợp lí, tại sao lại như vậy được? Thiên Chân, có phải chúng ta ngủ mơ không, cậu thử véo tôi một phát xem có đau không?"

"Điên, cần gì." tôi chỉ miệng vết thương trên tay anh ta, "Anh bị cắn thành thế này mà không thấy đau sao? Là mộng thì đã sớm đau quá mà tỉnh rồi."

Nói xong tôi liền nghĩ, chợt ngộ ra, nhớ tới lúc trước khi gặp phải trùng, liền nhìn Bàn Tử nói: "Anh có đem dao không?" "Gì chứ, định tự tử à? Hiện tại tự tử còn sớm quá. Yên tâm đi, nếu quả thực không ổn, tôi cũng sẽ một đao chém cậu chết, không để cậu có phải chịu đau đớn đâu."

Tôi nói: "Bớt nói nhảm đi. Đưa con dao cho tôi. Tôi cao số lắm, cho dù tôi tự đâm mình, mười dao cũng chẳng chết được đâu, tôi cũng không muốn chết dưới dao của anh. Vận mệnh của tôi tôi không muốn để người khác nắm giữ, cho dù chúng ta có là bằng hữu tốt, tôi cũng không muốn anh nhúng tay vào."

Bàn Tử hít một hơi, rút ra con dao giấu ở thắt lưng. Tôi đem con dao miết một đường trên bàn tay mình, lập tức cắt thành một vết thương sâu, máu chảy ra.

Bàn Tử hỏi: "Làm gì thế, cậu không biết cổ tay mình đặt ở đâu sao. Cổ tay không phải ở đó, cắt cổ tay phải ở chỗ này này. Kia là cắt bàn tay rồi, có đem bàn tay chặt đứt cũng chẳng chết nổi đâu."

"Con mẹ nó, anh có nói linh tinh ít thôi không, nhìn đây." Tôi cầm máu trên tay mình, vẫy vào đám trùng phía trước. Máu văng ra ngoài, rơi xuống nền nhà, đột nhiên cả đám trùng dãn ra, tựa như đang né chỗ máu của tôi.

Bàn Tử nói: "Uầy, cậu cũng làm được sao."

Tôi mừng húm lên, không thèm để ý đến anh ta, đưa tay ra quệt lên người Bàn Tử mấy phát. Sau đó tiến vài bước về trước, đám trùng này như đỉa phải vôi, toàn bộ rầm rầm mở đường thoát.

Chương 39: Cạn máu

Bàn Tử liếc nhìn tôi, tôi bèn quay về phía anh ta nói: "Tôi không biết gì đâu, tôi cũng không hiểu tại sao máu tôi lại có tác dụng như vậy, theo tôi." Nói xong hai người cùng vọt ra sân.

Tôi áp bàn tay chảy máu xuống sát mặt đất, một đường tiến về phía trước. Tất cả đám trùng đều tránh xa, thậm chí trên người chúng tôi một con cũng không có. Cả hai thuận lợi ra tới cửa sân trong.

Bất thường là bên ngoài chỗ vừa rồi một con trùng cũng không thấy. Bàn Tử quay người đóng cửa nói: "Chết tiệt, chúng ta phải đăng một mẩu tin ngoài cửa này, nói cho người khác biết bên trong có ác trùng. Đám trùng này cũng thật quy củ, chỉ thích chạy quanh trong sân. Chúng ta mau rời đi thôi."

"Đừng nhiều lời, tìm một nơi nghỉ ngơi và hồi phục đã, nếu không máu của tôi chảy hết mất. Vừa rồi chém sâu quá. Quãng đường xuống núi lại dài như vậy, nếu không cầm được máu thì tôi khẳng định chỉ có chết giữa sườn núi."

Tự cắt tay mình cũng phải có phương pháp. Tiểu Ca có thể tự cắt tay ngầu như vậy, phỏng chừng lúc trước cũng chịu không ít đau khổ.

Bàn Tử nhìn vết thương trên tay tôi chảy đầm đìa máu, liền trách: "Quá lãng phí rồi. Cậu thực sự không biết củi, gạo, dầu, muối trong gia đình quý thế nào à. Bây giờ đi đâu đây?"

"Chúng ta tới khoảng sân có pho tượng Tiểu Ca."

Bàn Tử hỏi: "Tại sao?"

"Không biết, tôi chỉ là cảm thấy những nơi có mặt Tiểu ca đều sẽ an toàn hơn. Anh ta không có ở đây, nhưng có bức tượng của anh ta còn hơn không có gì."

Bàn Tử nói: "Con mẹ nó, cậu cũng quá là mê tín." Nói xong liền chạy trước tôi.

Lòng tôi thầm nghĩ tại sao phải lập tượng Tiểu ca, chẳng lẽ là vì khi anh ta ở đây đã đẩy lui đám trùng này?

Dù sao trong lòng tôi, chỗ pho tượng Tiểu Ca vẫn có ít nhiều điểm khác biệt với những nơi còn lại. Điều tôi không ngờ tới là cái thứ đồ copy cat kia lại càng làm chúng tôi thêm nhức đầu.

Tiếp tục đi về phía trước, tôi phát hiện toàn bộ những nơi khác trong Miếu lạt ma đều không có trùng. Chúng tôi một mạch chạy tới cạnh tượng Tiểu Ca. Lúc này trời đã sáng, Bàn Tử cũng lần đầu tiên trông rõ bộ mặt của bức tượng.

Bàn Tử nhìn nhìn, cảm thấy rất kì quái, nói: "Vì cái gì mà ở nơi này nét mặt Tiểu Ca trông rất bi thương?"

"Trước cứ kệ đi, để kiểm tra xem thương tích ra sao đã."

Chúng tôi vào một căn phòng, bởi vì chỗ này gần như bỏ hoang nên bên trong chẳng có lò than, sắc mặt hai người lạnh tới tái xanh đi. Tôi dùng tốc độ nhanh nhất kiểm tra trên lưng Bàn Tử và trên người tôi, phát hiện thương tổn do đám trùng cũng không lớn. Đầu chúng tuy rằng cắm sâu vào da, nhưng dường như cũng chỉ hời hợt muốn kiếm tí máu mà thôi. Trên người Bàn Tử có mấy con trùng đã hút no căng, tôi bèn lấy tay vỗ thành ra trên tay dính đầy máu. Mà trùng trên người tôi đều đã chết, bản thân cũng không có thời gian mà đi xử từng con một, đành trực tiếp lấy tay vuốt qua một lượt. Trên lưng tôi chắc chắn còn rất nhiều, nhưng thực sự không thể xử lý hết được, trong lòng nghĩ: con mẹ nó, tên lạt ma này quả là ác, bảo lão tử cởi quần áo, tạo điều kiện cho lũ sâu hút no máu.

Tôi để Bàn Tử xử lí miệng vết thương trên tay. Tay tôi trông vô cùng thê thảm, huyết tương dính vào lòng bàn tay, máu vẫn không ngừng chảy ra. Bàn Tử dùng thắt lưng buộc chặt cổ tay tôi để cầm máu, sau đó làm sạch vết thương:

"Sao cậu không chặt rời hẳn ra đi, cậu đã cắt sâu gần tới giữa bàn tay rồi. Vết này phải khâu, Bàn gia tôi tuy rằng tay nghề may vá không tồi nhưng ở đây lại không có dụng cụ. Tôi chỉ có thể sử dụng cách cũ."

"Anh định làm gì?" Tôi nhìn Bàn Tử lấy ra súng lục, mở ra tháo đạn, bắt đầu dùng răng cắn.

"Anh muốn hỏa thiêu luôn một thể hử?"

"Tin tôi đi, ổn thôi." Bàn Tử cầm viên đạn đã mở ra, dốc thuốc súng để sang một bên, dùng quần lau vết máu trên tay tôi, lấy tay giữ chặt miệng vết thương, sau đó đổ hết thuốc súng vào.

Cái cảm giác đau đớn ấy bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, tuyệt đối không thể lấy việc rắc muối lên vết thương để hình dung, so với rắc muối thì phải đau hơn nữa vì đó là thuốc súng.

Sau khi xong việc tôi gần như chết ngất, Bàn Tử hỏi: "Lửa đâu?"

Tôi bèn lấy cái bật lửa đưa anh ta, anh ta liền bật hướng vào số thuốc súng, nhưng hoàn toàn không thấy gì.

"Ai, thuốc súng này chất lượng kém quá."

Tôi đau đến ứa mồ hôi lạnh, nhìn lòng bàn tay thì thấy, thuốc súng đã bị máu làm ướt đẫm. Tuy nhiên máu đã ngưng chảy, lòng tôi thầm nghĩ thôi cứ như vậy đi, muốn giúp đỡ Bàn Tử một lần cũng thật khó.

Lúc này tôi mới cần thận quan sát đám trùng đó, phát hiện chúng không phải đom đóm mà là một loại bọ cánh cứng nhỏ rất lạ.

Bàn Tử ra đóng hết tất cả các cửa, sau đó xử lí đến đám sâu chết trên lưng tôi. Nhìn vào bàn tay không còn chảy máu, tôi mới nhẹ nhàng thở phào, bỗng nhiên chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng động. Chúng tôi nhìn theo cửa sổ thì thấy, không biết từ lúc nào chỗ này đã đầy bóng dáng dày đặc, nhưng
hình dạng dường như so với lúc trước không giống cho lắm.

Tại sao lại đột ngột xuất hiện? Đám trùng cho dù tụ tập lại đây thì cũng vẫn phải theo quy trình đó ư? Thế quái nào mà mỗi lần đều như vậy?

"Đừng có đụng vào cái thứ này, nó so với đám lúc trước còn lợi hại hơn."

Tôi quả thực không thể hiểu nổi, hình như không chỉ những loại trùng giống nhau hợp lại, ở đây còn là mấy con hết sức quái lạ.

Chúng tôi đem đám trùng chụp xuống mặt đất giết chết thì thấy hình như bọn chúng không sợ máu tôi.

Tuy nhiên số trùng ở đây đã ít hơn lúc trước, cả hai liền nhanh tay gia cố cửa giả, che hết các ngóc ngách. Lúc này ở bên ngoài bóng đen mỗi lúc một dày đặc hơn, chấn động cũng ngày càng lợi hại.

Bỗng nhiên, tôi nghe trong sân có tiếng người hô: "Cứu mạng... Cứu mạng..." lòng tôi hết sức kinh ngạc, Bàn Tử chửi: "Chó má, đám trùng này còn có thể nói chuyện."

Tôi cảm thấy không phải, nghĩ thầm: chẳng lẽ pho tượng Tiểu Ca sống lại, kêu cứu ở bên ngoài.

Uỳnh... Đột nhiên cánh cửa bị phá thông, một kẻ toàn thân đổ máu từ bên ngoài lăn vào, ngã trên mặt đất, trên người là bám dày đặc trùng.

"Tiểu Ca?" Tôi kêu lên, "Bức tượng thực sự sống dậy?"

Chương 40: Hiểu lầm

Nhìn kỹ lại phát hiện thật ra không phải Tiểu Ca, mà chính là tên lạt ma vừa mới hại chúng tôi. Bộ dạng của hắn giờ cơ bản không thể miêu tả lại bằng lời được. Trên người chi chít đầy trùng, đám trùng này tôi còn chưa từng thấy qua, trừ bỏ cái đám giống muỗi lúc vừa nãy thì còn vài loại nữa, đủ dạng màu sắc, cả người hắn bị trùng bâu kín mít.

Tôi cùng Bàn Tử đi tới, vì đang không mặc áo, nên bèn cầm mấy thứ đồ rổ rá trong phòng phủi bớt trùng trên người hắn. Sau khi xong thì phát hiện tên này đã bị đốt đến nỗi không còn nhận ra, toàn thân sưng vù, hơn nữa hình như có cả trùng chui vào dưới da lồi lên một đám giống như hạt đậu tằm, toàn thân đang không ngừng co giật.

Vội kéo hắn vào bên trong, Bàn Tử liền nhanh chân lao về phía trước, muốn đóng lại cánh cửa nhưng đã không còn kịp. Bị tên chết tiệt phá hại, khung cửa đã tan tành, cánh cửa hiện có đóng cũng như không.

Đám trùng dạng muỗi từ bên ngoài chen chúc bay vào phòng. Tôi kéo tên lạt ma vào một góc, bên cạnh Bàn Tử nói: "Thiên Chân, xem ra lần này chúng ta chết chắc tại đây rồi. Con mẹ nó nơi này không phải Miếu lạt ma, mà là hang cọp. Trước lúc chết phải nói câu này, việc đúng đắn nhất trong cuộc đời tôi là quen được bằng hữu như cậu."

Tôi vừa định nói anh ta đừng bỏ cuộc, thì bỗng nhiên tên lạt ma hơi kéo tôi, rồi chỉ vào một góc phòng, muốn tôi nhìn vào đó.

Theo hướng ngón tay anh ta chỉ, tôi thấy chỗ đó bày rất nhiều thúng tre và rương gỗ, rương gỗ đều được khóa bằng ổ khóa sắt cũ kỹ, nhưng còn thúng, thúng rất nhẹ. Nhìn vào khe hở trên thúng cũng không quá kín, nhưng vẫn đủ để ngăn đám trùng này. Cái chính là... thúng này úp lên người Bàn Tử, hình như khá miễn cưỡng, tuy nhiên trước mắt cũng không thể quản được nhiều như vậy.

Tôi nhìn Bàn Tử gọi lớn, anh ta quay đầu thấy tôi chỉ vào đám thúng, đã ngầm hiểu, nhưng vẫn lắc đầu.

Tôi nổi điên, lòng nói ngươi giở trò quái gì, hét lên: "Muốn sống thì chui vào mấy cái thúng đó là cách duy nhất nhất."

"Vậy cậu tính đem tôi xắt nhỏ bỏ vào đó à?"

Tôi nói: "Đừng đánh giá thấp kích cỡ chúng, rất nhiều người có ấn tượng sai lầm rằng một cái gì đó không phù hợp với bản thân, nhưng sự linh hoạt của con người là vô cùng, chỉ cần anh co người lại là được thôi."

Bàn Tử mắng: " Ui, cái thúng đó có dùng làm "bao" cho Bàn gia tôi cũng chẳng vừa!"

Tôi không có cách nào tiếp tục cùng anh ta tranh cãi, liền vừa phủi trùng, vừa kéo anh ta đến cạnh chỗ mấy cái thúng, bắt anh ta cho chân luồn vào. Bàn Tử cũng hết cách, đành ngồi xổm xuống, sau đó lộ vẻ khoái chí, nói: "Uầy, có vẻ vừa đó."

"Chứ bộ anh tưởng con gà nhép của anh lớn như vậy à." Tôi nói, "Nhưng như vậy cũng chỉ được nửa thân dưới, phải dùng hai cái thúng úp lên mới vừa."

Nói xong liền cầm một chiếc thúng khác úp ngược xuống đầu Bàn Tử, dùng sức ấn mạnh, ấn thành hình một khúc giò. Sau đó lập tức đi tìm những thúng khác. Nơi này thúng, rổ rất nhiều, tôi chọn lấy hai cái tốt vừa phải, bỏ tên lạt ma vào trong, rồi mới tới bản thân. Bởi vì tôi gầy hơn so với Bàn Tử, nên chui vào vô cùng dễ dàng.

Người chui bên trong thúng, có thể ngăn chặn đòn tấn công từ đám trùng, nhưng trên người cũng đã có rất nhiều trùng bám vào da, chung quy vẫn bị đốt.

Tôi cẩn thận lấy tay tóm lấy một con, xuyên qua khe hở thấy Bàn Tử bên kia đang không ngừng run run, tôi biết là anh ta cũng chung cảnh ngộ với mình.

Rất nhanh sau đó, tôi liền không thể nhìn được tình hình bên ngoài qua khe hở. Vô số trùng đang diễu hành ngoài mặt thúng, tôi có thể nghe được tiếng lông gai trên chân chúng ma sát với lớp vỏ tre, lách cách lách cách, vô cùng đáng sợ.

Bàn Tử nói: "Việc không thể chậm trễ nữa rồi, tạm thời an toàn, chúng ta tính thử xem có thể chuồn khỏi đây không."

"Chỗ này có ngưỡng cửa rất cao, các miếu miếu của Tây Tạng đều xây theo kiểu đó, vì vậy chắc chắn không thể lăn ra được. Nếu không thì chỉ có cách bỏ thúng lại, đi ra ngoài. Còn nếu muốn đem thúng theo, thì khi đám trùng chui được vào, chúng ta cũng sẽ chết thôi."

Chúng tôi nghĩ cách kéo lê chiếc thúng. Nhưng cả ngày chưa được hột cơm nào, thúng tre lại rất cứng, trời thì rét lạnh vô cùng. Hơn nữa chúng tôi chẳng mặc áo, toàn thân đông cứng lại, không cách nào dùng sức. Cuối cùng thì chỉ lê một lúc, rốt cuộc dưới đáy thúng tre đã thủng thành hai lỗ thò được cả chân ra.

Không có thời gian để sửa sang lỗ hổng, chúng tôi liền thò hai chân bất chấp mà lao về phía trước. Cách này không ổn, những gai nhọn từ chỗ thủng không ngừng chọc vào mắt cá chân tôi, rạch thành vết, nhưng hiện tại tôi cũng không quản được nhiều vậy. Tôi tiến về phía trước, không biết là Bàn Tử có đuổi kịp hay không, mãi có tới lúc tôi ra tới cửa, mới hỏi xem Bàn Tử sao rồi. Tôi nghe tiếng anh ta, phát hiện hình như là đã ra đến ngoài rồi.

Bàn Tử hành động liều hơn tôi nhiều, nhưng anh ta có lớp áo da mỡ dày cũng không sợ trùng cắn. Tôi dùng sức nhảy lên, bước qua ngưỡng cửa đi ra sân. Bàn Tử hỏi: "Cái tên lạt ma kia chúng ta sẽ không quan tâm nữa sao?"

"Cứ bảo toàn mạng trước rồi nói sau, hiện tại làm sao mà trông chừng được hắn chứ."

Hai người trong sân, di chuyển từng chút một, thật vất vả mới tới cửa viện, bước vào hành lang. Nhưng tất cả đám trùng vẫn bám riết lấy chúng tôi, một chút cũng không buông. Bàn Tử nói: "Xem ra muốn bỏ chúng lại cũng không dễ dàng. Chúng ta không thể cứ như này mà xuống chân núi."
Tôi nhìn Bàn Tử nói: "Trong tình trạng bây giờ, chẳng có gì là không thể, cho dù có lên núi đao, xuống biển lửa, chúng ta cũng vẫn phải tiến lên thôi."

Bàn Tử cũng hết cách, liền vừa làu bàu vừa tiến về phía trước.

Chuyện tiếp theo vô cùng buồn tẻ, chính tôi cũng chẳng rõ tình hình, dừng lại, nghỉ ngơi một chút, xong lại đi, không biết qua bao lâu, chỉ cảm thấy bủn rủn cả đầu gối, xương sống, thắt lưng đau nhức, cơ thể mệt mỏi rã rời. Dựa vào trí nhớ và thi thoảng nhòm được một chút qua khe hở, chúng tôi tiến tới hướng cổng miếu, tới lúc hoàng hôn, thì nhảy ra được khỏi cổng.

Phía trước vẫn còn cả đoạn đường núi dài phải đi, lúc này tôi đã gần như kiệt sức. Thúng tre cũng chẳng thể giữ ấm nổi, da tôi bị lạnh đã sớm tím tái. Cộng với kiểu di chuyển tiêu hao thể lực vô cùng này, suốt một ngày trời lại không ăn uống gì, tôi không hiểu nếu còn đi tiếp nữa thì chúng tôi cho dù không bị trùng cắn, thì cũng sẽ chết đói, chết rét.

Lúc này, tôi phát hiện đám trùng từng con một bắt đầu rời khỏi thúng tre, rất nhanh, số trùng trên đó chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, đám trùng phía sau cũng không còn đuổi theo.

Nhìn Bàn Tử qua khe hở, quả nhiên đúng là như vậy, vì thế tôi liền đẩy thúng tre phía trên đầu ra. Trên thúng của Bàn Tử một không còn con nào, tất cả chúng đều bay về hướng ngôi miếu, vọt qua cổng miếu, dường như phạm vi hoạt động của chúng chỉ trong khu vực đó. Ngoài cổng miếu, chúng tuyệt đối sẽ không bay tới.

Tôi đem thúng trên đầu Bàn Tử bỏ xuống thì thấy anh ta đã đông lạnh đến mê sảng. Tôi vỗ vỗ mặt Bàn Tử, kéo anh ta ra khỏi thúng tre. Anh ta mơ mơ màng màng hỏi: "Này, chúng ta đã tới cổng trời rồi sao?"

"Có thể do nhiệt độ cơ thể chúng ta quá thấp, nên chúng không còn cảm giác được nữa."

Bàn Tử run run nói: "Không chỉ có chúng đâu, ngay cả Bàn gia tôi cũng không còn cảm giác thấy thân thể của mình nữa là."

Chúng tôi co rúm người, cắn chặt răng, không ngừng chà xát thân thể mình, bất chấp gió lạnh, từ từ đi xuống núi. Trải qua mấy năm sương gió, cơ thể cùng ý chí của tôi đã được rèn luyện, nếu không tôi chưa chắc đã vượt qua nổi chuyện vừa rồi.

Chờ cho tới lúc chúng tôi xuống dưới chân núi, đi vào quán rượu, da trên người đã gần như tê cóng bởi giá lạnh, nhưng tôi vẫn duy trì được ý nghĩ vô cùng tỉnh táo, điều này làm bản thân tôi cũng thấy kinh ngạc. Sau khi bước vào phòng, cũng không dám chạy thẳng tới lò sưởi, tôi sợ nhiệt độ thay đổi đột ngột, làm các mạch máu vỡ tung.

Chúng tôi vẫn đứng ở cửa ra vào, chờ da trên người lấy lại xúc giác, cả người đau đớn, lúc bấy giờ mới dám đi vào. Lập tức tới cạnh bếp lò, luồng khí ấm tạt vào mặt không khiến chúng tôi tỉnh táo, mà càng làm cơ thể không ngừng run rẩy, làn da cũng trở nên đau rát vô cùng.

Trong lòng tôi cảm thấy may mắn vô cùng, may mà khi chúng tôi xuống núi tuyết chưa rơi.

Người bán hàng nhìn thấy bộ dạng chúng tôi liền trợn mắt đầy kinh ngạc. Tôi và Bàn Tử ngồi xuống, không còn sức mà nói chuyện. Bàn Tử lập tức ngất luôn ra đệm, còn suýt nữa là va đổ lò than. Mà trong nháy mắt khi tôi đỡ anh ta, trước mắt bỗng tối sầm, sau đó chẳng còn biết gì nữa.

CHƯƠNG 41: Tỉnh lại.

Đến khi tôi tỉnh lại thì phát hiện có gì đó bất hợp lý. Sau một lúc lâu
mới dần khôi phục được trí nhớ: chạm trán với đám trùng, rời khỏi Miếu lạt ma, rồi trở lại quán rượu, cuối cùng là ngất lịm.

Mí mắt nặng như chì căn bản không thể mở ra, chỉ có thể dựa vào khứu giác cùng xúc giác, tôi ngửi thấy một mùi đặc biệt quen thuộc.

Điều này chứng tỏ tôi đã được đưa vào bệnh viện, vậy là tốt rồi.
Tôi mê man ngủ thiếp đi, nhưng chỉ sau vài giây thì đột nhiên bừng tỉnh. Lần này đôi mắt tôi rốt cuộc có thể mở ra.

Tôi trợn tròn mắt phát hiện ra mình không phải đang trong bệnh viện như đã nghĩ. Không phải màu trắng của trần phòng, cái kiểu mà tôi đã hết sức quen thuộc đó. Cái tôi nhìn thấy là đỉnh chóp của một tòa nhà rất cũ, nhìn kĩ lại tôi liền ý thức được đây là kết cấu của Miếu lạt ma.

Chuyển động con ngươi nhìn về bốn phía liền thấy Trương Hải Khách, Trương Hải Hạnh, đại lạt ma đang ngồi cách tôi không xa.

Tôi đang nằm trên sàn gỗ, bao quanh bởi các tấm chăn,lò sưởi được đốt lên. Bàn Tử cũng đang nằm bên cạnh. Tôi chậm rãi ngồi dậy. Lúc này, bọn họ phát hiện tôi đã tỉnh liền vừa nói gì đó với nhau, vừa đi tới chỗ tôi. Lỗ tai tôi không quá tốt, quan sát một vòng xung quanh, tôi hỏi:

"Đây rốt cuộc là chuyện gì? Tôi không phải đã xuống núi sao? Nơi này không phải bị trùng bao vây à?"

Trương Hải Hạnh đi tới bên cạnh tôi, lắc lắc chiếc chuông trong tay. Tôi nhìn một lúc thấy rất quen mắt, nheo mắt nhìn kĩ, kia chẳng phải là chuông lục giác lúc trước từng gặp qua sao, chuông phát ra âm thanh vô cùng trong trẻo.

Trương Hải Hạnh cúi người xuống hỏi tôi: "Biết đây là cái gì không?" Tôi đã lắc đầu rồi lại gật, tuy rằng tôi biết thứ này nghe nhiều sẽ làm sinh ra ảo giác, nhưng quả thực không biết tên nó là gì.

Trương Hải Hạnh không ngừng rung chuông bên tai, tôi càng nghe càng
tỉnh tảo, cảm thấy tầng sương mờ trong đầu đang tan ra. Tiếp theo tôi nhìn thấy, tôi và Bàn Tử đang đứng giữa một cái giá kì quái, trên giá bày bảy chiếc chuông lục giác kì lạ.

"Thế này là sao?" Tôi ngộ ra gì đó, liền hỏi Trương Hải Hạnh.

Cô ta nói: "Ta không thể nói với cậu bây giờ. Đấy là một loại kĩ thuật mà bọn ta tìm ra từ rất lâu rồi, thông qua tổ hợp chuông không cùng chủng loại, bọn ta có thể khiến con người nảy sinh rất nhiều ảo giác. Những ảo giác này vô cùng chân thực, nếu không phải ta nói cho cậu biết những việc đó đã xảy ra như thế nào, thì cậu sẽ cảm thấy những việc đã trải qua đều là sự thật."

Khi tôi nhìn kĩ chiếc chuông thì Trương Long Bán đã đi tới, cầm một chiếc thìa trong tay. Ông ta đi tới bên cạnh tôi, cẩn thận đổ thứ gì đó trong thìa vào chuông, tôi ngửi thấy một thứ mùi rất đặc biệt.

Trương Hải Hạnh tiếp tục nói: "Bọn ta cũng không dám tùy tiện sử dụng, bởi vì không rõ các tổ hợp khác sẽ dẫn tới hậu quả gì, cho nên tạm thời dùng nhựa thông nóng chảy đổ vào bên trong."

Tôi tin rằng họ không hiểu rõ cơ chế hoạt động của thứ này, nên không hỏi lại. Tuy nhiên Trương Hải Hạnh vẫn tiếp tục ở bên cạnh giải thích: "Trương gia bọn ta đã tiến hành nghiên cứu về thứ này rất lâu rồi, vì thế đã nắm giữ mười hai cách sử dụng."

"Cái vừa dùng với cậu là loại hiệu quả nhẹ nhất."Cô ấy vừa cười vừa đáp. Không hiểu vì cái gì, tôi cảm thấy cô ta có vẻ rất hả hê.

Tôi nhớ tới kinh nghiệm trong cổ mộ lúc trước, phải biết là nếu các công cụ được sử dụng không đúng cách thì có thể gây ra hậu quả tai hại. Nhưng tôi không cảm thấy họ sử dụng cách này với tôi vì xem thường, bởi lẽ cảm giác rét lạnh cùng sự đau đớn khi bị trùng cắn thực sự rất chân thực.

Tôi loáng thoáng ý thức được, đây có vẻ là một thí nghiệm, lại hỏi Trương Hải Hạnh: "Các người làm vậy vì mục đích gì, đám người Đức đâu?"

"Việc này để anh trai ta giải thích cho cậu nghe. Tuy nhiên, chúc mừng cậu, cậu đã vượt qua một việc mà người bình thường rất khó có thể làm được."

Tôi nhìn Bàn Tử, hỏi: "Còn anh ta?"

"Hắn so với cậu hơi kém một chút, nhưng hắn còn ở đây thì cậu cứ yên tâm, cứ tính là đã qua cửa đi."

Tôi hỏi: "Vậy đây rốt cuộc là vì cái gì?"

"Có một số người nghe loại chuông này rất khó để tỉnh lại. Nói ví dụ như
hắn." Cô ta chỉ vào Bàn Tử, "Nhưng, cậu không giống như vậy, cậu có thể tự mình tỉnh dậy. Điều đó chứng tỏ trước đây cậu từng có kinh nghiệm tốt hơn. Ngẫm thử xem, cậu không phải đã từng trải qua tình huống cực kì, cực kì vô lí rồi chứ?"

Tôi nhíu mày. Cô ta tiếp: "Có thật, nhưng tuyệt đối không thể xảy ra?"

Tôi không muốn suy nghĩ tiếp về vấn đề này, đầu đau như búa bổ, nhưng một mặt khác, tôi hy vọng được nghe Trương Hải Hạnh nói tiếp.
"Tiến vào trong tuyết sơn, thì việc miễn dịch với loại chuông này vô cùng quan trọng. Chúng tôi cần phải biết liệu cậu có đủ năng lực chống đỡ trước mọi biến đổi hay không. Tuy rằng không rõ trong ảo giác của cậu xuất hiện tình cảnh gì, nhưng chúng tôi biết đấy nhất định là điều mà trong lòng cậu vô cùng lo sợ. Cậu vô cùng tuyệt vọng, mà dạng tuyệt vọng này gây ra tâm lý tiêu cực, đau đớn và phản ứng bài xích. Tuy nhiên trong tình huống đó, cậu lại chống lại được, đó là việc không dễ dàng. Bởi thế chúng tôi hiểu rằng, cậu là người có thể chấp nhận thử thách, không vì khó khăn mà cam chịu, là người có thể giải quyết các nguy cơ. Khó nhất chính là, sau khi ảo giác biến mất có thể tự mình tỉnh táo, không như nhiều người không thể tỉnh lại."

Tôi đã nghĩ bụng định nói với cô ta: "Con mẹ nó chứ, tôi khẳng định không phải là người có thể giải quyết khó khăn. Hơn nữa làm sao cô biết trong ảo giác của tôi là xảy ra cái quái gì?", Nhưng quả thực lúc này không có sức mà đi cãi cọ nữa.

Trương Hải Hạnh nói: "Bọn ta có thể nghe được cậu nói và thông qua ngôn ngữ để hiểu được ảo giác của cậu, tất cả những gì cậu thảo luận trong lúc đó chúng tôi đều nghe được. Điều làm ta vui mừng chính là lời cậu suy nghĩ rất tích cực, không giống tên béo kia, những gì hắn nói trong cơn mê quả thực rất khó nghe. Tôi cũng thật không hiểu trong lúc nguy cấp hắn rốt cuộc đang nghĩ cái gì."

Tôi nhìn Bàn Tử, nhưng anh ta còn chưa tỉnh lại. Trương Long Bán đang ở bên tai anh ta nhẹ nhàng rung chuông, Bàn Tử mãi mới có chút phản ứng, thì thào tự nói: "Không cần đi, không cần đi, ngươi giết luôn ta đi, ta nguyện ý. Chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ vẫn phong lưu."

Trương Hải Hạnh liếc mắt với tôi, tỏ ra hết sức bất lực. Tôi cũng thở dài, thầm nghĩ: đối với Bàn Tử mà nói, nếu thực sự phải nói ra cái bản thân sợ hãi nhất, chưa chắc chính anh ta đã thừa nhận, càng có thể cái anh ta sợ nhất chính là bản ngã của mình. Mặc dù là lời nói tục tĩu tới mức nào, nhưng có lẽ trong ảo giác, anh ta đã nhìn thấy âm hồn Vân Thái.

Tôi nhìn ánh mắt Trương Hải Hạnh, lại nhìn bàn tay cùng thân thể mình, phát hiện quả thực không có vết thương. Vừa rồi đúng là ảo giác, trong lòng cảm khái, bỗng trước mắt như bắt đầu hiện ra một màn sương mù. Thực sự chỉ là ảo tưởng.

Trương Hải Hạnh nhìn ra sự nghi ngờ nơi tôi, nói: "Cậu không cần quá lo âu, ta biết cậu lo lắng về điều gì. Khi bọn ta bắt đầu quả thực đã phát hiện ra thứ này hết sức nguy hiểm. Nhưng chỉ cần cậu ngẫm lại quá trình trải qua lúc rồi, chuyện đó liệu có phát sinh một cách hợp lí hay không, cậu sẽ biết được rốt cuộc đó là ảo giác hay sự thực."

Vừa rồi cả ngôi miếu tràn ngập trùng, giờ nhìn lại, suy nghĩ một chút thì thấy, việc này đúng là tuyệt đối không thể xảy ra. Tất cả ảo giác đều đột nhiên xuất hiện, nếu không phải vì nó chân thực như vậy, tôi nhất định sẽ phát hiện ra mình đang nằm mơ. Đáng sợ nhất chính là ngay cả đau đớn cũng rất chân thực.

Sau đó Trương Hải Hạnh còn nói: "Hãy thử suy nghĩ một lần xem, những điều khủng khiếp cậu đã trải qua vừa rồi có phải là nỗi sợ hãi trong lòng cậu không?"

Tôi lặng đi không nói, sờ sờ trên người. Trương Long Bán đưa tôi một điếu thuốc.

"Mọi chuyện tôi vẫn chưa hiểu rõ hết, cô để tôi nghỉ ngơi một lúc đã."

Trương Hải Hạnh có vẻ rất hào hứng, bởi vậy tôi nhận ra rằng tuổi của cô ta hẳn không nhiều, sức sống như này so với trạng thái trầm ổn của A Ninh khá khác biệt.

Cô ta bị tôi dội gáo nước lạnh, liền có phần mất hứng, trừng mắt với tôi một cái, quay đầu bước đi, trước khi đi bỏ lại một câu: "Vậy cậu chờ đó, anh trai ta so với ta còn nói nhiều hơn. Cứ để anh ấy tiếp chuyện cậu đi."

Nhưng Trương Hải Khách cũng không thấy xuất hiện. Sau khi Bàn Tử tỉnh lại, tôi liền bịa ra vài lời giải thích cho anh ta một lần. Tôi cảm thấy chuyệ này chính xác là xảy ra từ sau khi hai chúng tôi trở về phòng. Chuông có lẽ đã được treo trên cửa, chúng tôi đẩy cửa bước vào, thân mình cũng rất hưng phấn nên không nhận thấy điểm khác thường, kết quả là ảo giác xuất hiện lúc nào cũng không hay.

Phải mất một lúc lâu Bàn Tử mới tin đó là thật. Thân thể chúng tôi còn chưa hồi phục, cũng không hẳn là mệt mỏi, mà như vô lực.

Đến tối, Trương Hải Khách cũng không thấy đến mà là Trương Hải Hạnh. Lần này cô ta mang tới một số đồ cho chúng tôi xem.

Chương 42: Trương Hải Hạnh

"Bây giờ ta sẽ giới thiệu một chút về kế hoạch sắp tới." Cô ta lấy ra một bản đồ vẽ tay trải trước mặt tôi và Bàn Tử, "Mấy ngày nữa, hai người cùng tôi thêm một người Đức sẽ bắt đầu đi vào Tuyết sơn. Chúng ta sẽ tìm tới nơi tộc trưởng lúc trước của bọn ta tới, tìm hiểu những việc xảy ra ở đó, lấy lại thứ mà ông ấy đã để lại, đây là điều kiện tiên quyết. Ta nghĩ tất cả mọi người sẽ không phản đối."

Tôi nhìn nhìn Trương Hải Hạnh, hỏi: "Người Đức, mấy người Đức đó cũng tham gia sao?"

"Đúng vậy."?Cô ta nói, "Giữa bọn ta và người Đức đã đạt được thỏa thuận, tình hình cụ thể anh trai ta nắm rõ hơn. Hiện tại ta sẽ chỉ cho hai người toàn bộ lộ tuyến cơ bản. Lần đầu giới thiệu một chút, tôi tên là Trương Hải Hạnh, chỉ huy trong chuyến lên núi này, mọi hành động của hai người lần này đều phải nghe ta. Bởi vì nơi đây là tuyết sơn, hơn nữa còn là mảnh đất không người, chỗ này so với những chỗ lúc trước hai người tới là hoàn toàn khác biệt. Chúng ta sẽ không có cứu viện, không có cơ hội cứu trợ, chỉ một sai sót cũng sẽ dẫn tới cái chết. Cho nên lời Trương Hải Hạnh này nói, mấy người phải lắng tai mà nghe."

Khoát tay với cô ta, tôi không còn là Ngô Tà trước đây để cho người ta mặc sức định đoạt: "Chúng ta là hợp tác song phương bình đẳng, cho nên không quan trọng về người chịu trách nhiệm, đây là điểm thứ nhất. Thứ hai, chúng tôi cần phải hiểu rõ tất cả những việc sắp xảy ra, để xem xét có nên đi cùng các người hay không. Bất kể trước kia chúng tôi đã nói gì, hiện tại tình hình đã thay đổi rồi. Cho nên tôi phải xác minh lại với cô, bất luận cô nói cái gì, trước mắt tôi sẽ đều không theo, hiện tại chúng tôi chỉ nghe những gì mình muốn biết. Giờ cô nói cho tôi biết, rốt cuộc là sao? Các người và những người Đức kia đã nói những gì? Còn nữa bọn họ kia là ai? Nếu cô không thể nói được thì gọi anh trai cô tới đây."

Trương Hải Hạnh nhìn ra cửa, Trương Hải Khách đã bước vào. Hóa ra nãy giờ vẫn luôn nghe lén ở bên ngoài.

Trương Hải Hạnh nhìn hắn nói: "Người này không hình như không biết nghe lời."

Trương Hải Khách tới bên cạnh tôi, nói: "Sự tình của người Đức tốt nhất cậu không cần biết, bọn họ là một tổ chức không tồn tại. Mục đích đến đây của họ khác với chúng ta, chúng ta là những gì họ cần, hơn nữa cái họ nghiên cứu cũng giống như thứ bọn ta đã nghiên cứu rất lâu rồi. Ta nghĩ cậu cũng đã gặp qua Cầu Đức Khảo và biết được tình hình công ty của ông ta. Sau khi ông ta chết, công ty đó bị lỗ nặng và phải tiến hành tái cơ cấu, bán đấu giá các dự án đang được đầu tư. Ta có thể nói thẳng cho cậu biết, quan hệ giữa bọn ta và nhóm người Đức đã duy trì được một khoảng thời gian dài, cả hai bên đã tiến hành rất nhiều thỏa thuận ngầm, nhưng những việc đó không quan trọng với các cậu. Bọn ta thỏa thuận với họ chính vì muốn đảm bảo an toàn cho hai người. Nếu hai người nhất định muốn chúng tôi khó xử, muốn biết rõ tất cả mọi việc, thì hậu quả các cậu không thể gánh nổi đâu. Chẳng lẽ các cậu muốn theo bọn ta phiêu bạt cả đời."

"Anh đang muốn đe dọa tôi phải không?"

"Có nhiều việc khi nói sự thật ra thì lại có vẻ như là uy hiếp vậy. Nhưng cậu có biết, ta đóng giả thành cậu, tìm hiểu về cậu đã rất lâu rồi không. Tất cả các chuyển biến của cậu đều nằm trong tầm mắt ta, ta biết nếu là cậu trong trường hợp này sẽ không muốn bị kẻ khác lừa dối. Nhưng hãy hiểu rằng, tất cả thống khổ lúc trước của cậu đều là do cậu cố tình đào sâu muốn biết, mà mấy vấn đề này lại chẳng có quan hệ gì với bản thân cậu. Hiện tại, cậu đang luẩn quẩn trong câu đố lớn, trừ khi cậu không tin, tiếp tục theo đuổi nó, và cái thu hoạch được cuối cùng chỉ là mớ thông tin càng làm cậu sợ hãi hơn. Ta có thể nói rõ ràng cho cậu biết, tin tức này và cái cậu muốn không có quan hệ gì với nhau. Cách làm sáng suốt nhất của cậu lúc này chính là cùng với người Đức và bọn ta tạo nên một nhóm."

Bàn Tử vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, mắt nhìn chăm chú vào chiếc chuông lục giác trên tay Trương Hải Hạnh. Cô ta phải ghé lại bên tai anh ta lắc lắc, anh ta mới chịu thôi.

Tôi nhìn Trương Hải Khách, nói: "Tôi có được lựa chọn không đi hay không? Nếu lời anh nói không phải là uy hiếp, tôi hẳn phải có lựa chọn được tự do."

"Cậu có biết ta hoàn toàn có thể điều khiển hành động lúc trước của hai người. Nhưng có nhiều thứ sau này chúng ta phải hợp tác với nhau, không xây dựng được mối quan hệ hòa hảo rất dễ gây ra bất trắc. Vì vậy ta sẽ làm tất cả để có thể thuyết phục cậu đi, thậm chí nói cho cậu biết rất nhiều bí mật. Nếu cậu đồng ý, cậu có thể tùy ý hỏi ta các vấn đề, chỉ cần trong phạm vi ta có thể trả lời, ta nhất định sẽ khai báo thành khẩn."

"Sao tôi lại cảm thấy những vấn đề tôi muốn hỏi đều nằm trong phạm vi anh không thể trả lời?"

Trương Hải Khách lắc đầu, nói: "Cậu sai rồi, ta của ngày trước mà cậu tiếp xúc không giống nhau. Rất nhiều việc ta có thể trực tiếp nói cho cậu biết. Thí dụ như, bằng hữu của cậu, Tiểu Ca kia, tộc trưởng của bọn ta. Chuyện của người đó, ta có thể tường tận kể hết cho cậu biết. Bởi vì mấy thứ này đối với bọn ta mà nói, coi làm bí mật cũng không có ý nghĩa gì."

Tôi nhìn Bàn Tử, thì anh ta đã nói: "Anh không có nói bừa đấy chứ? Tiểu Ca cơ bản là chẳng chịu nói với ai cái gì, làm sao mà anh dễ dàng biết được mọi việc về cậu ta?"

Trương Hải Khách nói: "Người đó không nói bởi vì biết bản thân có vấn đề, đối với bọn ta, thân thế của người ấy cũng không phải bí mật gì. Có muốn nghe không?"

Điều này thật quá hấp dẫn, tôi hít một hơi, gãi gãi đầu: Tên trước mặt mình đây có phải đã chuẩn bị một cố sự hoàn hảo để lừa bọn tôi, nhưng suy cho cùng tôi lại không cảm thấy vậy. Dựa vào hiểu biết của tôi về Tiểu Ca, bọn họ nếu thêu dệt nên một câu chuyện thì hẳn tôi sẽ phát hiện ra sơ hở. Tôi nghĩ một lúc,gật gật đầu, nhìn bọn họ nói: "Được, nếu tôi có thể có được thông tin mà mình muốn, thì tôi sẽ hợp tác với các người, giúp các người trong mọi việc, và cam đoan sẽ không hỏi nhiều."

Trương Hải Khách gật đầu: "Cậu quả nhiên hiểu chuyện, hiện tại ta nhìn cậu cũng có chút thiện cảm rồi đấy. Được rồi, cậu muốn biết cái gì?"

"Anh quen biết Tiểu Ca không?"

Hắn gật đầu: "Đương nhiên biết, bọn ta từng sống cùng nhau trong thời gian dài."

Tôi hết sức kinh ngạc, câu trả lời đầu tiên đã khiến tôi phải lắp bắp kinh hãi.

Tôi hỏi: "Bao nhiêu lâu? Có bằng thời gian tôi quen biết Tiểu Ca không?"

Hắn cười cười: "Ta và người mà cậu gọi là Tiểu Ca biết nhau từ năm 2 tuổi. Cậu có biết thời điểm bọn ta 2 tuổi là bao nhiêu năm về trước không?"

Chương 43: Tiểu Ca mười ba tuổi

"Nói như vậy anh biết anh ta từ khi còn nhỏ."

Trương Hải Khách gật đầu, đốt một điếu thuốc lá, nói: "Đúng, có thể nói như vậy. Ta và người đó cùng bắt đầu chịu sự huấn luyện, rất nhiều rất nhiều chuyện, từ thói quen, tới sở thích của người đó ta đều rõ hơn hơn cậu. Cậu nên sẵn sàng lắng nghe, ta sẽ đem tất cả mọi chuyện về người đó kể với cậu."

Tôi vẫn có chút do dự không biết có nên tin tưởng hắn hay không. Bàn Tử nói: "Kể mau đi. Nhưng tôi nói cho anh biết, nếu để tôi phát hiện được một chút sơ hở thì chúng ta sẽ không cần bàn bạc gì nữa đâu."

"Yên tâm, ta chỉ muốn hợp tác, vì mục đích của bản thân, sẽ tuyệt đối không lừa gạt các cậu." Nói xong nhìn Trương Hải Hạnh nháy mắt ra hiệu, cô ta liền đứng dậy rời đi.

Sau đó, Trương Hải Khách thở dài, nói với tôi: "Thời điểm người đó ra đời, Trương gia bọn ta đang xảy ra biến cố lớn. Chuyện này là khởi nguồn của tất cả, cũng là căn nguyên của diệt vong sau này."

Trương Hải Khách thật ra cũng không phải tác gia thiên bẩm, nói đông nói tây mồi hồi, Bàn Tử nghe mà như lạc trong màn sương mù. Tôi tốt hơn Bàn Tử về khoản này, giỏi sắp xếp và tổng hợp là ưu điểm của tôi. Hơn nữa, đối với các sự kiện của Trương gia tôi cũng có hiểu biết nhất định, bởi vậy, tôi đã dùng lời văn của mình ghi chép lại nội dung nói của Trương Hải Khách.

Từ trước tới nay, vấn đề hôn nhân trong Trương gia luôn rất nghiêm ngặt. Gia tộc họ Trương vô cùng cường đại, dường như có thể khống chế hết thảy sự. Bình thường hôn nhân đều tiến hành trong phạm vi nội bộ, cũng may do gia tộc rất lớn nên cũng không có vấn đề khó xử xảy ra.

Tuy nhiên, Tiểu Ca này lại là ngoại tộc. Không ai biết mẫu thân anh ta là ai, thời điểm phụ thân Tiểu Ca mang anh ta trở lại gia tộc thì đang trong mùa đông giá lạnh. Năm ấy, phụ thân Tiểu Ca đi Nepal vận chuyển một mối hàng hóa, đi một thời gian rất lâu, đến khi ông quay lại, trong tay đã ôm một đứa trẻ con quấn trong lớp tã.

Vì không có mẫu thân chăm sóc, tuổi thơ của Tiểu Ca lớn lên trong một môi trường hỗn loạn. Với suy nghĩ ngây ngô của anh ta, anh ta thậm chí không rõ phụ thân mình nắm vai trò quan trọng thế nào trong hệ thống gia tộc lớn mạnh này. Điều này phần lớn là do Tiểu Ca không muốn nhắc nhiều đến.

Theo lời Trương Hải Khách, lúc bấy giờ đại đường của Trương gia là ở vùng núi Kim Lĩnh, gồm bảy tòa nhà mang kiến trúc Minh - Thanh liên kết với nhau, trước sau là mười ba cổng vào. Nơi này là chỗ ở của Trương gia bổn gia (tộc chính). Phần mở rộng của ngôi làng còn có vài mươi hộ Trương gia ngoại tộc. Tuy rằng đều họ Trương, đều khống chế được rất nhiều người, nhưng địa vị của Trương gia bổn gia cao hơn rất nhiều so với ngoại tộc.

Trương Hải Khách là con cháu của Trương gia ngoại tộc, cho nên hắn rất ít khi được lui tới nhà lớn của bổn gia. Những đứa nhỏ của Trương gia bổn gia phần lớn đều rất ngạo mạn, cho nên những lần Trương Hải Khách ngẫu nhiên đi vào đại viện của bổn gia đều là đi chúc tết. Những đứa trẻ kia cũng không muốn cùng hắn chơi đùa.

Trương Hải Khách cũng không thèm để ý bởi vì đối với hắn, sở dĩ Trương gia bổn gia phô trương được quyền lực đơn giản là dựa vào sự hỗ trợ của Trương gia ngoại tộc, điều đó chỉ cần ngầm hiểu.

Hắn tin tưởng rằng là người ngoại tộc càng cho mình cuộc sống tự do tự tại. Quy tắc của bổn gia nhiều vô kể, rất nhiều việc ép người thái quá. Nhưng việc làm Trương Hải Khách đặc biệt để ý chính là, hắn ở Trương gia bổn gia thường xuyên thấy được một thằng nhóc vô cùng kỳ lạ. Tiểu hài tử này không nói lời nào, cũng không cùng những đứa trẻ khác chơi đùa, chỉ lẳng lặng đứng trong sân hoặc ở cạnh các trụ dưới hàng hiên, ngắm nhìn bầu trời, cứ thế ngẩn người.

Trương Hải Khách lấy làm lạ lắm. Đứa trẻ này vô cùng đặc biệt làm cho hắn tò mò muốn tìm hiểu. Hơn nữa, nó cũng không chịu hòa hợp với ai trong bổn gia, điều này tự nhiên khiến Trương Hải Khách có một cảm giác thân thiết lạ thường.

Có một lần, phụ thân của hắn dẫn hắn tới bổn gia có việc. Trong khi, phụ thân cùng những người khác trong tộc bàn chuyện, hắn liền một mình đi dạo trong vườn của bổn gia, khi đó hắn lại nhìn thấy đứa trẻ ấy. Đứa trẻ này chính là Trương Khởi Linh lúc đó chỉ mới ba tuổi. Hắn ngẫm một lúc, cố lấy dũng khí đi tới cạnh đứa trẻ, hỏi: "Cậu ở đây làm gì, sao không chơi cùng mấy người kia đi?"

Đứa trẻ kia nhìn hắn, lắc lắc đầu, không nói gì. Đó là lần đầu tiên Trương Hải Khách và Trương Khởi Linh nói chuyện.

Hôm đó, Trương Hải Khách cùng Tiểu Ca đi dạo trong sân. Hắn có một cảm giác mãnh liệt rằng chỉ cần hắn cứ nói liên tục không ngừng, thì đứa trẻ này sẽ phải trả lời và nói chuyện với hắn. Nhưng lần này hắn đã gặp phải kỳ phùng địch thủ.

Mười năm sau, bọn họ mới gặp lại nhau lần nữa. Lúc này, Trương Hải Khách đã mười lăm tuổi. Tiểu hài tử của Trương gia từ nhỏ đã phải chịu sự huấn luyện vô cùng nghiêm khắc, đối với sức chịu đựng và thân thủ đều có những yêu cầu nghiêm ngặt. Mười lăm tuổi là một vòng khảo nghiệm vô cùng quan trọng của chúng, bởi vì qua năm mười lăm tuổi, những đứa trẻ của Trương gia có thể tự mình đi tìm cổ mộ, đi tìm thanh danh cho riêng mình. Trương gia gọi việc làm này là phóng dã.

Mười năm sau, Tiểu Ca mười ba tuổi. Cho nên khi Trương Hải Khách đứng giữa đám nhỏ chuẩn bị được phóng dã, lại nhìn thấy Tiểu Ca thấp hơn mình cả một cái đầu mà hết sức kinh ngạc. Quá trình phóng dã vô cùng nguy hiểm, rất nhiều đứa nhỏ của Trương gia đã bỏ mạng trong quá trình này. Nhưng cũng vì đã trải qua quy trình huấn luyện phi thường nghiêm khắc, cho nên sau nhiều thế hệ, việc này bắt đầu có những chuyển biến tốt đẹp.

Những đứa trẻ trong Trương gia chỉ biết phóng dã là sự kiện vô cùng nguy hiểm, cho nên đều cố gắng khắc khổ huấn luyện. Đương nhiên, trong đó cũng có một số ít vì muốn tránh sự nguy hiểm này, đã sớm bỏ ngang sự huấn luyện. Bọn họ sẽ không có được địa vị gì trong gia tộc, phải lánh đi nơi khác để bảo vệ cái mạng nhỏ của mình.

Bất kể hậu quả của phóng dã là gì, người họ Trương luôn tâm niệm: chỉ cần hoàn thành chuyện này thì có thể bất chấp thủ đoạn. Cho nên rất nhiều đứa trẻ kết bạn đồng hành, hợp tác đi đào một cổ mộ. Trong trường hợp đó, nhiều người nhiều lực, có thể phân công công việc.

Trương Hải Khách phát hiện dường như Tiểu ca không có dự tính như vậy. Trong khi mọi người cùng nhau thu dọn hành lí, chuẩn bị lương khô cùng lộ phí, Tiểu Ca đã muốn đi một mình một đường.

Trương Hải Khách là một kẻ giao thiệp rộng, hắn lúc bấy giờ đã cùng vài bằng hữu thương lượng đi đâu để tìm cổ mộ thích hợp. Một người trong số đó không biết từ đâu moi được bản đồ bố cục cổ mộ Sơn Tây, nghe đâu đó cũng là một cái đấu tốt, chỉ cần họ tới được đó là có thể thoải mái thu lượm đồ cổ.

Điều này trong Trương gia cũng ngầm được cho phép, bởi vì nguồn gốc của thông tin, cùng cách xử lí tin tình báo, đều là một trong các năng lực trọng yếu. Trương Hải Khách nếu đi theo họ thì trong lần khảo nghiệm này sẽ không xuất hiện bất cứ vấn đề gì, cũng không có hậu quả phát sinh sau đó. Tuy nhiên khi hắn nhìn thấy tiểu hài tử mười ba tuổi kia một mình ra đi, không tự chủ được có chút lo lắng.

Trương Hải Khách cực kì chán ghét thể chế của gia tộc, hắn đối với người của bổn gia cũng ghét bỏ không kém. Hắn rất kỳ thị sự cứng nhắc của bổn gia, một đứa trẻ mười ba tuổi bị bắt ra đi một mình như vậy, đối với nó mà nói là một việc vô cùng bất công.

Hắn nghe được từ miệng mấy đứa trẻ khác của bổn gia, phụ thân Tiểu Ca qua đời từ khi nó mới 7, 8 tuổi. Tiểu Ca là đươc các bác, các chú chăm sóc thay. Tuy rằng không phải bị ngược đãi, nhưng bản thân cũng cũng không có nhiều sự yêu thương và hạnh phúc. Hơn nữa, nó còn trầm mặc ít lời, điều này khiến Trương Hải Khách cảm thấy có vẻ trong bổn gia có người không hy vọng Tiểu Ca còn sống.

Lúc bấy giờ, Trương Hải Khách đối với năng lực của bản thân vô cùng tin tưởng. Hắn không chỉ luyện cho ngón tay của mình mạnh hơn người, tốc độ cũng đạt tới trình độ nhất định, cho nên, ngay lúc bấy giờ hắn có thể được coi là một nhân tài đạo mộ hiếm có.

Còn Tiểu Ca lúc ấy vẫn chỉ là đứa nhỏ gầy guộc, lực cùng chiều dài ngón cũng không có gì nổi trội, dù sao cũng mới mười ba tuổi. Tiểu Ca với bộ dạng yếu đuối ấy đã làm cho Trương Hải Khách cảm thấy chuyến này đi đứa trẻ đó nhất định sẽ lành ít dữ nhiều. Vì vậy, hắn chọn chia tay với nhóm bằng hữu kia, quyết định đi theo bảo vệ cho vị tiểu hài tử của Trương gia bổn gia. Đây có lẽ là quyết định đúng đắn nhất cuộc đời Trương Hải Khách.

Chương 44: Phóng dã

Ban đầu hành trình của bọn họ đặc biệt buồn tẻ. Đầu tiên là xuất phát theo núi Trường Bạch, rồi tới Sơn Đông, sau đó từ Sơn Đông xuôi thuyền, mãi cho tới Thượng Hải.

Trương Hải Khách nghĩ rằng, những chỗ như Lạc Dương là trọng địa cổ mộ, phỏng chừng những đạo mộ tặc đặc biệt nhiều. Tuy rằng đánh nhau cùng những người từng trải đó chưa chắc đã thua, nhưng đối phương dù sao cũng nham hiểm, giết người không ghê tay. Hơn nữa bấy giờ còn là thời đại súng ống hoành hành, tiểu hài tử Trương gia này đối mặt với những kẻ đó có khi không thể có phần thắng. Đối với họ mà nói, tiến vào nơi như vậy nguy cơ quá nhiều, họ lại chỉ có hai người, một đứa còn mới mười ba, lộ phí cùng lương khô cũng không nhiều. Chi bằng đến Chiết Giang tìm kiếm một số dấu vết, kiếm một cái đấu nhỏ, rồi tùy xem vận khí có tốt hay không.
Hai người ở lại quanh vùng Thượng Hải một thời gian khá lâu, cũng đổ vài cái đấu, sau phát hiện chúng đều đã bị vét sạch, những thứ đồ quan trọng đều đã bị lấy hết đi. Bọn họ lại từ Thượng Hải sang Hàng Châu rồi chuyển tới vùng Giang Tô, nơi gần Từ Châu, kiếm được vài cái đấu khá lớn, sau khi vào rồi lại thấy rằng bên trong đã được quật không còn gì, thứ sót lại chỉ là một vài mái ngói nát, hoàn toàn không thể coi là báu vật.

Tới lúc này, bọn họ đã đi du lịch qua một nửa đất nước, tiền cũng không còn nhiều, gần như lúc bình thường đều nhờ vào đi lượm lặt hoặc trộm ít rau vườn ăn trừ bữa. Hai người chật vật không chịu nổi, Trương Hải Khách cảm thấy nếu còn tiếp tục như vậy thì tới cuối năm họ cũng chẳng thể hoàn thành được bài khảo nghiệm phóng dã.

Vì thế họ thảo luận, quyết định tiếp tục đi về phía tây, vẫn là hướng tới đất cổ mộ, lượn qua những di chỉ cũ, có lẽ may ra tìm được ít màu sít gì đấy. Tuy nhiên kế hoạch này lại không thể thực hiện được. Trong quá trình đi về phía tây, ông trời thật khéo để họ đụng phải một nhóm người Trương gia cũng tham gia phóng dã, cả đám đều là những đứa trẻ khoảng chừng mười lăm tuổi, có tổng cộng ba đứa.

Nhóm này cũng giống như bọn họ, quanh quẩn hết nửa vòng đất nước mà chẳng thu hoạch được gì. Tuy rằng cổ mộ ở Thiểm Tây rất nhiều, nhưng việc đạo quật lại hoành hành dữ dội, bên trong rất nhiều cổ mộ hầu như đã chẳng còn gì đáng giá. Một số thậm chí còn bị đục khoét tới mấy trăm lần, đạo động dày đặc giống như tổ ong vò vẽ, trong cổ mộ căn bản không còn đồ tốt, có đi vào cũng chả để làm gì. Mà trong nhiều ngôi mộ như vậy kiếm được một chỗ chưa bị đào bới đối với họ không phải việc đơn giản, cái này cần rất nhiều vận khí. Năm người lúc nào cũng trong cảm giác bức bách, thời gian đã qua phân nửa, nếu cuối năm mà vẫn chưa trở về thì không chỉ có họ mất mặt, không qua được kì thi còn làm mất mặt phụ mẫu.

Năm tên bí quá hóa liều liền đi làm một việc vô cùng nguy hiểm - bọn họ quyết định đạo mộ ngôi mộ cực kì đặc biệt. Ngôi mộ này không cần tìm, nó ở ngay đây, nhưng không ai trộm được.

Chính đó là nguyên nhân cho rất nhiều chuyện về sau.

Lúc ấy bản thân bọn họ cũng không biết mình đang ở địa phận nào, chi biết ở đó có một ngôi làng rất lớn tên là thôn Mã Am. Nghĩa địa của Mã Am nằm phía sau núi. Bấy giờ nơi này có một lực lượng vũ trang địa phương được tổ chức bởi một ông chủ lớn bao gồm những lính lẻ và quân đào ngũ. Nhóm người này đều là lính dày dặn kinh nghiệm, tuy rằng không được tham gia chiến tranh nhưng thân thủ cũng không tồi, bọn họ làm nhiệm vụ bảo vệ đại bộ phận thôn Mã Am.

Khi đó ý tưởng của họ chính là tìm cách đi tới núi phía sau thôn. Đây là hành động cực kì liều lĩnh bởi vì nơi này luôn có người trông coi nghĩa địa, đồng thời quy mô nơi này cũng không lớn, biệt lập trên một đồi đất.

Một số người chạy tới phụ cân thôn Mã Am, giả bộ như những đứa trẻ đang chơi đùa, cẩn thận dò xét tình hình bên kia, phát hiện thấy rằng cách nhanh nhất để tới đó là đi trong rừng tiến tới thẳng chân núi, sau đó từ chân núi tiến tới nghĩa trang. Mục tiêu của họ hết sức đơn giản, các phần mộ ở thôn Mã Am chia thành ba cấp độ, phía ngoài cùng có vẻ rất mới đều là mộ phần gần đây, tổng cộng có bảy phần. Bọn họ nghe nói ở đây đã chứa ba mươi sáu thế hệ ở thôn Mã Am này, nếu đúng là phần mộ tổ tiên từ trước tới nay đều được chôn phía sau núi thì dựa theo thói quen mai táng hẳn là phải có một khu mộ khổng lồ. Nhưng quy mô đồi đất này cũng không lớn, nói cách khác, nơi này cũng không có nhiều chỗ lắm để hết được ba mươi sáu thế hệ hạ táng. Ngôi mộ sớm nhất và có giá trị nhất ắt hẳn phải ở một nơi thập phần kì quái.

Bọn họ đứng trên nơi cao gần đấy nhìn xuống nghĩa trang, suy đoán sự vận động của đồi núi cùng biến đổi về địa hình, muốn tìm hiểu xem địa hình nơi này ban đầu có hình dạng thế nào. Rất nhanh sau đó họ phát hiện ra rằng do người ta không ngừng đào huyệt mộ, lấp đất đai khiến cho nghĩa trang càng ngày càng cao. Nói cách khác, toàn bộ nghĩa trang này phải là một khu quần mộ lớn, phía trên mặt có rất nhiều mộ lớn nhỏ. Thời điểm ban đầu chúng cũng không hề cao như vậy, có thể chỉ là một gò đất nhỏ trên đồng bằng, hoặc không có gì, hay chính ra chung quanh nghĩa địa bán kính vài km đều là chỗ cổ mộ ban đầu, hơn nữa nó
hẳn phải sâu vô cùng.

Vì thế vấn đề chính, mấu chốt nhất là quan tài của cổ mộ này nằm ở chỗ nào? Phải biết rằng một khi họ đào sai thì tuyệt đối sẽ không có cơ hội thứ hai. Suy nghĩ của nhóm tiểu hài tử phóng dã bấy giờ rất tích cực, họ nghĩ rốt cuộc vì nguyên nhân gì khiến cho tất cả mộ cổ đều di chuyển về hướng gò đất. Theo thuật phong thủy mà nói, nơi này phong thủy vô cùng tốt, nhưng vì sao lại không đặt ngay trên mặt đất? Quả thực cũng không nhất định phải làm như vậy.

Sau khi cân nhắc có người nói: "Có lẽ là tình huống như vậy, vốn nơi an táng này là một khu vực bằng phẳng, đến một ngày nơi này xây dựng một tòa cổ mộ thật lớn. Việc xây dựng này tạo ra một gò đất thừa đùn lên, gò đất thừa chính là nguyên hình của núi này. Khi gò đất hình thành sẽ làm cho thế núi nơi này nhấp nhô. Sau khi trở nên nhấp nhô, rất nhiều người sẽ không bằng lòng với việc mộ phần nhà mình sẽ bị chôn ở nơi đất thấp, mà muốn táng ở nơi cao hơn. Sau một thời gian dài, những mộ phần cũ nhất biến mất dần, rất nhiều người sẽ đem gò đất này trưng dụng thành nghĩa trang. Thông thường, mộ chồng mộ là một điềm rất xấu, nên có lẽ người chủ cũng không rõ, vì vậy tạo thành kết quả hiện nay."

Nói cách khác, ngôi mộ phía dưới ngọn núi hẳn phải là một cổ mộ khổng lồ, vấn đề bây giờ là làm sao qua mặt được đám lính trông coi dày dạn. Nhóm tiểu hài tử Trương gia tiến hành đo đạc khoảng cách, từ trong rừng đào hầm tới bên này tối thiểu hai km, là việc vô cùng hao tài tốn của, nhìn vào lực lượng năm đứa nhóc bọn họ, muốn đào dài như vậy là việc rất khó khăn.

Bọn họ phải dẫn hố đào đến gần nơi này, vì vậy phải sử dụng đến thủ thuật che dấu. Nhưng theo như tình hình, điều này dường như là không thể, bởi vì bốn phía trừ bỏ vài trạm gác, dường như một tấc cỏ cây cũng không thấy, tất cả đều là sắc vàng của núi, có thể nhìn không sót thứ gì, bất luận kẻ nào tới gần đều bị phát hiện.

Tuy nhiên, bọn họ thấy rằng đám người kia tuần tra vô cùng lười nhác. Quả thật dưới tình hình như vậy, dám tới chỗ này trộm mộ khẳng định không nhiều lắm, cho nên không cần quá lo lắng.

Tuy rằng mấy đứa nhóc Trương gia rất tin tưởng vào phán đoán của bản thân, nhưng trong đó có một đứa nghĩ rằng, cổ mộ như vậy không thể chưa từng bị ai nhòm ngó, chỉ cần tìm kiếm thử một lần, nhất định có thể tìm được dấu vết đạo động của người khác hướng vào trong cổ mộ. Bọn họ nghĩ biện pháp để tìm đạo động đó, cân nhắc xem liệu nó có còn dùng được nữa hay không.

Lúc ấy Trương Hải Khách nói: "Nếu mà thực sự có đạo động, thì chẳng phải mộ này đã bị trộm rồi sao?"

Đứa nhóc kia nói: "Cũng chưa hẳn, cậu nghĩ chủ quản của thôn Mã Am này vì cái gì mà xây dựng lên cả một lực lượng vũ trang bảo vệ khu mộ? Điều này chứng tỏ rất có thể họ biết trong đó có rất nhiều vật trân quý. Cổ mộ như vậy, khẳng định không phải tên tiểu mâu tặc có thể trộm được, cho dù có là cao thủ tới đi nữa, cũng sẽ lưu lại chút ít cho hậu nhân. Tóm lại, việc này nhất định đáng giá."

Chương 45: Cổ mộ khác thường

Vì thế nhóm năm người thay phiên nhau làm việc. Sau khi tìm được chỗ trú ẩn liền bắt tay vào làm, trước tiên đào một hố đất để năm người có thể cùng nghỉ ngơi, hố thông với mặt đất bởi một lỗ nhỏ đủ một người chui. Miệng hố được che lại bởi một cái liếp mặt trên đắp bùn đất, nhìn qua không có gì khác thường, chỉ giẫm lên mới phát hiện được nơi này quả thực có một miệng hố.

Bọn họ đào hố tương đối khôn khéo, đào ở cạnh một bờ ruộng, nên xác suất bị người khác phát hiện ra là rất rất nhỏ. Trong ngày họ hoạt động ở trên trấn, thu thập các công cụ nhỏ và lương khô, tới khi đêm đến thì thật cẩn thận chuyển vật tư vào trong động, rất nhanh trong đó liền có đồ dùng đủ cho họ trong vòng một tháng. Để giải quyết vấn đề đi vệ sinh, họ ở hai đầu động đào hai cái lỗ thật nhỏ, sâu tầm sáu, bảy thước, dùng cỏ tranh lấp lại, tạo nhà vệ sinh tạm thời.

Trương Hải Khách nói cho tôi biết, trong giai đoạn đầu chịu huấn luyện, người Trương gia đã được đào tạo một chế độ ăn uống đặc biệt, mỗi ngày có thể ăn rất ít, nhưng vẫn duy trì thể lực dồi dào, do đó cũng kiểm soát được sự bài tiết. Trường kì sống dưới mặt đất, không trông thấy ánh sáng mặt trời, có thể khống chế được lượng đại tiện, số lần đại tiện, năm sáu ngày mới có một lần, thậm chí đôi khi có thể ở dưới lòng đất cả ba mươi ngày mà không có dấu hiệu của đại tiện. Vốn bọn họ đào động cạnh bờ ruộng, cho dù có thối một chút, mùi cũng không quá nồng, nhưng để ngừa vạn nhất, họ vẫn nghiêm khắc quy định lượng lương thực tiêu thụ, để duy trì thể trạng bình thường.

Tôi nghe đến đó đã cảm thấy người của Trương gia quả là thảm, nếu ba mươi ngày không đại tiện thì chẳng phải là táo bón nghiêm trọng sao? Tiểu Ca trước kia như thế nào để vượt qua điều đó? Chức năng bài trừ độc tố trong cơ thể anh ta khẳng định đã vô cùng rối loạn.

Sau khi công cụ, vật tư đều đã chuẩn bị ổn thỏa, cả đám bắt đầu kế hoạch, đào hang trong lòng đất. Điều làm cho người ta đau đầu nhất khi tiến hành việc này chính là lượng đất đá thừa thải ra, chúng phải được chuyển ra ngoài hang. Tuy rằng bọn họ có thể chèn vào vách động để giảm một phần lượng đất thừa, nhưng đào hang này thực sự là một công trình khổng lồ. Cho nên, mỗi buổi tối là thời gian khó khắn nhất, tất cả phải tìm mọi biện pháp để đưa đất thừa ra ngoài.

Bọn họ cùng nhau đào bới, chờ đến khi đào được xuống dưới mộ phần thì cũng đã qua gần hai tuần lễ. Thời hạn họ phải về nhà mừng năm mới chỉ còn mười ngày, nội trong thời gian đó hoàn thành hết thảy thì quá gấp rút. Đối với Trương Hải Khách mà nói, đây là lần đầu tiên mà hắn cảm thấy cái nghề trộm mộ thật không dễ dàng. Trong quá trình hắn được huấn luyện, câu đầu tiên các trưởng bối nói với bọn hắn chính là: "Trong nhiều trường hợp, vận khí thường là nhân tố căn bản nhất quyết định hết thảy mọi việc." Hắn luôn khắc cốt ghi tâm điều này, thực sự là có một số việc bất luận chính ngươi có mạnh mẽ cỡ nào, cố gắng cỡ nào đi nữa, thì vẫn có thể thất bại, cái thực sự có thể làm ngươi thành công chỉ có vận khí.

Vào ngày thứ hai trong mười ngày, bọn họ bắt đầu đào xuống, buổi tối không ăn không uống cũng không ngủ, vẫn tiếp tục làm việc, rốt cuộc đào được tới đỉnh cổ mộ. Khi xẻng của họ chạm được xuống lớp đá lát xanh, tất cả mọi người đều không thể kìm nén phát một tiếng thở dài. Kiểu thở dài này, không phải cao hứng cũng không phải uể oải, chỉ là thốt lên sau một thời gian dài vất vả, bất lực. Họ nằm trên mặt đá lát ngủ ba giờ liền, sau đó lập tức bắt tay vào phá gạch xanh, đá tảng, chuẩn bị tiến vào mộ thất. Nhưng từ lúc đó, họ bắt đầu phạm phải một sai lầm hết sức nghiêm trọng.

Kết cấu lớp ngoài cùng của ngôi mộ này đại khái là đá tảng rộng tám thước, áp dưới đá tảng chính là gạch xanh. Phiến đá tảng dài bằng một người, rộng nửa người, bọn họ dùng đòn bẩy cố gắng cậy một góc phiến đá, sau đó dùng lực để mở ra. Thời điểm đó, tất cả mọi người đều chưa đạt được tới trình độ như Tiểu Ca dùng hai ngón tay để rút được đá phiến, cho nên vẫn hết sức cẩn thận dùng gậy gộc bẩy ra khe hở, sau đó dem gạch xanh đập vỡ từng viên một.

Tất cả đá phiến trên đỉnh mộ đều được sắp xếp theo một phương thức mượn lực, nếu lấy ra một khối không đúng cách có thể khiến toàn bộ đỉnh mộ sụp xuống.

Trong tình huống như vậy, bọn họ không thể không cẩn trọng từng chút một, rốt cuộc từ từ tạo ra được một lỗ hổng có thể ngươiễn cưỡng cho một người chui lọt. Lỗ hổng này mấy người Trương Hải Khách căn bản vào không nổi, chỉ có Tiểu Ca nhỏ nhất có thể chui vừa. Trương Hải Khách có chút lo lắng, dù sao Tiểu Ca tuổi vẫn quá nhỏ.

Nhưng công việc kế tiếp, nếu có người quan sát từ bên trong, sẽ làm họ giảm thiểu được những việc thừa thãi. Xét thấy tình hình lúc này đã hết sức khẩn cấp, cũng không còn biện pháp nào khác, bọn họ đành phải thả Tiểu Ca xuống.

Tình trạng bên trong cổ mộ vô cùng tốt, mộ thất không có lấy một giọt nước, hơn nữa còn hết sức khô ráo thoáng mát. Sau khi đi xuống, Tiểu Ca không hề ngửi thấy mùi hư thối nào, thậm chí còn không thấy cả mùi của quan tài.

Tiểu Ca rơi xuống giữa huyệt, đốt lửa lên trông bốn phía, liền phát hiện cổ mộ này rất không bình thường. Toàn bộ ngôi mộ bị đảo lộn, trên mặt đất đều là bích họa Cửu Thiên Huyền Nữ, ngược lại trên đỉnh thì không có thứ gì, tất cả toàn là những mảnh gạch so le không đồng đều. Tới khi xoay người lại, nhìn chung quanh mộ thất một vòng, liền ý thức được đây là chuyện gì. Đỉnh mộ đã đảo chiều, bây giờ tất cả những gì nhìn thấy trên kia chính là đáy mộ.

Chương 46: Quan tài lộn ngược

Ngôi mộ này như thể bị quỷ lật lại, đỉnh mộ ở dưới, đáy lên trên. Tiểu Ca nhớ tới lúc khi họ cậy phiến đá tảng, bỗng nhiên ngộ ra tại sao kết cấu kì quái này lại được sử dụng. Nói chung, những ngôi mộ nhà Hán bọn họ từng thấy đều dùng đá lát làm đáy, sau lớp đá lát là gạch xanh, bây giờ thì hoàn toàn ngược lại, nguyên nhân là bởi chỗ bọn họ đào được căn bản không phải đỉnh mà là đáy mộ.

Tiểu Ca đi tới chỗ ngôi mộ đảo chiều, giơ ngọn lửa nhìn hướng lên trên, phát hiện có một cỗ quan tài dán trên đỉnh mộ.

Đạo động tiếp tục được mở rộng, sau khi bốn người kia đi xuống, ai cũng lấy làm lạ, cảm thấy rằng đã gặp được mộ thất kì lạ nhất thế giới. Một người trong nhóm hỏi: "Có phải vì động đất nên toàn bộ ngôi mộ lật ngược lại hướng lên trời, trở thành như thế?"

Trương Hải Khách chỉ lắc đầu, chỉ vào quan tài kia nói: "Nếu như vậy, quan tài này cũng không thể dính ở mặt trên, nó khẳng định sẽ vì bị lộn ngược mà nứt vỡ ra ở trần phòng. Hơn nữa, nếu thực sự động đất mạnh như vậy cũng không có khả năng thay đổi toàn bộ ngôi mộ, huyệt mộ đều là kết cấu rời rạc, dựa vào trọng lực, áp lực chắc chắn, một khi có lực đủ để đối kháng, huyệt mộ nặng như vậy, đỉnh mộ chắc chắn sẽ vỡ nát ra thành một đống ngói vụn."

Người kia lại hỏi: "Vậy đây là chuyện gì? Chẳng lẽ là cố ý?"

Trương Hải Khách gật đầu. Trương gia đã đào tạo họ như thế nào ứng phó với các tình huống chưa từng biết, toàn bộ vật bồi táng đều bị đảo chiều lên đỉnh mộ, toàn bộ ngôi mộ cùng đảo lộn, tạo thành cục diện như hiện tại, việc này chắc chắc có nguyên nhân bất khả kháng. Hắn cảm thấy nguyên nhân này có quan hệ đến phong thủy. Người bên cạnh nói: "Rất kì lạ, tôi chỉ nghe nói có táng thẳng đứng, táng ngang, cũng đã nghe nói "táng nằm sấp", nhưng "táng nằm sấp" cũng chỉ là đem thi thể đặt nằm úp trong quan tài. Tôi chưa từng thấy qua xây toàn bộ ngôi mộ như này."

Trương Hải Khách nghĩ thầm, rốt cuộc là dạng phong thủy gì mà cần phải làm vậy? Đây chẳng lẽ là thứ hắn đã trông thấy trong sách cổ, đặt quan tài ở một nơi có thể thay đổi phong thủy vận mệnh? Những người khác nhìn hắn lẩm bẩm: "Cậu bình thường có rất nhiều mưu kế, sách đọc cũng không ít. Cậu hoàn toàn không có chút manh mối nào sao?"

Trương Hải Khách nói: "Chúng ta nói một cái âm trạch (ngôi mộ) tốt khi mục đích hàng đầu là phải hấp thụ được linh khí đất trời. Nhưng trên trời, dưới mặt đất hay trong lòng đất cũng không có điểm gì khác biệt, linh khí đất trời vẫn có thể xuyên qua toàn bộ, nó bất kể là xuyên qua chính diện hay ngược lại cũng đều giống nhau. Tuy nhiên cổ mộ này lại được bài trí như vậy, chứng tỏ rằng nó lấy trời làm đất, lấy đất làm trời."

Một người khác nói: "Tôi chả hiểu, ý cậu nói đây là mộ của Tổng đà chủ thiên địa hội Trần Cận Nam chắc?"

Trương Hải Khách liền đánh người đó một bạt tai: "Tổ sư gia từng nói, vào những lúc thế này không được bỡn cợt. Nếu cậu không thành tâm đối đãi với cổ mộ này, nó cũng tất không đối đãi nghiêm túc với cậu đâu."

Người kia nói: "Nó không thực tâm đối đãi mới được thế này. Nếu nó mà thực tâm, con mẹ nó tôi chắc lại càng gặp khó khăn hơn."

Trương Hải Khách nói: "Tôi từng thấy trong một bộ sách cổ ghi lại chuyện tương tự, tổng thể hình dạng thế núi của vùng này là hướng dài trong lòng đất, không phải hướng lớn lên trời. Thầy phong thủy có lẽ vì thuận theo hướng núi non cho nên không thể không thiết kế cổ mộ theo kiểu này."

Những người khác nghe xong cảm thấy dường như cũng có lý. Lúc này Tiểu Ca mới lên tiếng: "Nói như vậy, còn có vài điểm nghi vấn. Núi non đều là đỉnh nhọn, đỉnh nhọn hướng trời, đáy hướng đất. Cho dù có là núi ngầm cũng đều như thế, bởi vì thế núi nặng trĩu mà chìm xuống, hoặc do tác động của sụt lún. Nếu gần đây có núi ngầm, đúng kiểu lấy đất làm trời, trời làm đất như vậy, thì đoạn núi đó cũng nặn ở một nơi rất sâu, dựa theo lẽ thường, cổ mộ cũng phải đi theo xuống."

Liên quan đến tình huống của cổ mộ này đã thập phần quỷ dị, Trương Hải Khách liền thầm tính toán trong đầu. Quả thật, điểm đầu tiên có thể chắc chắn chính là cổ mộ ở thời điểm xây dựng ban đầu, toàn bộ chân núi là đá nhô ra khỏi mặt đất, mà đám đá nhô khỏi mặt đất này rất dễ dàng bị cho là một mỏm núi đá ngầm phát triển trong lòng đất dưới chân núi, nó tựa như răng của con người, khảm sâu vào lòng đất. Nếu phải xây dựng một cổ mộ như vậy, tất nhiên không thể theo núi đá đào động đi xuống, mà hẳn là nên đào đất từ bên sườn, rồi xây dựng ở dưới giống như đào đạo động. Những cổ mộ lớn truyền thống thường được xây lộ thiên rồi cuối cùng lấp lại bằng đất, nhưng cách đó không thích hợp với nơi này, trừ khi bọn họ có cách rút toàn bộ ngọn núi lên trên.

Cả đám trầm mặc hồi lâu, một người nói: "Nếu đã như vậy, chi bằng chúng ta rút lui."

Mọi người nhìn nhìn đỉnh mộ, nhớ tới cả đoạn đường khổ cực mới tới được đây, vạn phần luyến tiếc.

"Thôi." Một người khác nói: "Được làm vua thua làm giặc, chuyến này thử đánh cược mặc cho thất bại."

Mở quan tài trên mặt bằng, khi ở nhà họ đã luyện tập vô số lần, làm sao để đinh lộ ra, làm sao để nhổ đinh, các loại quan tài thế nào, làm cách nào đoán được bên trong có phải đã thi biến thành bánh tông hay chưa, cái gì cũng đã thuộc nằm lòng, chỉ là không nghĩ tới lần đầu tiên thực sự làm thật, lại là đối mặt với một khối quan tài bắt ngược lên đỉnh. Lúc này biện pháp tốt nhất chính là móc người lên trần, sau đó đứng chổng ngược lại, nhưng việc này rõ ràng không khả thi.

Mọi người cân nhắc một phen, cảm thấy rằng nếu dùng cách bình thường với quan tài trên trần thì quá mạo hiểm. Bởi vì thi thể nhất định nằm trên nắp quan tài, giả sử chúng được đóng đinh cùng nhau, bất kể bên trong thi thể có thi dịch hay không, trong thi dịch có độc hay không, chỉ cần nó chịu lực không đều, tất sẽ sinh ra rạn nứt, dịch sẽ từ vết nứt trào ra, nếu dịch thể có độc thì sẽ rất dễ khiến người khai quan thụ thương, dù cho không có độc cũng tởm lợm kinh người.

Biện pháp tốt nhất là trên thân quan tài phá một cái lỗ, sau đó nhòm vào thử xem tình hình trong quan tài, sau đó mới tính tiếp.

Sau khi thảo luận xong, trong năm người thì Trương Hải Khách thân thủ tốt nhất, hắn đứng mũi chịu sào cầm cây dùi, hai người khác xếp chồng thành thang nâng tới bên cạnh quan tài. Trương Hải Khách cân nhắc một hồi lâu, sau đó thật cẩn thận đâm mũi dùi vào bên trong quan tài. Dựa vào cảm giác ngón tay, hắn từ từ ý thức được chiếc dùi đã phá vỏ ngoài thâm nhập vào nội quan, tuy nhiên lỗ hổng thực sự rất là bé. Lúc sau hắn dùng dây thừng buộc chặt phần duôi dùi, sau đó hạ xuống mặt đất nép vào một góc sáng sủa của mộ thất, lấy lên một viên gạch nhắm mũi dùi ném tới. Chiếc dùi ngập vào trong quan tài, bọn họ liền dùng lực kéo, lôi chiếc dùi ra ngoài.

Họ tưởng sẽ nhìn thấy một thứ nước đen ngòm phun ra từ trong lỗ, nhưng cái thực sự phun ra không phải nước mà là một đám khói đen, dường như tro bụi chồng chất bên trong bị động mà tuồn ra. Khói đen phụt ra một chút rồi không thấy tiếp tục nữa, toàn bộ mộ thất lại khôi phục sự yên tĩnh ban đầu.

Mọi người quay sang nhìn nhau. Trương Hải Khách nói: "Xem ra bên trong khô ráo, chúng ta cứ trực tiếp tháo rời hết đinh, chắc không phải vấn đề lớn." Một người khác nói: "Đừng vội kết luận như vậy, cứ thử ngó tới gần lỗ hổng xem tình hình thế nào đã, khói đen kia rốt cuộc là thứ gì?" Vì thế, Trương Hải Khách lại lần nữa leo thang người tới bên cạnh quan tài, thật cẩn thận sát vào lỗ hổng kia, quan sát được lập tức nói: "Là tro bụi, một loại tro bụi rất mịn màu đen."

Người lúc rồi nói đừng vội kết luận tiếp: "Không ổn rồi, nếu trong quan tài toàn là thứ tro bụi đó, chúng ta lại mở nó ra thì sẽ xảy ra việc gì? Tro bụi màu đen trút xuống, bám vào tất thảy mọi người, nếu nó có độc hoặc có đặc tính ăn mòn thì cả đám sẽ gặp tai họa. Hơn nữa," Người kia dừng một chút, "Tro bụi so với nước còn khó xử lí hơn, nếu là nước thì còn có thể từ từ rửa sạch, nhưng tro bụi dù cho có phủi thế nào cũng không sạch được. Nước thì cùng lắm tung tóe vài giọt sau đó theo các rãnh trong mộ trôi đi, nếu đục lớn lỗ hổng, tro bụi dễ phát tán hơn nước, toàn bộ không gian sẽ bị lấp đầy, chúng ta cũng không còn chỗ trốn."

Chỉ mới là tro bụi thôi mà cũng phiền tới vậy, vài người đều có phần chán nản, như thế này xem ra không khai quan nổi, thì ra phương thức chống trộm mộ tốt nhất không phải xây mộ thật kiên cố mà là đem quan tài dính luôn lên trần mộ.

Trong khi mấy người nhăm nhó thì bỗng lại có ai đó kêu lên làm cho người khác cùng nhìn về một chỗ. Ngay khi tầm mắt chuyển hướng, bọn họ liền phát hiện, ngoại trừ cỗ quan tài thì trong mộ thất này còn có một thứ đặc biệt kì quái. Bản thân vật đó cũng không hẳn là kì lạ, nhưng do tất cả mọi thứ trong mộ đều đảo ngược chỉ có mình nó là đặt bình thường. Nó có vẻ cách xa, nhìn rất mông lung, lờ mờ, hình như là một bức tượng động vật.

(Tàng Hải Hoa 1 hoàn)

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Info