ZingTruyen.Info

Đạo mộ bút ký full (chính truyện + Ngoại truyện + đoạn tín)

Đạo mộ bút ký - Quyển 4- Vân đỉnh thiên cung

kanda_yuu


Chương 1. Tin tức mới

Tôi hôn mê suốt ba ngày ròng rã, đến khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Khi vừa mở mắt ra tôi chẳng nhớ được gì, chỉ cảm thấy đất trời cứ xoay mòng mòng, không ngừng nôn mửa, đầu óc choáng váng.

Hai ngày sau, bệnh tình của tôi mới dần dần khá lên một chút, thế nhưng khả năng phát âm đã hoàn toàn biến mất. Dù tôi cố gắng nói cái gì đi chăng nữa, âm thanh phát ra cũng chỉ là những tiếng kêu quái gở. Tôi còn tưởng đầu óc mình bị va đập quá mạnh gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh ngôn ngữ nên cực kỳ lo lắng, nhưng bác sĩ lại nói đây chỉ là di chứng do não bị chấn động mạnh mà thôi. Mãi cho đến ngày thứ tư, tôi mới có thể miễn cưỡng mở miệng hỏi bác sĩ xem tôi đang ở nơi nào. Bác sĩ nói đây là bệnh viện hội Chữ Thập Đỏ ở Bi Lâm, Tây An. Tôi được mấy người cảnh sát khiêng về, cụ thể tình trạng lúc họ phát hiện ra tôi thế nào thì bác sĩ cũng không rõ, chỉ nói đại khái là tôi bị gãy những mười hai cái xương, hẳn là do ngã từ trên cao xuống.

Ngực và tay trái của tôi bọc đầy thạch cao cho nên tôi cũng chẳng biết mình bị thương nặng đến mức nào. Nghe bác sĩ kể, tôi mới hay mạng mình vẫn còn lớn lắm. Tôi hỏi, lúc nào mới có thể xuất viện, bác sĩ chỉ nhìn tôi cười cười, nói trong vòng mười ngày nửa tháng tôi đừng hòng xuống giường.

Đến tối, người cảnh sát đã mang tôi về đây đến thăm tôi, mang theo cả một giỏ hoa quả. Tôi lại hỏi câu cũ. Giống như bác sĩ, anh ta cũng không biết trả lời ra sao, chỉ nói có mấy người thôn dân ở Lam Điền tìm thấy tôi bên bờ một con suối. Khi ấy tôi được đặt nằm trên một cái bè trúc, những vết thương trên người đã được sơ cứu. Bác sĩ còn bảo, nếu lúc ấy không được sơ cứu, tôi đã chết từ đời thuở nào rồi.

Tôi lấy làm lạ. Những ký ức cuối cùng của tôi là khi chìm vào đáy nước, theo logic thì cùng lắm cũng chỉ nằm vật ra bên bờ sông thôi, sao lại nằm trên bè trúc được cơ chứ? Thứ hai, Lam Điền là vùng cách Giáp Tử Câu phải đến bảy mươi tám mươi dặm đường, chẳng nhẽ, bọn tôi đi men theo con đường dưới lòng sông, bất giác đã đi cả một quãng dài như vậy rồi sao?

Tôi ậm ừ chém bừa cái lý do một mình lên núi chơi sảy chân rơi xuống vực, nói ngàn vạn lần tạ ơn người cảnh sát đã cứu tôi về, sau đó lôi điện thoại ra gọi Vương Minh ngay lập tức. Nhắn cậu ta đến Tây An một chuyến, mang theo ít tiền với quần áo cho tôi. Ngày hôm sau Vương Minh đến nơi, tôi lấy tiền thanh toán viện phí với thuốc men, sau đó mua một chiếc di động và một cái laptop.

Tôi hỏi Vương Minh mấy chuyện làm ăn gần đây thế nào. Cậu ta nói, không có gì quan trọng, chỉ có cha tôi đang ráo riết tìm tôi. Tôi nghĩ chắc là lâu lắm rồi không liên lạc gì nên ông cụ lo lắng. Vì thế tôi báo về nhà một cái tin bình an, nhưng lúc đó cha tôi lại không có nhà. Tôi nói chuyện với mẹ vài câu, tiện hỏi về chú Ba, nhưng lại chẳng có tin tức gì.

Xem ra mọi thứ vẫn y nguyên như trước khi tôi tới đây. Tôi cảm thán một tiếng.

Vài ngày tiếp theo, trong khi đang buồn chán muốn chết, tôi chợt nhớ đến lão Dương. Trong lòng lại chua xót, tôi bèn ngồi trên giường bệnh, lấy bộ trang phục leo núi đã nát tươm mà tôi mặc lúc rơi xuống núi ra, tìm cuốn sổ nhật ký của lão Dương. Cuốn nhật ký vẫn còn đó nhưng đã bị thấm nước nên chẳng còn nhìn rõ chữ gì. Tôi ráng căng mắt ra đọc một hồi. Vẫn chẳng đọc được gì, tôi đành lấy điện thoại, lên mạng giết thời gian.

Tôi tìm kiếm rất nhiều tư liệu, nhưng thông tin về đồ cổ ở trên mạng không nhiều. Tôi miêu tả sơ lược lại hình dáng cây thanh đồng trong đầu, gửi cho vài người bạn xem, một lát sau nhận được hồi âm, đa số đều không biết đó là thứ gì. Hơn nữa, bọn họ nghe miêu tả của tôi cũng không tin, chỉ có vài email là thu hút tôi nhất.

Trong số đó có một email từ Mỹ gửi tới, là một người bạn của cha tôi. Trò chuyện với tôi một hồi, ông ta viết trong mail rằng có một loại cây thanh đồng gọi là "Sáo trụ" bởi hình dạng nó trông như một cây sáo – loại sáo thời cổ. Năm 1984, người ta đã phát hiện ra một cây như thế ở một khu mỏ tại Phàn Chi Hoa, nhưng không lớn như tôi miêu tả, chỉ dài có một đoạn, phần cắm sâu dưới lòng đất cũng đã hoàn toàn rỉ sét.

Cho đến giờ vẫn chưa có một tài liệu lịch sử nào cho biết thứ này dùng để làm gì, tuy nhiên căn cứ vào Sơn Hải kinh và những tài liệu chép lại từ truyện thơ của một số dân tộc thiểu số, thứ này với "Địa long (rắn)" thời cổ có liên quan đến nhau.

"Nến Cửu Âm" hẳn là một loại rắn sinh sống dưới lòng đất sâu, do quá nhiều năm chui rúc trong khe đá chật hẹp sâu hoắm, không có cơ hội nhìn thẳng cho nên con mắt bị biến đổi giống như cá thờn bơn vậy. Người xưa lấy máu tươi để dụ nó chui lên từ dưới lòng đất, sau đó bắn chết, làm thành đèn nến. Nghe thì thật đáng trách, nhưng vào thời đó nguồn sáng lâu dài là một thứ cực kỳ quý giá, đặc biệt với những người sinh sống về đêm hoặc phải sống trong những hang động quanh năm tối đen như hũ nút.

Tôi thấy ông ta phân tích cũng có vẻ hợp lý, có điều tôi không hiểu nổi vì sao hễ động đến cái "trụ" kia là lập tức xuất hiện loại năng lực vừa kỳ diệu lại vừa khủng khiếp ấy. Tôi gửi hồi âm, hỏi xem trong lịch sử đã từng xảy ra những chuyện kỳ lạ tương tự hay chưa?

Ông ta gửi hồi âm nói vẫn còn một quyển sách đã hư hại nhiều, đó là quyển bút ký dạng tiểu thuyết, bên trong ghi chép lại một sự việc đã xảy ra vào năm Càn Long thời nhà Thanh. Năm đó ở một khu mỏ vùng Tây An đã đào được một cái hộp có hoa văn hình rồng bằng đá xanh trắng. Hoàng đế Càn Long mở ra xem, ngay tối hôm đó đã bí mật triệu mấy vị đại thần vào cung, luận bàn đến khuya. Sau đó, cung Càn Thanh cháy. Mấy vị đại thần kia, ngoại trừ một người rất nổi danh ra, còn đâu toàn bộ đều không được chết già mà đều bị giết một cách thần bí.

Tôi xem khoảng thời gian, đại khái cũng trùng với thời gian sự việc được ghi lại trong "Hà mộc tập" của Lý Tỳ Bà, hẳn là hai chuyện này có liên quan với nhau. Xem chừng người cuối cùng đào ra hộp hoa văn hình rồng đá trắng xanh và những người biết chuyện này đều đã bị diệt khẩu, hoàng đế hạ quyết tâm lớn đến thế chỉ để bảo vệ một bí mật, cái hộp hoa văn hình rồng đá trắng kia rốt cuộc là thứ gì? Liệu có liên quan đến lai lịch của cây cổ thụ thanh đồng không?

Tôi lại gửi mail hỏi ý kiến ông ta lần nữa, ông ta chỉ hồi âm đúng một câu: muốn biết phải đào sâu thêm nữa mới được.

Tôi cười khổ một tiếng, biết đây là việc khó khả thi. Ai mà biết cái cây kia còn mọc sâu đến đâu chứ, biết đâu năm đó người đúc ra thứ này phải mất đến mấy thế kỷ, cho dù muốn đào cũng chẳng biết đào đến bao giờ mới xong.

Còn một email khác là của chú Hai gửi tôi. Chú bảo, khi dân tộc thiểu số kia bị ảnh hưởng bởi văn hóa và phong cách trang trí thời Tây Chu thì giao lưu giữa các dân tộc rất hạn hẹp. Hơn nữa, cách thức liên lạc và chuyển phát thông tin thời đó rất kém phát triển, nên hẳn là có một thời kì bị trì trệ. Nói cách khác, thời gian tôi phỏng đoán dễ chừng là quá sớm, dựa theo quy luật chung, khi dân tộc thiểu số kia phát triển thì ở Trung nguyên hẳn đã sang cuối thời Tần rồi.

Vào thời gian đó, hầu như mọi hoạt động của dân tộc thiểu số này đều na ná việc thi công lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Bọn họ đi săn Nến Cửu Âm có thể là để tinh luyện "Mỡ rồng", mục đích hẳn cũng tương tự với việc luyện đan tiến cống hoàng đế. Hơn nữa, khi thăm dò cả khu, giống như lăng Tần Thủy Hoàng, tầng dưới cùng có vị thế đứng đầu và cũng có vật thể kim loại khổng lồ. Theo lý mà nói, kỹ thuật luyện kim thời đó chưa đủ để hoàn thành một công trình vĩ đại như thế. Người thi công hẳn phải là người ngoại lai, đến từ một dân tộc có trình độ kỹ thuật luyện kim đặc biệt phát triển.

Chú Hai là fan trung thành của Tần Thủy Hoàng, cái gì chú cũng chém thành chuyện được, tôi không cho suy đoán của chú là đúng.

Một tháng sau, tôi xuất viện. Về đến nhà, dọn dẹp một chút, tôi mới bắt đầu điều chỉnh lại tâm tình của mình. Trở về sinh hoạt bình thường một lần nữa. Tôi dọn lại cái hòm thư đầy ứ đến mức suýt bung ra, xếp riêng một số tạp chí và báo giấy, thế rồi tôi tìm được một phong thư chuyển phát nhanh không kí tên.

"Lão Ngô,

Có đoán ra tôi là ai không?

Phải, tôi chưa chết. Hay cũng có thể nói, tôi vẫn còn sống.

Rất xin lỗi vì đã lôi cậu vào mớ rắc rối này, nhưng dù sao cậu cũng là người tôi tin tưởng nhất, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Bây giờ mọi chuyện đều đã xong xuôi cả rồi. Quan hệ của chúng ta, chắc cũng phải kết thúc ở đó thôi. Tôi rất vui vì được làm bạn với cậu, nhưng bây giờ đã chẳng còn gì là quan trọng nữa.

Cậu rất muốn biết ba năm trước đã xảy ra chuyện gì phải không?

Ba năm trước, tôi với mấy thằng bạn đến Tần Lĩnh làm ăn. Chúng tôi đã căn cứ vào truyền thuyết của dân bản xứ, tìm ra hang động dưới gốc cây đa trên đỉnh núi. Bọn tôi bàn tính với nhau, chuẩn bị mạo hiểm chui xuống thăm dò bên dưới. Toàn bộ quá trình cậu đã biết rồi, cho đến khi tôi bị nhốt trong hốc đá.

Lúc ấy, tôi đã vô cùng tuyệt vọng. Tuy tôi không chết ngay lập tức, nhưng sự sống đối với tôi là một điều hết sức đáng sợ. Vĩnh viễn sống trong một xó chật hẹp, trong một hốc đá tối đen nằm sâu trong núi lớn, vĩnh viễn không có ngày thoát ra. Nỗi đau đớn khổ sở này, chắc cậu cũng đã nếm thử rồi.

Tôi nằm trong bóng tối suốt bốn tháng, bốn tháng ấy trôi qua không khác gì địa ngục. Nhưng trong khoảng thời gian này, tôi đã suy nghĩ không ngừng và rồi nhận ra loại năng lực này có liên hệ với tiềm thức. Ví dụ như, tôi muốn mở một cánh cửa trên tảng đá, tôi phải thuyết phục được bản thân mình tin rằng trên tảng đá có một cánh cửa, bằng không dù có nghĩ đến nát óc thì cửa cũng không xuất hiện.

Con người sao có thể lừa dối được tiềm thức của mình. Cho nên, muốn sử dụng năng lực này thì nhất định phải có sự dẫn dắt, cái này rất khó. Tôi đã nói với cậu rồi, nếu quá trình dẫn dắt thất bại hoặc xuất hiện sai sót thì sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi thứ cậu đã hiện thực hóa ra là gì, cực kỳ đáng sợ.

Tôi không ngừng cố gắng, dần dần cũng nắm được một vài bí quyết. Thế nhưng trong lúc đó, tôi lại phát hiện loại năng lực này sẽ dần dần suy giảm theo thời gian, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Cảm giác này rất rõ ràng, giống như thân thể dần dần cảm thấy rã rời vậy. Tôi hiểu rằng nếu không mau mau tìm được cách thoát ra ngoài, rất có thể mình sẽ bỏ mạng nơi đây.

Tôi rơi vào đường cùng, quyết định thử dùng năng lực này phục chế một bản sao của chính mình. Không ngờ thử nghiệm lại thành công, chính tôi cũng thấy hoảng sợ, thoáng cái tôi bỗng phát hiện ra mình đã ở bên ngoài sơn động.

Khi ấy, tôi không hề ý thức được tôi chỉ là bản phục chế, bởi lẽ tôi và bản thể đều sở hữu những ký ức giống hệt nhau. Cho nên khi hắn ta gọi tôi, tôi hoàn toàn không thừa nhận tôi chỉ là bản phục chế. Hắn bắt đầu chửi tôi, nói tôi muốn thay thế hắn tồn tại trên thế giới này, nói muốn tôi biến mất. Tôi rất sợ hãi, tôi đã nghĩ người trong động kia hẳn là quái vật, nên mặc cho bản thể của mình kêu khóc trong ấy, tôi đã tìm thuốc nổ, khiến hang động này hoàn toàn sụp xuống.

Trên thực tế, tôi đích xác biết mình chỉ là bản phục chế, nhưng sâu trong tiềm thức tôi lại không muốn tin vào chuyện này. Cho nên tôi đã rơi vào tình trạng tổn hại nặng nề, tôi tự tay giết chính bản thể của mình, sau đó lại tự ám thị mình rằng tôi chỉ giết đi một kẻ thay thế.

Năng lực mà cây thanh đồng tạo ra có thời gian rất ngắn. Bởi vậy tôi đã bẻ một cành cây thanh đồng, dùng năng lực để thoát ra từ dưới chân cây thanh đồng. Tôi đã mang theo một bộ phận của cây thanh đồng để có thể sử dụng năng lực đó lâu hơn một chút, như vậy tôi mới có thể trốn ra đến thế giới bên ngoài. Về sau thực tế đã chứng minh suy nghĩ của tôi là chính xác, tôi ra đến bên ngoài, nơi chúng tôi đã đào đường vào trước đây. Tôi lại sợ mấy cành cây Thanh đồng chỉa ra dễ bắt mắt nên đem chôn nó vào lòng đất, sau đó trở lại Tây An tìm nơi bán cành thanh đồng đã bẻ.

Đáng tiếc khi đang trao đổi, tôi lại bị cảnh sát chìm bắt tại một hàng đồ cổ. Chuyện sau đó cậu đã biết rồi, khi về đến nhà thì mẹ tôi đã mất. Việc này, tôi không lừa cậu.

Còn một việc nữa tôi phải nói cho cậu biết, sử dụng loại năng lực này không phải không có cái giá của nó. Trí nhớ của tôi sau đó rất kém, có nhiều việc phải ghi lại thì mới nhớ nổi, đó chính là di chứng của việc sử dụng năng lực này. Trên đường đi tôi vốn dàn xếp cho cậu rất tốt, khiến cậu vô tình giúp tôi hoàn thành chuyến thám hiểm này, nhưng tiếc là chuyện ba năm gần đây tôi đã quên rất nhiều, thậm chí ngày đó thoát ra bằng cách nào tôi cũng không còn nhớ rõ ràng, cho nên sơ hở chồng chất. Tôi đoán nếu sử dụng nó thêm hai ba năm nữa, tôi sẽ mất đi toàn bộ ký ức.

Trên người cậu cũng có loại năng lực kỳ lạ này. Tôi không rõ cậu có bị ảnh hưởng hay không, nhưng cậu phải chú ý cẩn thận. Theo tính toán của tôi, loại năng lực này có lẽ sẽ lưu lại trên người cậu rất nhiều năm, nhưng cực kì yếu, hầu như không gây cảm giác gì.

Lão Dương."

Tôi xem hết phong thư rồi thở phào một cái, không biết nói gì cho phải. Trong thư còn có một tấm ảnh chụp, đó là hình của hắn và mẹ đang ngồi bên bàn, phía sau là biển rộng, có lẽ là đi ra nước ngoài. Mẹ hắn vẫn còn rất đẹp, tuổi còn trẻ, đứng chung với hắn trái lại trông giống một đôi tình lữ hơn. Tôi nhìn đi nhìn lại vẫn thấy trên gương mặt người mẹ có một luồng yêu khí, một vẻ dữ tợn không sao tả rõ được, chắc là do ảnh hưởng tâm lý.

Thời gian cứ thế trôi qua, không biết mùa đông đã đến tự bao giờ. Tôi rúc trong phòng điều hòa, lười biếng ngủ gà gật suốt cả buổi chiều. Nằm trên ghế dựa trong nội đường "Tây linh ấn xã", hai chân lạnh như băng, tôi chẳng biết làm gì, đang nửa tỉnh nửa mơ bỗng Vương Minh bước vào báo: "Lão đại, có người tìm."

Bấy giờ tôi mới miễn cưỡng phản ứng, ngáp một cái, bụng bảo dạ đã vào tiết Tam cửu thiên[1] rồi mà cũng có kẻ đến tiệm đồ cổ, sao mà nhiệt tình dữ. Mà thôi, dù gì cũng là chuyện làm ăn, tôi đứng lên, xoa nắn mặt mày, chấn chỉnh tinh thần rồi đi ra ngoài.

([1] tiết Tam Cửu Thiên: thời điểm lạnh nhất trong mùa đông.)

Điều hòa của phòng ngoài công suất khá nhỏ, một cơn gió lạnh thổi qua khiến tôi bất giác rùng mình. Người tới thì ra là cô bé thủ hạ của chú Hải ở Tế Nam, đang run bần bật giữa tiết trời đông lạnh. Tôi thầm nghĩ chắc con bé mang chi phiếu đến cho mình đây, trong lòng ấm lên một tí, liền gọi Vương Minh pha ấm trà. Tôi hỏi han: "Sao rồi nhóc, chú Hải kêu nhóc tới hả?"

Cô nhóc tên Tần Hải Đình, là thân thích của chú Hải, mới mười bảy tuổi đã là một tay sành sỏi trong giới đồ cổ. Nó gật gật đầu, đáp: "Ôi mẹ ơi, sao Hàng Châu còn lạnh hơn cả phương bắc bọn em nữa hả giời."

Vương Minh cười bảo: "Phía nam tiết trời khô ráo nên đã rét là rét buốt, hơn nữa Tế Nam cũng không được tính là phương Bắc nha."

Tôi nhìn Tần Hải Đình răng đánh lộp cộp, liền kéo cô bé vào nhà trong. Bên trong có điều hòa ấm áp, lại đưa thêm cho nó một túi giữ nhiệt, rồi hỏi: "Nhóc mày cũng sợ lạnh ghê, sao rồi, ấm lên tí nào chưa?"

Cô bé uống liền mấy hớp trà nóng, rồi ngồi trong phòng duỗi tay duỗi chân, "Khá hơn chút rồi. Người ta bảo Hàng Châu đẹp thế này đẹp thế kia, chú em chẳng cho tới mà em còn cố giành đi, nào ngờ lại lạnh cắt da thế này. Ai da, từ giờ về sau đừng hòng bảo em tới đây lần nữa."

Tôi hỏi: "Thế chú nhà mày sai mày đến đây làm gì? Sao không gọi điện báo trước một tiếng."

Tần Hải Đình cởi khăn quàng cổ xuống, móc một cái phong bì từ trong cái ví da, nói: "Đương nhiên là có chính sự, nè, tiền mặt, chi phiếu đủ cả. Tiền bán miếng Ngư nhãn thạch đó."

Quả nhiên đúng như tôi dự đoán. Lúc nhận tiền tôi đếm lại một lần, không thừa không thiếu đồng nào mới bỏ vào túi áo, nói: "Thay anh cám ơn chú nha."

Cô bé lại lấy ra một tấm thiếp mời, đưa cho tôi: "Mai mốt chú Hải nhà em sẽ đến Hàng Châu tham gia một hội giám định đồ cổ. Chú bảo anh cũng đi theo luôn, có chuyện quan trọng cần bàn với anh."

Tôi hỏi: "Mai mốt? Anh không chắc là lúc ấy sẽ rảnh đâu. Sao không nói chuyện trên điện thoại luôn mà phải thần bí thế?" Thực ra là vì tôi không muốn đi. Giám định đồ cổ là công việc rất ngán ngẩm, đối với người trong nghề chẳng qua chỉ là mấy lão già tán chuyện phiếm với nhau thôi, chứ thực chất làm quái gì có lắm điển cố điển tích đến thế. Đồ thật hay giả chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay rồi.

Tần Hải Đình xáp lại gần, hạ giọng thì thầm vào tai tôi: "Chú em bảo, chuyện này có liên quan đến con xà mi đồng ngư kia, không đi là hối hận đó."

Chương 2. Pháo hoa năm mới 2007

Quan hệ của tôi với lão Hải chẳng tốt đẹp đến mức không giấu nhau điều gì. Bình thường thỉnh thoảng cũng cùng nhau làm ăn vài mối, khi mới quen biết sơ sơ tôi gọi ông ta một tiếng "chú" cho ông ta chút thể diện. Thế mà bây giờ tự dưng ông ta muốn tiếp cận tôi thì quả là có vấn đề. Nghĩ thì thế, nhưng tôi không biểu lộ ra ngoài trước mặt cô nhóc kia. Thuận miệng đáp, tôi hỏi: "Sao thế? Ổng tra được tin tức gì à?"

Tần Hải Đình cười xấu xa: "Chú em bảo, đến lúc đó hẵng nói anh nghe, em cũng chẳng biết là chuyện gì xảy ra đâu, xin đừng dò hỏi nữa."

Tôi chửi thầmmột tiếng trong bụng, cái lão già gian thương này hẳn là muốn lợi dụng kiếm chác gì đó đây.

Sang ngày thứ ba, quả nhiên lão Hải đến nơi. Tôi đón ông ta từ bến tàu hỏa, dẫn ông ta ra đường lớn tìm quán rượu. Lúc ở trên xe, tôi hỏi ông ta rốt cục đã nghe ngóng được tin tức gì, ổng mà dám lừa gạt tôi, nhất định tôi sẽ không tha cho ổng.

Lão Hải lạnh đến run lập cập cả người, nói: "Phép vua còn thua lệ làng, trên địa bàn của cậu tui sao dám lừa cậu cái gì. Cơ mà chúng ta đừng nói chuyện ở chỗ này, tui sắp chết cóng rồi đây."

Tôi đưa ông ta đến một quán rượu, cất hành lý, tìm một bàn ngồi xuống. Sau đó gọi bình rượu nóng, uống mấy chén lót dạ, cuối cùng cũng ấm người lên được một chút.

Tôi nhìn ông ta nốc rượu ừng ực, biết ông ta no nê rồi, mới hỏi: "Được rồi, đã ăn uống no say, bây giờ thì nói đi, rốt cục ông đã tra ra chuyện gì rồi?"

Ông ta chép chép miệng, cười hì hì, rồi lấy từ trong túi hành lý ra một xấp giấy, vỗ vỗ lên bàn: "Xem cái này đi."

Tôi cầm lên xem. Đó là một tờ báo cũ đã ố vàng, xem ngày tháng mới biết nó xuất bản năm 1974. Trên đó có dấu khoanh tròn một mẩu tin, là một bức ảnh đen trắng. Tuy nhìn không rõ cho lắm, nhưng tôi vẫn nhận ra trên ảnh chụp là một con xà mi đồng ngư, xung quanh còn có nhiều văn vật lẻ tẻ khác, hình như là một loại Phật châu tràng hạt gì đó.

Tuy nhiên hình dáng con cá này không giống với cái tôi có và cái của chú Ba. Đường vào ngôi mộ dưới đáy biển đặt một pho tượng, trên trán tượng chạm khắc một phù điêu hình ba con cá, con này hẳn là con nằm trên cùng của bức phù điêu. Nói vậy, tức là cả ba con cá này đều có thật. Tôi hỏi lão Hải: "Sao ông tìm được tờ báo này vậy? Đằng sau có bí ẩn gì chăng?"

Lão Hải nói: "Trong nhóm tui gần đây có một ông chủ lớn chuyên mua bán báo chí cũ, cậu biết đấy, kẻ có tiền muốn gì mà chả được. Cậu xem, đây là báo văn hóa Quảng Tây năm 74. Hắn muốn tui tìm đủ số báo từ tháng giêng đến tháng mười hai, tui phải lặn lội suốt hai tháng trời mới gom góp đủ đấy. Mấy hôm gần đây cần phải giao hàng, lúc kiểm tra lại, vừa nhìn lướt qua lại thấy ngay bản tin này. Cậu nói xem có khéo không cơ chứ? Tờ báo này ra năm 74, sang năm 75 là ngừng rồi, rất hiếm trên thị trường nha. Số cậu may thật đấy, tui mà không để ý chút nữa là xong hết luôn đó."

Tôi liếc xuống nhìn chăm chú, phía dưới ảnh chụp là một mẩu tin ngắn dài khoảng ba trăm chữ, đại ý cá này tìm được ở Quảng Tây, trong một tòa tháp của một ngôi chùa Phật. Trải qua năm tháng mài mòn, đến một ngày ngọn tháp kia tự nhiên sụp xuống, lúc thu dọn đống phế tích người ta phát hiện ra một địa cung bên dưới. Trong địa cung có mấy quyển kinh thư đã ngấm nước nát rữa gần hết cùng một rương báu vật, trong rương lại chỉ có duy nhất con cá này. Các chuyên gia suy đoán rằng nó là di vật của tăng nhân nửa cuối thời Bắc Tống.

Bắc Tống? Tôi châm một điếu thuốc, dựa người vào ghế, trong lòng âm thầm suy tính. Giống xà mi đồng ngư này, con thứ nhất xuất hiện trong hầm mộ chư hầu cuối thời Chiến quốc, con thứ hai tìm thấy ở ngôi mộ dưới đáy biển thời cuối Nguyên đầu Minh, con thứ ba lại xuất hiện trong địa cung một ngôi Phật tháp thời Bắc Tống. Thế quái nào mà không gian thời gian lại chẳng liên quan gì đến nhau thế này.

Tôi lật giở mấy trang khác của tờ báo mới biết chỉ có mỗi mẩu tin về con xà mi đồng ngư thôi, nội dung còn lại cũng chẳng có gì mới mẻ. Tôi vẫn không biết gì về con cá này cả, nghĩ cũng thấy phiền muộn, bèn đứng lên.

Lão Hải nhìn vẻ mặt của tôi, mở lời: "Cậu đừng nhụt chí, tui còn nói chưa xong. Câu chuyện phía sau mới là đặc sắc nè."

Tôi nhíu mày: "Là sao? Lẽ nào tờ báo này còn có thể moi móc biến hóa ra thêm thông tin gì nữa à?"

Lão Hải gật đầu, nói: "Ây dà, nếu có mỗi chuyện tờ báo thôi thì tui cần gì một thân một mình lết xác đến Hàng Châu tìm cậu, đúng không? Chuyện này ấy, còn phải kể từ lúc bắt đầu. Được rồi, cậu cũng đã qua lại quen biết nhiều, vậy có biết một người gọi là Trần Bì A Tứ không?"

Tôi nghe xong khẽ giật mình. Trần Bì A Tứ là một thổ phu tử nổi danh ở Trường Sa năm xưa, một tay sành sỏi, nhân vật tầm cỡ trong giới cùng với ông nội tôi. Nghe nói hiện giờ đã hơn chín mươi tuổi, kể từ khi mắt bị mù mười năm về trước đã không còn xuất hiện nữa, không rõ sống chết ra sao, chỉ biết ông nội tôi vẫn hay nhắc đến tên người này, có lẽ danh tiếng vẫn còn rất oách.

Có điều người này lại không giống với ông nội tôi. Ông ta là kẻ sống dựa vào lưỡi đao, không chỉ đơn giản trộm mộ thôi, mà bất cứ chuyện phóng hỏa giết người gì, miễn là có tiền, ông ta đều nhúng tay vào. Vì vậy thời trước giải phóng, người ta vẫn thường gọi ông ta là Thế Đầu A Tứ, ý nói ông ta giết người dễ như cạo đầu cắt tóc vậy, không hề do dự chút nào.

Nghe lão Hải nhắc tên người này, tôi có hơi bất ngờ. Bởi lẽ người này không phải nhân vật lớn cùng thời với bọn tôi, cho đến bây giờ tôi còn chưa gặp ông ta lần nào, chẳng nhẽ con cá này lại có liên quan đến ông ta? Câu chuyện phía sau xà mi đồng ngư, cho dù không liên quan đến tôi, nhưng chắc chắn cũng đáng để nghe kể một lần.

Lão Hải thấy tôi im lặng không nói câu nào, tưởng tôi không biết, bèn tiếp: "Chuyện của Trần Tứ gia cậu không biết cũng phải, ông ta vốn không phải người cùng thế hệ với chúng ta. Nhưng tui phải nói cậu hay, con xà mi đồng ngư trong tờ báo này là do chính tay ông ta lấy từ trong địa cung Phật tháp ra đấy. Sự tình không hề đơn giản như trong tờ báo nói đâu." Nói đoạn ông ta liền kể lại chuyện năm xưa, có giản lược đi đôi chút.

Hóa ra năm 1974, Trần Bì A Tứ cũng đã gần sáu mươi tuổi. Khi ấy mắt của ông ta còn chưa bị mù, mà đó lại là thời kỳ mười năm loạn lạc. Do năm xưa, trước giải phóng, ông ta đã từng làm trung đội trưởng trong quân của Quốc Dân Đảng, sau lại có mấy năm làm thổ phỉ, cho nên thân phận ông ta là bất hợp pháp, chỉ cần bắt được là có quyền giết ngay tại chỗ. Vì vậy, ông ta chỉ có thể hoạt động tại vùng dân tộc thiểu số ở Quảng Tây, ngay cả thị trấn cũng không dám tiến vào nửa bước.

Vào đầu những năm Tứ cựu[1], rất nhiều di tích cổ đã bị đập phá gần hết.

[1] Tứ cựu: hay còn gọi là "Diệt bốn cái cũ", khẩu hiệu đấu tranh trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Bốn điều cần diệt là "tư duy cũ", "văn hóa cũ", "thói quen cũ" và "phong tục cũ".

Trần Bì A Tứ đi qua rất nhiều địa phương ở Quảng Tây, bởi vì Quảng Tây thời cổ không được coi là thuộc Trung Nguyên, cũng không có mấy cổ mộ, cho nên trong suốt những năm đó, ông ta có thể nói là sống cũng hiền lành, trung thực. Nào ngờ năm ấy khi ông ta vừa kéo xe đòn chở hàng qua chốt kiểm kê lại tình cờ nói chuyện phiếm với mấy người dân tộc Mèo. Mấy người đó uống rất nhiều, có nhắc đến chuyện tòa tháp của ngôi chùa trong núi Con Mèo đã sụp, gây ra tiếng động rất lớn, cả nền đất cũng sụt xuống, lún thành một cái hố sâu hút. Đêm tòa tháp bị sụp, nhiều người còn nghe được tiếng kêu thảm thiết rất kỳ dị.

Trần Bì A Tứ nghe vậy thì lấy làm lạ, ông ta đã đến núi Con Mèo rất nhiều lần, ngôi chùa ở đó được tu sửa vô cùng kiên cố, sao lại có chuyện tòa tháp chùa bị sụp được? Hỏi ra tỉ mỉ mới hay, tòa tháp này cũng không hẳn là ở trên núi Con Mèo, mà nằm ngay ở rìa trung tâm của một ngọn núi gọi là "Núi Phật nằm". Nơi này rất kỳ quái, bốn phía xung quanh đều là xóm làng, nhưng chính giữa lại là một vùng lòng chảo diện tích chừng hơn mười km vuông, độ cao so với mực nước biển rất thấp, bên trong cây cối rậm rạp, tán cây che phủ toàn bộ bầu trời. Thôn xóm nằm trên vách núi, rừng cây ở dưới vách núi, khoảng cách chênh lệch chỉ hơn một trăm mét nhưng lại là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa cũng không có đường từ thôn xóm xuống phía dưới, muốn xuống vùng trũng này chỉ có cách dùng dây thừng đu xuống.

Dân bản xứ nói chắc chắn là có đường vào vùng lòng chảo này, nhưng vì cây cối ở đây quá rậm rạp, đi lại khó khăn. Trước đây người Mèo thường xuống đó để săn thú và hái thuốc, nhưng thường những người vào trong đều biến mất một cách kỳ lạ, cho nên nếu không có việc quan trọng thì chẳng ai muốn xuống dưới đó làm gì.

Tháp cổ kia được xây dựng đúng ở nơi này. Gần như nằm ở ngay trung tâm của vùng lòng chảo, bình thường mọi người đứng từ trên vách núi trông xuống chỉ có thể nhìn thấy xa xa mái nhọn của ngọn tháp nhô lên giữa các tán cây rậm rạp. Hơn nữa, ngọn tháp bị cây cối dây leo bám đầy, phần bên dưới không thể nhìn rõ được. Người Mèo nói hơn mười đời trước đã biết nơi này có một ngọn tháp, thế nhưng không ai nghĩ đến việc trèo xuống dưới đó xem, cho đến giờ đã thành thông lệ rồi. Một ngày gần đây bỗng dưng có tiếng nổ lớn, chạy ra nhìn đã không còn thấy mái nhọn của ngọn tháp nữa, bấy giờ mới biết nó bị sụp. Về phần ngôi tháp cổ này, dân bản xứ có rất nhiều giai thoại. Theo lời một người già kể lại, ngôi tháp cổ này trước đây do một cao tăng xây nên, dùng để trấn yêu, giờ tháp sụp, yêu quái sẽ tràn ra ngoài làm điều ác. Tiếng gào thét thảm thiết quái lạ kia chính là tiếng yêu quái giãy giụa thoát khỏi kết giới.

Trần Bì A Tứ nghe xong cảm thấy cực kì hào hứng. Ông ta mơ hồ có cảm giác vị trí của ngọn tháp và tiếng kêu mà người Mèo nghe thấy lúc nửa đêm kia có vẻ không hợp lý. Hễ là kiểu người như ông ta đều có trực giác rất lạ, có thể suy ra được thông tin từ lời kể của người khác, cộng thêm một chút bản năng nữa. Về điểm này, ở thế hệ chúng tôi khó mà tìm được một người như thế.

Trần Bì A Tứ suy nghĩ một lúc, rồi quyết định đi xem xét thêm.

Quảng Tây núi non trùng điệp, có thể nói là đứng đầu cả nước. Trong đó, núi Con Mèo có địa thế quan trọng: dãy núi vắt ngang qua ba huyện Hưng An, Tư Nguyên, Long Thắng; là đầu nguồn của ba nhánh sông Ly Giang, Tư Giang, Tầm Giang, và kế tiếp đó là hai hệ sông lớn Trường Giang, Châu Giang. Nơi này có rừng nhiệt đới nguyên sơ rất rộng lớn, trong đó có ngọn núi lớn nhất chính là cao điểm Lão Sơn, là nơi năm xưa Hồng quân Trung Quốc từng trường chinh đánh địch (Việt :'<). Trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều máy bay ném bom của đội Phi Hổ đến viện trợ đã mất tích một cách bí ẩn ở đây, vì vậy nơi này còn có nhiều lời đồn thổi ma quái.

Trần Bì A Tứ đi qua nhiều con đường vòng vèo trắc trở mới đến được một ngôi làng trong núi Phật Nằm. Đứng trên một mô đất cao, nhìn xuống vùng đất trũng ở giữa với núi non bao bọc xung quanh, mẹ kiếp, ngọn tháp kia còn lớn hơn cả những gì ông ta đã tưởng tượng. Tháp sụp đè lên làm đổ gãy nhiều cây cối, cho nên giữa cả một vùng rừng rậm xanh mướt tự dưng xuất hiện một khoảnh trống trơn. Đứng trên núi Phật Nằm không thể nhìn thấy vùng đất trống đó có gì, thế nhưng Trần Bì A Tứ vừa nhìn đã gần như phát hiện ngay ở vùng tháp bị sụp đó cây cối đều bị lún xuống đất, trông rất lộn xộn. Xem ra bên dưới ngọn tháp quả nhiên còn có thứ gì đó, hơn nữa, nó còn lớn hơn cả ngọn tháp.

Tôi nghe đến đây đã biết đó chính là "Kính Nhi Cung". Kính Nhi Cung là tiếng địa phương của người Trường Sa trước giải phóng gọi những kiến trúc nằm dưới lòng đất với quy mô và cấu trúc giống hệt như trên mặt đất, trông giống một cái bóng phản chiếu của tòa nhà xuống mặt hồ vậy, trên dưới hai đầu đều đối xứng nhau chằn chặn.

Kính Nhi Cung, Bắc phái còn gọi là Thoi Âm Dương, ý chỉ tổng thể kiến trúc giống như một con thoi cắm trên mặt đất, một đầu là cõi âm, một đầu là dương gian. Có điều, ngôi cổ mộ hoặc công trình cổ này cực kỳ hiếm, bởi vì đa phần các di tích trên mặt đất đều đã bị phá hủy cả. Do vậy, cách nói này từ mười năm trước Giải Phóng đã không còn được ai sử dụng.

Trần Bì A Tứ chỉ cần nhìn cây cối thay đổi dần theo thứ tự là biết ngay thứ được chôn phía dưới chính là Kính Nhi Cung. Khả năng phán đoán bậc này, nếu không phải là một người có bề dày kinh nghiệm thì không thể nào làm được. Tôi không khỏi thầm than một tiếng, rồi định thần lại, tiếp tục nghe lão Hải kể chuyện.

Lòng tham nổi lên, Trần Bì A Tứ đã hạ quyết tâm. Địa cung bên dưới Phật tháp chỉ có thể có ba loại: xá lợi, kim thân của cao tăng nào đó, hoặc là kinh Phật với số lượng khổng lồ. Cái gì cũng đều vô giá cả.

Tuy nhiên, ông ta lại không phải người địa phương, hoạt động ở vùng này không thuận tiện. Thứ nhất, ông ta thân phận đặc biệt, xuất thân không tốt, thứ hai, thời đó hai tộc người Mèo và người Hán vẫn còn đang tranh chấp không ngừng, mấy ngôi làng ở đây đều là của người Mèo, nếu đi bậy vào có thể sẽ khiến người khác nghi ngờ.

Cân nhắc hết lần này đến lần khác, cuối cùng ông ta nghĩ ra được một kế sách. Ông ta bỏ nhiều tiền thuê một người Mèo địa phương dẫn đường, tự xưng mình là cán bộ trí thức lão thành từ bên ngoài về đây chi viện cho vùng biên giới[2], cách đây không lâu có một học trò của mình bị ngã xuống vách núi này. Người Mèo tính tình chất phác, không rành sự đời, nào có biết đây chỉ là quỷ kế. Anh ta vừa nghe có người bị ngã xuống núi, đã lập tức thông báo cho cả làng. Những thanh niên trai tráng người Mèo hò nhau buộc dây thừng vào một cái gùi, thả Trần Bì A Tứ cùng vài người thanh niên đi theo hỗ trợ lần lượt xuống vách núi.

[2] Sinh viên/ cán bộ Đảng được cử về miền biên cương giúp xây dựng, kiến thiết cuộc sống, dạy học, vv trong thời kỳ sau Giải Phóng. Giống như VN mình sau Giải Phóng cũng có thời kỳ vận động các phần tử trí thức lên Tây Bắc xây dựng cuộc sống mới ấy mà =]]]]]]]

Theo trí nhớ của Trần Bì A Tứ, lúc đi xuống hơn trăm mét vực này giống như là đang bước chân xuống âm tào địa phủ. Vách núi vô cùng hiểm trở, thể trọng của người khiến mấy sợi thừng căng sít, đặt mông ngồi trong gùi, chỉ cần một ngọn gió thổi qua là cả người lại bồng bềnh xoay tròn như con quay, cực kỳ chông chênh. Cho đến khi ông ta đi qua tầng tầng tán cây dày đặc, xuống tận đáy rừng sâu, thì cũng chỉ còn lại nửa cái mạng.

Dưới tán rừng rậm u ám tối tăm hầu như không thấy ánh mặt trời, trong không khí lại lởn vởn mùi khí metan. Ở đây cây cối có rất nhiều loại, nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là rêu xanh. Bùn đất rất xốp, gần như không thể đứng thẳng được.

Sau khi xuống đến nơi, Trần Bì A Tứ giả bộ mình bị kiệt sức (thực ra là sợ quá nên giấu thôi), ra một chỗ mà ngồi thở dốc. Thủ lĩnh người Mèo trông ông ta không còn trẻ nữa, có thể nói là sắp thành lão già đến nơi rồi, nên cứ để ông ta ngồi đó chờ, còn mình thì đốt đuốc cùng những người khác lùng sục, tìm kiếm theo phương hướng mà ông ta đã chỉ.

Khi đám người vừa đi khỏi, Trần Bì A Tứ lập tức móc ra một cái la bàn, dựa theo vị trí đã ghi nhớ trước đó, chui vào sâu trong khu rừng thẳm. Ông ta ước lượng, khu rừng này tương đối rộng, người Mèo muốn đi hết cũng mất cả buổi tối, với bản lĩnh cả ông ta, hẳn chừng đó thời gian cũng đủ để tìm được lối vào Kính Nhi Cung rồi quay về chỗ cũ. Chỉ có một điều đáng tiếc là lúc này ông ta lại không có đầy đủ trang bị cần thiết, có thể vào đến nơi hay không còn phải xem phúc phận ông ta thế nào đã.

Lơ ngơ đi trong rừng suốt bốn tiếng đồng hồ, dựa vào la bàn cộng với tính quyết đoán có được từ bao nhiêu năm lăn lộn vào nam ra bắc, Trần Bì A Tứ cuối cùng cũng đến được vùng núi Phật Nằm trong kế hoạch, hay cũng chính là một tòa tháp bốn cạnh – di tích của ngôi chùa xưa.

Càng bước sâu vào trong, Trần Bì A Tứ càng thấy nhiều những mái hiên trơ trọi hay các bức tường đổ nát, hiển nhiên kiến trúc cổ ở đây đã chẳng còn sót lại chút gì, chỉ còn lại một ít nền với tường vỡ, hòa lẫn cùng với thảm thực vật dày đặc ở nơi đây, không thể nhìn rõ kiến trúc ban đầu là gì. Tuy nhiên xem quy mô thì ngôi chùa này phải có diện tích vô cùng rộng, ngọn tháp kia bị đổ ắt phải chiếm một khoảng đất rất lớn, nhưng đứng từ nơi đây vẫn khó lòng thấy rõ được vị trí cụ thể của nó ở đâu.

Trần Bì A Tứ đã không còn trẻ, đi loanh quanh hồi lâu cũng bắt đầu nhụt chí. Đang định ngồi xuống nghỉ ngơi, bỗng trước mắt lóe lên một cái, ông ta thấy trong bụi cỏ bên cạnh một mặt tường vẫn còn nguyên vẹn đặt một cái bao. Cái bao ấy bỗng dưng khe khẽ động đậy, bên trong bao hình như còn bọc thứ gì đó. Trần Bì A Tứ giật mình hoảng sợ, nhảy bật ra ngoài, đồng thời bắn một viên đạn sắt về phía cái bao. Đến khi nhìn lại, chỉ thấy trong cái bao nơi vách tường đầy dây leo có một thi thể người Mèo đã khô quắt. Thế nhưng, phần bụng thi thể không biết vì sao lại hơi hơi động đậy, như thể bên trong có thứ gì đó đang quẫy đạp.

Chương 3. Kính Nhi Cung.

Đối với Trần Bì A Tứ, gặp người chết là chuyện hết sức bình thường. Không phải xác ướp bánh tông mò ra từ cổ mộ thì cũng là kẻ xấu số do chính ông ta giết hại, đếm sơ sơ cũng không hết. Ông ta quay ra nhìn thấy cái xác, tinh thần liền thả lỏng, bụng nhủ thầm chả biết thằng quỷ xui xẻo nào lại lăn ra chết ở chỗ này, đã thành con mực khô rồi mà còn đi hù dọa người ta.

Tuy nghĩ vậy nhưng Trần Bì A Tứ tay vẫn kẹp một viên đạn sắt. Tuyệt chiêu tay không bắn đạn sắt ông ta đã khổ luyện từ bé, đến giờ có thể nói là bách phát bách trúng, hơn nữa, viên đạn ông ta búng ra bay đi với tốc độ cực nhanh, người thường có lẽ còn chưa kịp nhìn thấy động tác của ông ta thì đã bị bắn cho mù mắt luôn rồi.

Nhìn trang phục của thi thể người Mèo này, có thể chắc chắn anh ta đã chết không mười năm thì cũng phải đôi ba năm rồi. Về cơ bản, quần áo đều đã mục nát hết, chẳng qua phần lớn thi thể bị mấy loại cây họ dương xỉ, ba địa[1] và rong rêu mục bao phủ nên phục sức đặc trưng của người Mèo vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng trải qua bao nhiêu năm dầm mưa dãi nắng như thế, không hiểu sao thi thể này vẫn chưa bị phân hủy hết, mà trông chỉ như bị hao đi chút nước thôi?

[1] ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens.

Phần bụng thi thể vẫn còn hơi cử động, Trần Bì A Tứ càng nhìn càng thấy quái lạ. Ông ta là người có cách hành sự đặc biệt. Ví như nếu là tôi lúc ấy thì chắc chắn đã quay đầu bỏ chạy từ lâu rồi, nhưng Trần Bì A Tứ từ nhỏ đã tôn thờ câu "tiên hạ thủ vi cường", ông ta trong đầu vừa nghĩ, tay đã "Bụp bụp bụp" búng ra ba viên đạn, cả ba viên đều nhắm vào trúng vùng bụng của thi thể, trong lòng nghĩ, mặc kệ mày là cái quái gì, cứ đánh chết đã rồi tính.

Lực bắn của viên đạn sắt cực mạnh, hầu như khiến thi thể bị đánh nát làm hai nửa. Nửa người dưới vừa tách ra, Trần Bì A Tứ tức thì nhìn thấy bên trong trào ra một loại chất nhầy màu vàng không biết tên, bọc bên ngoài một lượng trứng rất lớn. Không ít trứng đã được ấp nở, biến thành một đống sâu màu trắng giãy dụa trong chất nhầy. Nhìn thoáng qua, trông nó có vẻ giống một thứ mà ông ta vô cùng quen thuộc: tổ ong. Ngay sau đó, từ vết thủng trên thi thể người túa ra một đàn ong địa hoàng[2].

[2] ong đa hoàng: mt loi ong thuc tnh Qung Đông, loi này ch yếu chia ra làm hai ging. Mt ging gi là "ong qu đu" vì phn bng eo có màu đen, hung d, đc tính rt mnh. Loi còn li là "ong hoàng yêu" vì phn bng eo màu vàng, không ch hung d và đc tính rt mnh mà còn có th làm t trên mt đt na. Loi trong truyn nhc đến chính là loi ong hoàng yêu này.

Trần Bì A Tứ chửi một tiếng, trong bụng thầm than thật xui xẻo, hóa ra là ong địa hoàng làm tổ trong thi thể này. Nọc của ong địa hoàng có độc tính rất mạnh, lại cực kỳ hung dữ, đúng là số ông ta quá đen.

Mắt trông thấy ong địa hoàng bắt đầu túa ra thành cả một màn sương đen đặc, Trần Bì A Tứ bỗng cái khó ló cái khôn, lôi từ trong ba lô đồ tùy thân ra một cái xẻng gấp của quân giải phóng, xúc một xẻng đầy đất bùn ẩm, hất mạnh lên vết thủng của thi thể hòng lấp hết đám ong địa hoàng đang ào ào túa ra, sau đó xoay người bỏ chạy.

Đám ong địa hoàng đã ở bên ngoài liền ùa lên, ông ta vừa dùng quần áo đập liên tục, lại vừa chạy loạn không cần nhìn phương hướng. May mà ban nãy nhanh tay xúc một xẻng đất bùn nên mới chỉ mất có mấy cái túi. Chờ đến khi ông ta dừng lại để thở gấp, phủi phủi mấy con ong địa hoàng còn bám lại trên người, nhìn quanh quất thì không biết mình đã chạy đến nơi nào rồi.

Trần Bì A Tứ rút mấy con ong đã kịp đâm vào người mình, cơn đau buốt ập đến khiến ông ta phải nghiến răng. Trong bụng vẫn thấy quái lạ, tại sao trong xác chết lại có ong địa hoàng làm tổ nhỉ? Loài ong độc này thường sống dưới lòng đất, giống như loài kiến vậy. Vào sâu trong rừng mưa Quảng Tây, đôi khi còn có thể nhìn thấy hàng đống tổ ong nhấp nhô như những ngọn đồi con con. Người đi đường không biết, lại tưởng tổ kiến, đào lên tìm kiến, thế là trong khi anh ta còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị đàn ong xâu xé đến mức biến thành một quả bóng gai.

Ở mảnh đất Vân Nam, Quảng Tây này, đối với kiến thức về côn trùng sâu bọ thì người thường cũng không hiểu biết nhiều, Trần Bì A Tứ chỉ có thể tự trách số mình quá xui. Ông ta vừa tự xử lý vết thương, vừa quan sát xung quanh. Sau khi leo lên một gò núi, ông ta bỗng ngây ngẩn cả người.

Chỉ thấy một ngọn tháp bằng đá rất lớn sụp xuống ngay trước mặt, dưới chân gò núi mà ông ta đang đứng. Có vẻ như thân tháp vốn có sáu cạnh đều nhau (không thể thấy rõ được), đồ sộ hùng vĩ, xà rộng, mái xen mái[3]. Dùng dao gạt hết lớp rêu xanh và cây leo quấn trên bề mặt ra, ông ta mới thấy trên thân tháp có khắc những bức phù điêu bằng đá vô cùng tinh tế. Tuy nhiên, tòa tháp này rõ ràng đã từng bị thiêu hủy, cho nên tất cả các bộ phận còn lại của tòa tháp đều có những vết cháy sém màu đen, có thể vụ cháy chỉ là do tai nạn.

Toàn bộ thân tháp, nóc tháp và chóp tháp[4] đều rạn nứt cả, sau cơn sụt lún đã đổ vỡ thành nhiều khối đá lớn. Thân tháp quá nặng, một phần của tháp lún hẳn xuống lớp bùn đất của khu rừng mưa. Từ dưới chân tháp, cây cối chen nhau mọc lên nhiều không kể xiết.

Trần Bì A Tứ mình đầy kinh nghiệm, biết loại tháp này gồm có địa cung, chân tháp, thân tháp, đỉnh tháp và chóp tháp cấu tạo nên. Chóp tháp nằm ở nơi cao nhất của ngọn tháp, trên chóp có tu di tọa, ngưỡng liên, phúc bát, tương luân và bảo châu[5]. Phía trên tương luân còn có bảo lọng, viên quang, ngưỡng nguyệt[6] và bảo châu. Nói chung, trên đỉnh tháp này hẳn là có một thứ gì đó như châu ngọc, cực kì có giá trị.

Ông ta đi dọc theo thân tháp, đến bên cạnh chóp tháp. Có lẽ khi bị đổ, chóp tháp đã đụng trúng phải một cây Vân sam cao lớn, kết quả là chưa rơi xuống đất đã gãy, đầu chóp cắm ngập vào đất, tu di tọa thì vỡ vụn. Trần Bì A Tứ xem xét mức độ hư hại, xác định bảo châu chắc chắn giờ đã biến thành "bảo bánh" rồi, chả còn giá trị gì nữa.

Ông ta lại đi xuống phía chân tháp, ở đây có một phần của đoạn tháp vẫn còn nguyên vẹn. Bò vào thì chỉ thấy bên trong toàn đá vụn, phía dưới chắc chắn có địa cung. Đáng tiếc, đường xuống địa cung đã bị phong kín ngay từ khi bảo tháp được dựng nên, hơn nữa, tháp sụp xuống khiến cả tấn gạch đá vùi lấp mất đường xuống, chỉ với một cái xẻng, muốn đào đến địa cung có khi phải mất nửa năm là ít.

Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắc trời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, mà giờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờ bị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm một cành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ý của người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.

Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cối mọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phía xung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp (đất bụi từ kiến trúc, đất bụi theo thời gian) vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưng của Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơi nước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đập bẹp một cái bánh bao không nhân.

Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đào xuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.

Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung này rồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũng không phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả những tên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối không thể kìm được lòng hiếu kỳ.

Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩ nhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữa đám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vào địa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.

Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng Lạc Dương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy cho cũng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứ của nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào một lối vào ngay sát chân tháp.

Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại không dùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góc khúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, không lâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soi vào bên trong.

Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặt dưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trên cao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.

Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.

Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp để trấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắng qua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông ta liền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móc hai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình như một cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đều dồn cả vào hai chân.

Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế một chút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợt phát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.

Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn. Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiên là xem không hiểu.

Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn ma hay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địa cung này để phong ấn thứ gì đây?

Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có một vòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từng tầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều có những bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắc sặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuống dưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng, mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế, phỏng chừng phải hơn trăm pho.

Trần Bì A Tứ nhìn những bức tượng La Hán này, trong lòng cực kì căng thẳng, nhưng lại không rõ mình đang sợ hãi cái gì, trong đầu không khỏi nảy lên ý định lùi bước.

Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xem ngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tay ông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vị trí.

Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có một bức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn không giống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung mà lại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theo dõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếu tới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bức tượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp ma quỷ rồi.

Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dám động đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.

Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giết quá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình có thể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.

(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hành nghề bất chính[7] thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc phái bái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giải thích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.

[7] nguyên văn là "ngoi bát hành", thi c đi có ba trăm sáu mươi ngh, thì "ngoài bát hành" không thuc ngh nào trong s này, không thuc loi ngh nghip đng đn, không thuc loi công nông binh hc thương. "Ngoi bát hành" gm có: kim đim, kht cái, cướp đường, ăn trm, đ đu, sơn tc, lĩnh ha, thi thy, xưng là "ngũ hành tam gia". Kim đim là bn tướng s, đ đu là bn trm m, sơn tc mánh khóe bp người, lĩnh ha thông tho thut dùng c/ trùng đc, thi thy làm quan k.

Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, "Mãn thành tận đái hoàng kim giáp", chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậc trưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻ giết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn (8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ý gì? Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, không biết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian Trung Quốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (không phải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngục mà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyển thế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngài trở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động =]])

Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy có nét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoán được vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ông ta sợ mất mật chơi?

Chú thích.

[3] nguyên là "mật diêm": một loại tháp Phật với các mái hiên xếp lớp, đa số thường xây với kết cấu bằng đá.

[4] chóp tháp (nguyên là "tháp sát"), là thứ để trang trí, nằm ở trên chóp cao nhất của Phật tháp.

[5] Trong hình, bắt đầu tính từ chóp tháp trở lên trên: tu di tọa ~> ngưỡng liên ~> phúc bát ~> tương luân ~> ngưỡng nguyệt ~> bảo châu.

[6] Bảo lọng là cái lọng quý:

Viên quang là viên luân kim quang trên đầu Phật. Ở đây nó mang nghĩa là đồ trang trí hình tròn vòng trên chóp tháp trông như viên quang.

Ngưỡng nguyệt là bộ phận hình trăng lưỡi liềm hướng lên trời của chóp tháp.

Chương 4 – Hơn một người

Trần Bì A Tứ càng nghĩ càng thấy sợ, nhưng ông ta đã ở tuổi năm mươi gần sáu, kinh nghiệm sành sỏi chừng ấy năm đương nhiên tôi không thể so sánh. Sau sợ hãi chắc chắn sẽ là yếu đuối, ông ta tự nhủ đồ con lừa, nhìn cái gì mà nhìn, thế rồi tay nhanh như chớp lấy ra mấy viên đạn sắt, hai chân dùng lực cố định cơ thể, bắn đoàng đoàng hai phát đánh thẳng vào bức tượng La Hán mặt trắng ngước lên nhìn trời kia.

Tôi đã nói rồi đó, phương châm sống của Trần Bì A Tứ chính là tiên hạ thủ vi cường, những lời này ông nội tôi đã nhắc đi nhắc lại không dưới một lần. Có thể nói trên giang hồ vốn là như thế, đạo lý này tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng hữu dụng. Hai viên đạn sắt bắn ra không hề nương tay, bỗng nghe hai tiếng trầm đục, thì ra đã bắn trúng mắt pho tượng La Hán mặt trắng kia, vừa bắn trúng hai hốc mắt đã vỡ toác, còn viên đạn thì bật ra ngoài, rơi xuống đáy Kính Nhi Cung.

Nếu đó là người thật đảm bảo đã bị đánh mù, qua đó đủ thấy chiêu thức này tàn độc cỡ nào. Pho tượng La Hán kia tuy làm bằng đất nung cũng không chịu được va đập mạnh như thế, sau va chạm hai con mắt của La Hán đã thành hai cái hố sâu, thoạt nhìn thì thấy trống rỗng quái đản, nhưng cảm giác so với vừa rồi đã đỡ hơn rất nhiều.

Trần Bì A Tứ thở phào một hơi, trong lòng cười khẩy, thầm nghĩ mấy cha hoà thượng thối này, cái gì mà tứ đại giai không chứ, chẳng phải cũng chỉ suốt ngày ru rú trong đây bày trò quỷ để hù người sao. Nghĩ rồi lấy ra một cái vuốt thằn lằn, một đầu móc lên khung gỗ của trần cung, một đầu nối liền với sợi dây thừng đơn bằng da hải tượng buộc trên mắt cá chân rồi thả mình xuống, sợi dây đàn hồi cứ thế giãn dần ra. Dùng dây da hải tượng là kinh niệm mà Trần Bì A Tứ đúc kết ra được sau nhiều năm trộm mộ, khả năng chịu lực của nó chỉ đứng sau dây thép, hơn nữa còn có thể kéo giãn. Vả lại Trần Bì A Tứ có vóc dáng thấp bé gầy gò, cuốn dây này quanh eo cũng chỉ mất hơn mười vòng, mặc quần áo lên rồi chẳng ai nhìn ra được nữa, có khả năng đối phó với độ sâu trên dưới mười mét.

Có điều Kính Nhi Cung này đâu chỉ sâu hơn mười mét, Trần Bì A Tứ thả hết cuộn dây thì vẫn còn cách đáy cung một khoảng rất xa.

Nhưng theo những gì ông ta thấy khi hạ xuống, đã có thể nhìn được hình dạng những thứ bên dưới. Nền đáy cung hình như làm bằng cẩm thạch, trải qua nhiều năm địa chấn cộng với bong tróc tự nhiên nên bên trên rải rác vô số mảnh vụn, chính giữa đáy cung là một toà bảo tháp nhỏ xíu màu trắng không biết làm từ ngọc thạch hay là ngà voi, phía trên che một tấm "Bảo trướng" bằng sa mỏng gần như trong suốt cho nên không thể nhìn rõ bảo tháp mà chỉ thấy một màu trăng trắng mơ hồ.

Trần Bì A Tứ không hiểu biết nhiều lắm về những thứ như Phật tháp hay phù đồ, cái này liên quan tới thế hệ dân không biết chữ thời trước giải phóng. Thổ phu tử ở Trường Sa có một câu châm ngôn: Vạn hộ hầu (1) không sánh bằng phù đồ, chính là ám chỉ của báu trong mấy cái địa cung dưới tháp Phật thường thường còn xa xỉ hơn lăng mộ của vạn hộ hầu. Trần Bì A Tứ tuy đã nghe qua câu này nhưng tiếp thu không đủ sâu sắc, nếu đổi lại là tôi thì lúc đó đã đoán ra thứ trước mặt mình là gì.

(1) Thi xưa phong hu s kèm theo "thc p", tc là mt s h dân giao hn cho người này cai qun và thu thuế. Vn h hu = tước hu thu thuế ca 1 vn h, đây là con s rt ln, trong lch s s người được phong hu lên đến 1 vn h rt hiếm nên vn h hu là người cc kì giàu có.

Bảo tháp nhỏ xíu dưới đó chắc chắn là bát trùng bảo hàm chứa xá lợi Phật, chính là một bộ tám hộp chiếc này chứa chiếc kia, đây là đồ chuyên dụng của nhà Phật. Hơn nữa xá lợi trong đó chính là ba nghìn thế giới cùng lục đạo luân hồi, tạm thời chưa cần biết nằm trong đó có thật sự là Phật cốt không hay chỉ là cốt mô phỏng từ ngọc thạch, chỉ cần biết nó là bát trùng bảo hàm thì trời ơi... Giá trị của món này nhất định không thể tính toán.

Tôi nghe đến đó thì cảm thấy có điểm đáng ngờ, nếu quả thực Trần Bì A Tứ đã trộm Bát trùng bảo hàm ra từ trong địa cung, vậy thì tại sao những thứ này lại xuất hiện trên mặt báo? Chẳng lẽ lúc ấy ông ta chỉ cách bảo vật trong gang tấc, lại vì lý do nào khác mà buông tha? Dựa vào tính cách của hạng người này thì chuyện như thế không thể xảy ra được.

Lão Hải không thấy tôi đang thất thần, cứ thế thao thao bất tuyệt, có điều cách ông ta kể rất dài dòng. Tôi cũng không chen vào nổi, đành phải tiếp tục nghe ông ta chém gió.

Sau khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy bảo tháp, tuy còn chưa rõ dưới đó là thứ gì, nhưng chắc chắn cũng không quá tệ. Bây giờ chỉ cần xuống được dưới đó hiển nhiên sẽ bội thu, nhưng vấn đề là làm sao mà xuống.

Chỉ tiếc ông ta không mang theo đầy đủ dây thừng, sớm biết thế này chi bằng vừa rồi cứ lui về đã, chuẩn bị chu đáo hẵng quan lại, cũng không đến nỗi rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan thế này.

Ông ta lại chiếu đèn pin khắp xung quanh, trong lòng kinh hãi, không khỏi thầm kêu thôi chết mịa nó rồi.

Hoá ra đáy cung không phải đất vàng mà là một ụ đất rất lớn, vừa nhìn qua đã biết đó vốn là một cái tổ ong địa hoàng.

Nhìn theo hướng ụ đất, có thể thấy trên vách địa cung có một cửa đá cao khoảng nửa thân người, trổ ra ở vị khí rất khuất, ụ đất chính là từ nơi này tiến vào "sinh trưởng".

Xem ra bốn phía của Kính Nhi Cung này còn phải phụ thuộc vào kiến trúc trên mặt đất, hơn nữa rất có thể cũng không hề bị phong kín, kết quả là khiến nơi này trở thành một sơn trang nghỉ dưỡng đông ấm hè mát cho lũ côn trùng. Từ nơi này nhìn xuống, tổ ong cũng không lớn lắm, chỉ e phần nấp sau cánh cửa kia mới thật sự kinh khủng. Cũng khó trách tổ ong này xây được lớn như thế, nơi đây là một công trình nhân tạo ngầm dưới lòng đất, mưa gió không lọt, quả là một "địa bàn tốt", xem ra mấy lão ong trong tổ ong này cũng biết xem phong thuỷ.

May mà vừa rồi khi cưa thanh xà gỗ lấy đường xuống, thanh xà rơi vào khoảng giữa mấy bức tượng La Hán chứ không đụng trúng tổ côn trùng, nếu không lúc đó trông ông ta có khác gì xâu lạp xường treo lủng lẳng, có muốn trốn cũng không kịp, bị lũ ong này bu kín, chỉ e sẽ bị người đời sau đem ra làm trò cười thiên cổ.

Nhưng cứ thế này thì cũng phiền toái, chỉ cần chân vừa chạm đất, dù anh rón rén đến thế nào thì di chuyển một toà tiểu tháp trong không gian nhỏ như thế cũng không thể không kinh động đến bọn ong đất kia.

Trần Bì A Tứ cân nhắc sơ qua cũng hiểu rõ không thể đi xuống, nếu muốn lấy đồ ra thì chỉ còn một cách.

Đến đây không thể không nhắc tới lai lịch của Trần Bì A Tứ, người này thuở nhỏ lớn lên trong một làng chài ở vùng duyên hải Chiết Giang, khi người Nhật đánh đến nơi mới chạy nạn tới Trường Sa, thế nên ông ta dùng phương ngữ Trường Sa không trôi chảy chút nào. Nhưng Trần Bì A Tứ lại cực kì thông minh, từ thời xưa thổ phu tử có tục không truyền nghề cho người tỉnh khác, ông ta là một trường hợp rất hiếm hoi.

Thời gian Trần Bì A Tứ ở Hải Diêm đã luyện được một tuyệt chiêu, chính là bắt cua trên bãi bùn. Dĩ nhiên không phải dùng tay bắt, vật Trần Bì A Tứ dùng để bắt cua có tên là "Cửu trảo câu".

Thứ này cũng giống như phi hổ trảo trong phim võ hiệp hay tam câu trảo thường được bộ đội đặc chủng dùng để leo vách núi. Nhưng loại móng vuốt này lại có tới chín móc, sắp xếp rất khít thành một vòng tròn khép kín, khi bắt cua thường sẽ lấy dây thừng cột vào phần chuôi móc, khi thấy cua ló đầu lên khỏi bãi bùn thì vung ra, một lần móc được một con cua. Sau đó kéo thêm một cái, con cua sẽ bay ngược về chui tọt vào giỏ.

Theo ghi chép trong bản bút ký của ông nội tôi, công phu này có thể chính xác tới mức người sử dụng nó khi vung ra có thể câu về một quả trứng gà cách mình 20m mà không hề làm nó rơi vỡ, quả thực rất thần kỳ. Nếu xa hơn có thể dùng gậy để vung ra, cũng sẽ vô cùng chính xác.

Trần Bì A Tứ lúc này không nghĩ ra cách nào khả thi, đành phải cắn răng quyết định thể hiện bản lĩnh nhà nghề. Đầu tiên ông ta đu vào chỗ mấy bức tượng La Hán, men theo đó mà từ từ leo xuống dưới. Đến khoảng cách hợp lý, Tràn Bì A Tứ lấy cửu trảo câu ra, vung đầu móc xuống dưới, vẽ lên một vòng cung nhỏ. Móc câu đã móc vào bảo trướng, cũng may vật này rất nhẹ, không giống với đá xanh thường thấy. Trần Bì A Tứ vung tay một cái hất bảo trướng lên, đáp xuống đầu một bức tượng La Hán. Lại thay đổi lực đạo trên tay một chút, móc câu lập tức thoát ra quay về chính chủ.

Kế tiếp là phải gỡ bỏ tháp ngọc thạch hay ngà voi gì đó đi. Có điều không biết nó là vật liệu gì nhưng dùng cửu trảo câu không tài nào kéo lên được, Trần Bì A Tứ vung cửu trảo câu móc lấy tháp báu, giật vài cái cũng không hề thấy nó xê dịch chút nào.

Kiểu này không nửa tấn thì cũng tới năm trăm cân, Trần Bì A Tứ chửi thầm một tiếng.

Ông ta đưa đèn pin quét qua thân tháp, nhìn đến chân tháp thì thấy có bốn cây cột nhỏ. Tháp này tất nhiên là một bản mô phỏng của cái tháp trên đỉnh đã sập, cấu trúc cũng không khác biệt cho lắm, bốn cây cột chống đỡ toàn bộ trọng lượng thân tháp. Bảo hàm nằm chính giữa mấy cây cột, chẳng qua là do góc độ chưa chính xác, nếu câu cẩn thận hơn thì vẫn có thể kéo lên được.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã rất sốt ruột, ông ta đoán chừng từ lúc xuống đây cũng đã được bốn giờ. Vừa rồi loáng thoáng còn nghe thấy tiếng cười, không chừng mấy người Mèo kia đã đến gần chỗ này, không còn nhiều thời gian nghĩ cách nữa rồi.

Trần Bì A Tứ định thần lại, máu dồn lên não, ác tâm cũng bắt đầu trỗi dậy, lại vung tay "đoàng, đoàng" bắn ra hai viên đạn sắt. Viên đạn bắn trúng cây cột nhỏ dưới đáy tháp, cây cột tức khắc vỡ ra. Sau đó ông ta thả người nhảy một cái, hạ xuống một bên mép tháp, vừa yên vị lập tức mượn lực rơi của mình khiến cho tháp nghiêng sang một hướng. Hai cây cột hai bên đột nhiên phải chịu thêm lực, tức khắc gãy gập. Tháp cứ thế sụp xuống, thân tháp và nền tháp nứt bung ra.

Trần Bì A Tứ bám trên đỉnh tháp nên khống chế được lực độ, tháp nặng nên tốc độ nghiêng cũng chậm. Cho đến khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy một góc của bảo hàm đã lộ ra dưới đáy tháp, bèn vung cửu trảo câu, thoáng cái đã kéo nó lên dễ dàng. Sau đó thu lại móc câu rồi vung ra lần nữa, móc vào một bức tượng La Hán, định giữ thăng bằng cho mình.

Những động tác này chỉ diễn ra trong ba giây, nhưng ông ta không ngờ bức tượng La Hán kia không chịu nổi sức nặng của mình và thân tháp, mới kéo một cái, tượng La Hán bắt đầu lung lay, liền đó rơi từ trên tường xuống.

Phía dưới chân hầu như chỗ nào cũng có tổ ong, nếu cứ thế này mà ngã xuống chẳng khác nào ngã thẳng vào giữa đàn ong, chỉ e khó lòng thoát chết.

Trong chớp mắt Trần Bì A Tứ dùng hết khí lực kéo tượng La Hán về phía mình, một tay ném bát trùng bảo hàm vào không trung, sau đó đổi tay nhanh như chớp, dễ dàng đỡ được tượng La Hán. Nhưng rốt cuộc ông ta lẫn không thoát, đỉnh bảo tháp đã đập mạnh vào vách tường địa cung, xô thêm nhiều tượng La Hán rơi xuống.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã không còn kỹ xảo gì để thi triển nữa, ông ta chỉ còn biết trơ mắt nhìn một đống tượng La Hán rơi trúng tổ ong địa hoàng, tức khắc bụi đất nổi lên bốn phía, tổ ong hầu hết đều bị đập cho vỡ nát tan tành.

Trong lúc hỗn loạn ông ta đành quẳng bức tượng La Hán trong tay đi, đỡ lấy bảo hàm. Theo phản xạ ông ta chiếu đèn pin vào cái tổ ong kia theo phản xạ, trong lòng thầm nhủ thôi số mình đen, coi như đi tong cái mạng già này rồi. Thân nam nhi không chết trên chiến trường lại chết dưới địa cung, thật là ứng với lời dạy của tổ tông mà.

Đèn pin vừa chiếu qua, cái khe kia lại không có một bầy ong vàng túa ra ào ào như ông ta từng tưởng tượng, ngược lại tổ ong bên trong lại khô ráo không đọng chút hơi nước, có vẻ đây là một tổ ong đã bị bỏ hoang.

Nhưng điều khiến cho ông ta lạnh người là bên trong khe có một khối gì đó tối đen, trông như một cái tổ được xây khi đám ong tiến vào, không biết là xác người chết hay là xác động vật.

Ông ta nhảy xuống đó xem xét thì thấy đó là một pho tượng La Hán kiểu dáng tương tự những bức tượng La Hán ở đây, đã rơi vỡ thành vài mảnh, xem ra nó đã rơi xuống đây từ khi tổ ong chưa hình thành, kết quả là để cái ụ đó tiến vào.

Trần Bì A Tứ ngẩng đầu nhìn lên, vừa rồi khi nhảy xuống tuy không mấy để ý, nhưng ông ta cảm thấy hình như không có chỗ nào khuyết đi một bức tượng La Hán ngồi, vậy bức tượng này rơi xuống từ đâu mới được chứ?

———————————————————————

Không liên quan: Thơ của bạn tặng BV nhân dịp xuất bản Bút ký khoét đất ~~~

Mở trang Bút ký khoét đất ra
Đập ngay vào mắt: tiên cô Tà
Anh Bình Kín Miệng như hũ nút
Tên mập thường quen thói ba hoa
Ma nước ai ngờ trang tuyệt sắc
Cổ đao lấp loáng tựa sao sa
Cũng may ông nội còn nguyên vẹn
Hậu bối khỏi kêu lão cún già

Chương 5: Khởi đầu đầy hoang mang

Lúc này cả địa cung chìm trong bóng tối mịt mùng, nhìn lên theo quầng sáng đèn pin loang lổ chiếu ra chỉ thấy nơi nơi đều là những vị La Hán đang trông xuống, hàng trăm cặp mắt chằm chặp dõi theo Trần Bì A Tứ. Do nguồn sáng di động, tròng mắt La Hán thấp thoáng lộ ra vẻ dữ tợn, làm bầu không khí trong chốc lát đã trở nên hết sức quỷ dị.

Trần Bì A Tứ lại chửi thề vài câu "con lừa trọc", bụng bảo dạ nhất định những gã hòa thượng kia cố ý lừa mình. Nhưng lúc này ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản được nhiều như vậy, bèn tìm thêm vài vòng nữa, nhưng tìm mãi vẫn không phát hiện ra khuyết mất một pho tượng chỗ nào.

1. Con la trc là t dùng đ mit th các nhà sư. Lý do là vì thi xưa nhà sư vân du bn phương thường dt la đi xin b thí ( nhà Pht gi là hóa duyên), nhưng cũng có mt s k li dng danh nghĩa ca người xut gia, cũng dt la đi di gt thiên h, người ta mi dùng t "con la trc" đ chi h, lâu dn biến thành t ng xu đ mit th nhà sư

Bỗng trong đầu lóe lên một ý nghĩ, Trần Bì A Tứ đã dần dần nắm được vấn đề nằm ở đâu, tay cầm đèn pin cũng dời về vị trí pho tượng La Hán mặt trắng ngước nhìn trời đã bị ông ta đập vỡ hai mắt. Chỉ có pho tượng La Hán này rõ ràng là không giống những pho khác, vấn đề hẳn phải nằm ở đây. Có khả năng kẻ nào đó đã đẩy vị La Hán này xuống từ trên kia, sau đó thế chỗ bằng vị La Hán mặt trắng ngước mặt nhìn trời này, cho nên chỉ có mình pho tượng La Hán này khác biệt với những pho tượng còn lại. Tiên sư cha, sao lại có đứa rỗi hơi tự dưng giở trò này làm cái quái gì không biết? Hơn nữa còn có thể đoán biết chính xác vị trí mình nhảy xuống để xoay đầu pho tượng hướng vào đó, không phải người trong cuộc thì làm sao có thể? Chẳng lẽ chuyến đi này của mình đã chậm chân hơn kẻ khác? Nơi đây đã có kẻ đến trước, lại còn bố trí sẵn những thứ này để chọc phá mình sao?

Trần Bì A Tứ rọi đèn pin lên thân hình phốp pháp của vị La Hán mặt trắng kia, rồi lại áng chừng Bát trùng bảo hàm nặng trịch trên tay. Nếu quả thực đã có kẻ đến trước thì làm gì có chuyện hắn không cuỗm cả thứ này theo chứ. Chưa khoắng sạch mà đã bỏ đi là điều không thể, nhất định mình đã lo bò trắng răng rồi. Đây chẳng qua là cái bẫy cho mấy con lừa trọc đó cài sẵn để đánh lạc hướng suy nghĩ của người ta thôi.

Trần Bì A Tứ thả lỏng tinh thần. Tuổi không còn trẻ, lại phải trải qua một phen quăng quật như vậy, ông ta đã sắp tới cực hạn rồi. Ông ta ho khan vài tiếng, định bụng rời ánh đèn pin khỏi pho tượng La Hán kia, rọi ra bốn phía để xem làm thế nào dùng ít sức nhất mà trở về được. Chính vào lúc đó, một cảnh tượng khiến người ta khiếp vía đã xảy ra.

Trong tích tắc ánh đèn pin rời khỏi pho tượng La Hán kia, Trần Bì A Tứ đột nhiên nhìn thấy cái mặt trắng bệch nọ bất thình lình vọt ra!

Đèn pin rời đi quá nhanh nên cảnh tượng này chỉ vụt qua rồi biến mất, nhưng Trần Bì A Tứ lại thấy rất rõ ràng. Ông ta không phải loại người không tin vào mắt mình, lập tức cảm thấy đầu óc muốn vỡ tung, xém chút nữa đã ngã ngồi trên mặt đất. Nhanh như chớp giật, Trần Bì A Tứ thét lớn một tiếng tiếp thêm can đảm cho chính mình rồi trở tay một cái, một loạt đạn sắt bắn ra như nã súng liên thanh.

Ông ta dựa vào vị trí mình đã ghi nhớ ban nãy mà liên tục búng ra mười mấy viên đạn. Những viên đạn đó bắn tới bắn lui tứ phía trên đỉnh đầu khiến Trần Bì A Tứ còn tưởng pho tượng La Hán mặt trắng tựa như yêu quái kia đã nhảy xuống đến nơi. Trong lúc bối rối làm loạn trận tuyến, ông ta rút khẩu Vương Bát Hạp Tử cũ mèm thời trai tráng kia ra.

2. Vương Bát Hp T: là loi súng lc cơ bn được trang b cho b binh Nht Bn trong Thế chiến II, thiết kế bên ngoài hơi ging súng lc Ruger P08 ca Đc.

Loi súng này s dng đn 8mm, đ chính xác và lc sát thương tương đi cao, tuy nhiên lc xuyên thu li thp, nghe nói dùng 5 lp chăn bông là đã chn được đn =")))))

Ngoài ra loi súng này cn được chăm sóc bo qun cn thn mi bn tt được, nếu không rt d b kt đn.

Ông ta hoảng sợ thật sự rồi. Khẩu súng này từ vài năm sau giải phóng đã không được đụng đến lần nào nữa, đúng hơn là ông ta không dám tùy tiện rút ra. Lúc này cầm lấy nó, dẫu biết là vô dụng nhưng chí ít cũng tăng thêm dũng khí, tức là ông ta thật sự là đã hoảng đến không còn tỉnh táo nữa rồi.

Thì anh nói xem, làm cái nghề đào cát có mấy thập niên thôi, cơ hội đụng phải các loại bánh tông đã ít lại càng thêm ít. Trường hợp thế này, cho dù có mặt ông nội tôi ở đó thì cũng khó mà ứng phó nổi. Trần Bì A Tứ tuy cũng là kẻ già đầu trong đám lão làng, thế nhưng kinh nghiệm chủ yếu chỉ gói gọn trong những cuộc đấu đá sinh tử với người sống, chứ hễ đụng phải những chuyện nằm ngoài khả năng tiếp nhận của mình thì vẫn hoảng sợ như thường thôi.

Đang lúc hoảng loạn, ông ta lại liếc thấy cánh cửa đá thấp khuất tầm nhìn kia. Lúc này mà leo lên theo đạo động để quay lạithì là chuyện không tưởng rồi, vẫn nên tìm đường khác mà chuồn thì hơn.

Trần Bì A Tứ khom lưng chui qua cánh cửa thấp tè thì thấy một gian phòng đá. Tổ ong địa hoàng bự như một cái sườn núi mọc ra từ trên tường, quy mô không hề nhỏ, khiến ông ta không thể nhìn rõ trong căn phòng đá này vốn bày biện những gì. Chạy được vài bước thì chân mắc phải tổ ong, lập tức ngã dập mặt xuống đất. Đèn pin văng ra rõ xa mà ông ta cũng chẳng buồn nhặt, chỉ ôm chặt khẩu súng vọt về phía trước.

Qua căn phòng đá là đến một con đường dài, thoạt nhìn phải dài đến mười mấy mét, phía cuối đường là cửa chính của địa cung đang phát ra một vầng ánh lửa thật mỏng manh, hẳn là có cái gì chặn ở lối ra. Ông ta cắn răng bước thấp bước cao, cũng không biết mình đã dẫm đạp lên thứ gì nữa. Địa thế cuối cùng cũng bắt đầu hướng lên, Trần Bì A Tứ lại chạy thêm mười mấy bước nữa, trong lúc đầu váng mắt hoa chỉ mong tới được chỗ ánh lửa kia thì đầu ông ta đột nhiên đụng phải thứ gì đó. Chỉ nghe một loạt những tiếng va chạm đổ vỡ vang lên, ông đã thoát ra ngoài, ngã lăn quay trên đất.

Bên ngoài hừng hực ánh lửa, Trần Bì A Tứ đứng lên liếc nhìn bốn phía, phát hiện mình chui từ một đoạn tường đổ ra đây. Ông ta còn chưa hết kinh ngạc vì phát hiện ra cửa vào bí mật của phù đồ địa cung thì ra lại nằm sau một bức tường thì đã bị mấy người Mèo kề dao vào cổ, đồng thời vật ông ta nắm trong tay cũng bị tước mất.

Trần Bì A Tứ cũng đã sức cùng lực kiệt không còn phản kháng nổi, vừa thấy bất ổn bèn lảo đảo chạy, mới được vài bước đã bị người ta đạp một phát vào khoeo chân, phải quỳ rạp trên mặt đất, ngẩng đầu lên thì thấy mấy tên trai tráng người Mèo bị mình lừa xuống dưới này đang giơ đuốc bao vây lấy mình. Vị thủ lĩnh cầm đầu có phần tức giận, nhìn hắn chằm chặp. Xem ra bọn họ tìm kiếm một vòng mà chẳng phát hiện được gì nên đã biết mình bị lừa rồi.

Vị thủ lĩnh người Mèo đưa mắt nhìn Bát trùng bảo hàm vừa lấy được từ tay hắn, rồi lại liếc sang cái động ngầm tối thui trong đoạn tường đổ, dĩ nhiên trong bụng đã hiểu được căn nguyên chuyện này, trên mặt bèn lộ ra vẻ chán ghét. Y quay sang một tên trong đám người Mèo, làm động tác che hai mắt lại, rồi dùng tiếng Mèo nói vài câu. Trần Bì A Tứ hổn hển thở gấp, đây cũng không phải giả vờ, nhưng để lừa kẻ khác nên ông ta có cường điệu thêm lên, còn không ngừng ho khan. Nhưng vừa nhìn đến động tác của người Mèo kia, trong lòng ông ta chợt lạnh buốt. Ông ta đã sinh sống ở Quảng Tây bao nhiêu năm trời nên thừa biết là họ muốn móc mắt mình ra.

Tên người Mèo vâng lệnh gật đầu, bẻ một loại lá cỏ sắc nhọn mọc bên đường rồi ngồi xổm xuống trước mặt ông ta, dùng tiếng Mèo hỏi ông ta một câu. Trần Bì A Tứ liên tục xua tay, ra vẻ như mình hụt hơi lắm. Người Mèo kia thấy ông ta mệt lử thì nhìn nhau, không biết làm sao cho phải. Mấy người Mèo khác lại tò mò về chỗ ông ta chui ra, bèn đốt đuốc thò đầu nghiêng ngó bên trong.

Trần Bì A Tứ cù cưa được vài phút rồi mà vẫn không thấy bức tượng La Hán mặt trắng trông như yêu quái kia đuổi ra đến nơi, không khỏi nảy sinh thắc mắc. Lúc này ông ta đã hồi phục được một phần thể lực, thấy hai người Mèo tiến đến muốn giữ lấy tay mình cũng đủ biết nếu còn không phản kháng thì coi như xong đời. Ông ta bèn nhếch mép một cái, bắn ra một loạt đạn sắt, một loạt tiếng đoành đoành đoành đoành vang lên, trong nháy mắt đã đánh rơi toàn bộ đuốc ở đó xuống đất.

Đám người Mèo phút chốc kinh hãi không biết phải làm thế nào. Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng, sát ý nổi lên, một cước đá ngã lăn tên người Mèo đang đứng trước mặt, đồng thời xoay một tay rút khẩu Vương Bát Hạp Tử, những muốn giết người. Nhưng đúng lúc đó ông ta chợt nghe gió lạnh thổi vù một tiếng, bàn tay mình đã mát lạnh, sờ thử một cái thì thấy đầu ngón tay đặt lên cò súng đã không còn nữa.

Trần Bì A Tứ nào từng nếm qua thiệt hại như thế bao giờ, trong lòng hốt hoảng. Chẳng chờ ông ta kịp phản ứng, một luồng gió lạnh lại thổi tới, Trần Bì A Tứ chỉ kịp nhìn thấy con ngươi lãnh đạm của vị thủ lĩnh người Mèo kia cùng với hình xăm kỳ lân nhảy múa trên thân y. Đó là cảnh tượng cuối cùng mà ông ta chứng kiến, vì một giây sau đã bị một nhát dao chém mù. Con dao quắm của vị thủ lĩnh người Mèo từ con mắt trái của ông ta bổ ngang vào, vạch đứt đôi xương mũi, cắt ngang qua mắt phải rồi phá ra, hai con mắt ông ta lập tức mù hẳn.

Thôi xong, gặp phải đồng nghiệp rồi. Trần Bì A Tứ thầm thở dài, ngã nhào trên mặt đất, đau đớn ngất đi.

Lão Hải kể tiếp: "Mấy người Mèo kia cuối cùng cũng không giết ông ta, mà chỉ đem Trần Bì A Tứ cùng Bát trùng bảo hàm kia giao cho đội dân phòng địa phương. Vừa may ông ta có một người chiến hữu từ hồi khởi nghĩa ở đó mấy năm phụ trách dân phòng địa phương bảo lãnh cho, nhờ đó mới không bị xử bắn, có điều mắt vẫn cứ mù. Sau này chiếc hộp kia được đưa đến bảo tàng, người ở đó vừa nghe liền phái nhân viên đến hiện trường xem xét, cũng chẳng biết có kết quả hay không. Có điều khi chiếc hộp kia được mở ra thì thấy tầng cuối cùng chẳng phải xá lợi gì sất, mà là con cá đồng này." Ông ta gõ gõ lên tờ báo, "Chẳng trách chuyện này trở thành một đòn trời giáng sấm sét. Trần Tứ gia sau khi biết chuyện thì chửi ầm lên, nói mình đã bị nguời ta giỡn mặt. Cái hộp đó có lẽ từ mấy đời trước đã bị người ta mở ra lấy mất thứ bên trong rồi. "

Trong lúc nghe lão Hải kể chuyện xưa, tôi bất tri bất giác đã uống thêm một chén rượu rồi nên có hơi chuếnh choáng, bèn hỏi: "Ông ta dựa vào đâu mà nói thế?"

Lão Hải vừa mút con ốc vặn vừa nói: "Tôi biết đâu được đấy. Trần Bì A Tứ sau đó lại đi tu ở một ngôi chùa Quảng Tây, chuyện này tôi phải nhờ đến mối quan hệ cũ mới hỏi thăm được đấy, anh bạn trẻ. Tin tức này không dễ moi ra đâu, cậu sau này có mối nào hời cũng đừng rẻ rúng lão già này đấy nhé."

Tôi chửi thầm một tiếng, bụng bảo dạ biết ngay lão đốn mạt này chẳng đời nào tốt đến thế mà. Xem ra ông ta cũng chỉ muốn lôi kéo tôi, tạo thêm mối quan hệ mà thôi. Biết ông ta đã cạn thông tin, tôi lại hỏi lần này ông đến Hàng Châu tham dự buổi đấu giá kia để làm gì.

Lão Hải giải quyết nốt con ốc vặn cuối cùng rồi chép chép miệng nói: "Năm đó loạn lạc liên miên, con cá này không biết đã lưu lạc đến nơi nào. Giờ hòa bình rồi nên rốt cuộc cũng có người mang nó ra đấu giá. Tôi vẫn hay tham gia hội đấu giá như cơm bữa, trong nghề cũng có chút ít danh tiếng nên bọn họ chịu chi phong bao dày và phát thiệp mời cho tôi. Cậu nhìn mà xem, con cá này cũng nằm trong danh sách hàng đấu giá đấy, tôi thấy cậu có vẻ hứng thú với nó nên tiện thể chuẩn bị cho cậu tấm thiệp mời thôi. Chẳng cần biết có hữu dụng hay không, cứ đi xem ai muốn mua con cá này cũng là chuyện tốt mà."

Tôi liếc một cái lên cột giá khởi điểm, 1000 vạn hả, có dở hơi mới bỏ tiền ra mua. Trên tay tôi cầm những hai con, nếu có người mua thì chẳng phải được đến 2000 vạn sao. Thời nay mấy ông tổ chức bán đấu giá cũng lăng xê món hàng quá đáng đi, chí ít cũng phải làm sao cho người ta tin tưởng chứ.

Tin tức của lão Hải mặc dù hay ho nhưng lại không phải chuyện tôi muốn biết, nhất thời không biết nói tiếp cái gì nữa. Hai người chúng tôi đều tự châm lấy một điều thuốc mà ngẫm nghĩ chuyện của mình. Nhân viên phục vụ thấy chúng tôi cứ ì ra không chịu đi, muốn chạy đến dọn bàn, tôi lại chuyển sang ân cần hỏi han lão Hải về mấy chuyện làm ăn linh tinh này nọ. Lão Hải cũng nói mấy câu muốn theo tôi xuống đấu mở mang kiến thức gì đó, cũng chẳng nhìn ra ông ta có thật lòng hay không. Tôi bảo hay là thôi đi, chính tôi đây còn chẳng định chui xuống lần nữa, ông đã già cả yếu đuối rồi thì đừng có dính dáng vào nghề này, miễn cho tự rước phiền toái vào thân, rồi lại liên lụy cả đến tôi.

Rượu tôi cũng đã uống được kha khá, bèn hỏi lão Hải lấy thiệp mời rồi bảo ông ta về nghỉ ngơi trước. Tối đến, Tần Hải Đình mè nheo đòi ra ngoài chơi, tôi là thổ địa ở đây nên từ chối cũng chẳng tiện, đành phải lái xe dẫn bọn họ đi loanh quanh mấy vòng, ăn vài món bình dân. Có điều thời tiết thật sự rất lạnh nên bọn họ cũng đòi về ngủ sớm.

Tôi lái xe về đến nhà, còn chưa lên gác đã đột ngột cảm thấy trong nhà chỉ có bốn bức tường thì thật lạnh lẽo vô cùng. Trước đây tôi chưa từng có loại cảm giác này bao giờ nên chỉ thấy kỳ lạ, không lẽ mấy lần trải nghiệm vừa qua đã khiến tôi thay đổi nhiều đến thế hay sao? Nghĩ lại thì chính mình cũng cảm thấy buồn cười, thế là tôi bèn lái xe đến thẳng quán chú Hai uống chén trà khuya.

Ngồi trong quán vừa uống trà vừa xem bút ký của ông nội, tôi vừa nghĩ đến những chuyện đã xảy ra, vẫn chỉ cảm thấy đầu óc mịt mờ. Cái chính là ba con cá này đâu có thuộc cùng một triều đại, hơn nữa vị trí địa lý cũng cách xa nhau. Tạm thời chưa tính đến công dụng của ba con cá này, chỉ riêng vị trí khai quật của chúng đã không để lại một chút manh mối nào cho người ta suy luận rồi.

Người xưa làm những chuyện này này tất phải có mục đích, bằng không thì trận địa này quá lớn, người thường sao có thể bày ra được. Tôi suy đi tính lại một hồi, cảm thấy mấu chốt chính là không biết mục đích thật sự của kẻ kia; chỉ cần biết được mục đích thì đã có vô số phương hướng để điều tra rồi.

Giá ông nội còn sống có phải tốt hơn không? Tôi thở dài. Không thì có chú Ba ở đây cũng được, ít nhất còn có người cùng bàn bạc. Hiện giờ tôi có mỗi một mình, chỉ biết nghĩ đi nghĩ lại mấy vấn đề này, đến mức bắt đầu phát ngấy lên.

Bỗng tôi ngửi thấy mùi gì khét lẹt, cúi đầu nhìn xuống thì thấy trong tờ tạp chí mình mượn đọc có in một trang bản đồ du lịch Trung Quốc. Ban nãy tôi vừa nghĩ vừa cầm điếu thuốc chỉ trỏ bên trên, vô ý châm thủng ba cái lỗ ở vị trí ba địa phương kia, đến khi tôi kịp phản ứng thì đã trễ. Tôi vội vàng dụi điếu thuốc, nhìn quanh quất bốn phía, thấy người phục vụ còn chưa chú ý đến trò phá hoại của mình thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Chú Hai tôi tuy là người thân trong nhà, nhưng tính tình rất gàn dở, làm hư đồ đạc của chú là chú sẽ trở mặt ngay. Đặc biệt là mấy cuốn tạp chí ở chỗ này, mỗi cuốn đều vô cùng quý giá, là đồ chú sưu tầm được, làm hư thì chú lại càng chửi cho đến mấy năm trời cũng chưa chịu tha ấy chứ.

Tôi giả vờ như chưa có chuyện gì, trả tạp chí lại. Vừa mới buông tay đã có một lão già cầm lên, đứng đó giở ra xem. Tôi lo ông ta sẽ phát hiện ra mình làm hỏng sách nên chẳng dám đi xa, đành ngồi phịch xuống ghế salon, nhìn ông già kia lật lật đến đúng cái trang bị tôi phá hỏng còn nóng hôi hổi, vừa nhìn thấy, không khỏi ừm một tiếng.

Nguy rồi! Tôi nghe vậy thì biết mình đã bị phát hiện, đang chuẩn bị đánh bài chuồn thì chợt thấy ông ta khẽ cười: "Ai lại châm ra thế phong thủy ở trong này vậy, thật thất đức mà."

Chương 6: Đáp án đơn giản

Giọng nói của ông lão này sang sảng, mang ngữ điệu Trường Sa, cộng thêm nội dung câu nói khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi âm thầm đánh giá ông già này, tướng mạo trông rất lạ, tuổi chừng hơn bảy mươi, người hơi gầy, vóc dáng trung bình, giữa chân mày có điểm tối. Lão mặc một chiếc áo bông cũ đã hơi nhàu, mắt kính dày như đít chai, đoán chừng cũng mù dở, cách ăn mặc này không giống những khách hàng khác trong quán. Có điều trong quán trà của chú Hai không hiếm cao nhân nên người bán hàng cũng không thấy lạ, dạo gần đây kiểu người nào mà chẳng gặp.

Tôi im lặng theo dõi hành động của lão, chỉ thấy lão cầm lấy quyển sách kia, chắp tay sau lưng trở về chỗ ngồi. Sống lưng lão thẳng tắp, bước đi nhanh nhẹn, nếu không phải người luyện võ thì trước kia nhất định đã từng đi lính. Chỗ lão ngồi còn có vài người đều đã cao tuổi, họ đang nói chuyện phiếm với nhau, vừa thấy người này trở về đều lộ ra vẻ cung kính, rõ ràng lão ta là người đứng đầu. Tôi lén bưng tách trà đi qua chỗ đám người nọ, ngồi phía sau bọn họ, vểnh tai lên nghe ngóng xem ông già kia nói gì. Ban đầu mấy ông lão bàn luận gì đó về hội cổ phiếu, nghe chẳng có gì hay ho, nửa giờ sau ông già kia nghĩ đến cuốn tạo chí mình đang cầm trên tay mới mở miệng: "Phải rồi rồi, lại đây nào, tôi cho các ông xem một chuyện thú vị".

Nói rồi lão trải tờ tạp chí ra bàn, giở đến đúng trang tôi đã làm cháy sém. Tôi thấy vậy lập tức hiểu ra người này hẳn phải biết chuyện gì đó, lập tức nín thở nghe ông già kia nói: "Các ông xem tấm bản đồ này có gì đặc biệt? Coi như đố các ông đó." Mấy ông lão xúm lại xem, nhao nhao mỗi người một ý. Không biết cái bản đồ bị thuốc lá châm mấy lỗ này có nào đặc biệt mà mấy ông già kia được dịp chém gió, thậm chí có người còn nói cái gì mà tạo thế chân vạc nữa. Ông già kia chỉ khẽ lắc đầu, tất cả đều không đúng.

Tôi nghe thế thì ruột gan cũng bắt đầu ngứa ngáy, trong lòng chỉ thầm mong lão nói ra đáp án, chứ tôi cũng đầu hàng luôn rồi. Thấy không ai nói đúng, lão già cười lên ha hả rồi đột nhiên hạ giọng nói ra một câu mà tôi không sao nghe ra được. Mấy ông già kia lập tức trở nên kích động, rồi tranh nhau xem lại tờ tạp chí.

Tôi thoáng cảm thấy buồn bực trong lòng, sao không dưng lão lại dùng phương ngữ cơ chứ, chẳng lẽ tôi không có duyên được biết chuyện này sao? Đám người kia xem xét hồi lâu đều ồ lên một tiếng như chợt hiểu ra điều gì, ruột gan tôi nóng như lửa đốt, chỉ mong bọn họ bàn luận mấy câu để tôi nhìn ra manh mối. Dựa vào khả năng của tôi, chỉ cần biết chút manh mối là có thể hình dung đại khái rồi.

Ai mà ngờ, ngay sau đó cả đám người này đều dùng cái phương ngữ kì quái kia để nói chuyện với nhau. Tôi chăm chú nghe một hồi, chỉ có thể xác định đó không phải là tiếng Hán. Móa nó chứ, mấy lão già kia rốt cuộc là người từ đâu tới?

Tôi nghe một lúc rồi không theo nổi nữa, đầu óc bắt đầu ong ong, tự nhủ các người không muốn nói cho ta nghe chứ gì, mợ nó đã thế ta đích thân đến hỏi các người xem các người làm gì được ta nào. Nghĩ sao làm vậy, tôi đứng lên đi về phía họ, đóng vai một thiếu niên hiếu học, hỏi: "Xin hỏi các vị đây là người phương nào? Sao tôi chưa nghe thấy thứ ngôn ngữ lạ lùng này ở đâu nhỉ?".

Hành động này ở Hàng Châu là cực kì đường đột, không giống như ở Bắc Kinh, người trong quán trà ít nhiều đều biết nhau. Tôi vừa nói xong, ngay lập tức đã cảm thấy hối hận, thầm nhủ không phải họ sẽ nhìn mình khinh khỉnh đấy chứ.

Không ngờ mấy lão già kia đều ngây người ra một lúc rồi phá lên cười, lão già cầm cuốn tạp chí nói: "Anh bạn trẻ, cậu nghe không hiểu cũng là bình thường, đây là tiếng người Mèo cổ, cả nước chưa tới ngàn người nói được thứ tiếng này." Tôi ngỡ ngàng hỏi lại: "Các vị đây đều là người Mèo sao? Tôi thấy không giống lắm nha."

Mấy ông lão lại cười rộ lên, cũng không buồn đáp lời, tôi thấy mấy người này đều ăn nói lưu loát, cũng không phải người vùng này, biết đâu mình có thể hỏi ra điều gì, bèn thuận miệng hỏi luôn: "Xin các vị đừng cười, vừa nãy tôi nghe lão thái gia đây nói cái gì mà bố cục phong thủy, bản đồ kia do tôi làm cháy, chẳng lẽ lại cháy thành hình dạng gì thú vị sao?" Lão già kia nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói: "Anh bạn trẻ cũng có hứng thú với thuật phong thủy sao? Môn học này chưa chắc cậu đã hiểu nổi đâu."

"Tôi có thể hiểu mà!" Tôi chỉ hận không thể quỳ xuống liếm chân lão cho lão mau mau khai ra. "Nếu không cũng mong ngài chỉ giáo cho tôi được mở mang tầm mắt!" Lão nhìn sang mấy người khác cười cười rồi đáp: "Thực ra cũng không có gì, cậu xem, cậu châm thủng ba chỗ, vị trí đều rất đặc biệt. Giờ hãy nối liền ba điểm này rồi xoay ngang nó ra rồi nói xem cậu nhìn thấy gì?" Tôi cầm lấy tờ tạp chí, vừa nhìn vào bỗng lạnh cả người, "Đây là!" Tôi há hốc miệng.

Bắt đầu từ lăng mộ trong núi Mông Sơn thời Tây Chu kéo qua địa cung phù đồ trên núi Phật Nằm ở Quảng Tây rồi đến ngôi mộ dưới đáy biển Tây Sa, tức là địa điểm phát hiện ra ba con Xà mi đồng ngư. Nối ba điểm này lại, cùng với đường ven biển Trung Quốc tạo thành một hình dạng vô cùng quen thuộc, nhìn kỹ thì thấy kia rõ ràng là một con rồng ẩn hiện! Tôi hận không thể tự vả mình một cái, thầm nhủ, Ngô Tà mày thật là ngu dốt! Sao không chịu đánh dấu trên bản đồ, chỉ chú tâm đến chuyện mấy di tích kia không cùng niên đại mà không thèm để ý đến mối liên hệ giữa vị trí của chúng chứ.

Ông già kia thấy tôi sửng sốt thì biết tôi đã nhìn ra manh mối, tỏ vẻ tán thưởng: "Là một thế 'Xuất thủy long' không được rõ ràng, nói cho dễ nghe là 'Tiềm long xuất hải', tuy nhiên thế cục này vẫn còn thiếu cái đầu rồng". Nói rồi lão cầm điếu thuốc của mình, châm lên tờ tạp chí vào đúng vị trí núi Trường Bạch.

Tờ tạp chí xèo xèo bốc khói, tôi không kịp phản ứng, đờ người ra mất một lúc rồi vội hỏi lão: "Này~ này, sư phụ, thế cục này có ý nghĩa gì?" Ông già cười ha hả, "Cậu xem, cái này gọi là nhìn ngang là đỉnh núi, dựng dọc thành dãy núi' cậu xem mấy điểm này, hợp với mạch của các dãy núi Trường Bạch, Tần Lĩnh, hệ thống núi Nghi Mông, núi Côn Lôn hướng thẳng xuống đất, được gọi là thiên long áp vĩ (nghìn con rồng chụm đuôi vào nhau). Một số long mạch dưới lòng đất của TQ liên kết với nhau, tất cả đều hợp thành phong thủy. Trên toàn chiều dài long mạch, những nơi linh khí hội tụ nhiều không kể xiết, những điểm cậu châm lên đều là những vị trí mấu chốt, hay còn gọi là bảo nhãn. Bởi lẽ những long mạch này một đầu nằm dưới nước, một đầu lộ ra trên bờ nên mới gọi là "xuất thủy long".

Tuy nhiên cách xem Đại đầu phong thủy này có thực dụng hay không thì không rõ. Cách dùng phong thủy để nhìn ra long mạch khá là trừu tượng, gọi là Đại đầu long, thời xưa người ta dùng nó để bói toán, suy đoán vận thế thiên hạ, thành Bắc Kinh cũng xác định vị trí dựa vào cách này. Còn cách xem phong thủy để tìm nơi xây lăng mộ cho các hoàng đế thì lại là một mảng quá rộng, tôi cũng chỉ hiểu sơ sơ thôi. Nói đến bậc thầy trong nghề thì phải kể tên Uông Tàng Hải sống vào đầu thời Minh, đại đầu phong thủy chính là sở trường của ông ta".

Tôi nghe đến đó thì sáng mắt ra, cảm thấy thất khiếu đều đã thông suốt. Tất cả những điều trước đây tôi không nghĩ ra lần lượt tái hiện trong đầu, vì sao chuông lục giác xuất hiện ở động xác trong núi Ngũ Phần Lĩnh bên ngoài Lỗ vương cung lại cũng tìm thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển, vì sao trong ngôi mộ thời Tây Chu lại có chiếc hộp mật mã tinh xảo đến thế, vì sao xá lợi Phật cốt trong Kính Nhi Cung ở Quảng Tây lại biến thành Xà mi đồng ngư, lí do rất đơn giản, bởi vì Uông Tàng Hải đều đã đi qua những nơi này.

Bảo nhãn trong thế 'Xuất thủy long' thông thường đều là vị trí tụ tập linh khí của toàn bộ long mạch, thường thì ở những nơi đó đều có xây dựng công trình kiến trúc hoặc lăng mộ. Tuy hiện giờ tôi chưa biết ông ta đặt Xà mi đồng ngư vào những bảo nhãn này nhằm dụng ý gì, nhưng theo lý thuyết phong thủy thông thường thì toàn bộ mạch phong thủy đại long đầu này đều được sắp đặt chỉ vì "đầu rồng" trên núi Trường Bạch. Bố trí tất cả những điều này đều là vì Vân Đỉnh thiên cung, khó trách ông ta say sưa đến thế, dành nhiều tâm huyết đến thế.

Cung điện dưới trùng trùng tuyết phủ kia rốt cuộc là nơi an táng của ai?

Ông già thấy tôi ngơ ngẩn cũng không biết tôi đang nghĩ gì, bèn kêu mấy người khác đứng dậy, nhét tạp chí tới vào trong tay tôi rồi vẫy phục vụ tới tính tiền. Trong lúc xuất thần tôi không kịp phản ứng, đến khi nhớ ra mình phải hỏi cách liên lạc thì lão đã rời khỏi quán trà. Tôi vội vã đuổi theo, vừa hay lại thấy hắn tháo kính xuống. Liếc qua ánh mắt và hình dạng ngũ quan của lão, tim tôi khẽ lạc một nhịp, đứng sững một chỗ.

Một vết thương cực kì đáng sợ bắt nguồn từ khóe mắt của lão, cắt ngang qua mũi rồi kéo dài đến tận khóe mắt bên kia. Sống mũi có một chỗ lõm xuống, tựa như bị vật gì đó bén sắc cắt qua. Tôi nhìn thấy ánh mắt của lão đã sợ đến nỗi quên cả đuổi theo, thành ra để đám người kia lên xe đi mất. Tôi nghĩ lại thấy lão già này từ cách nói chuyện đã không tầm thường, hơn nữa khí huyết tràn đầy, rất có thể lão chính là người lão Hải hôm nay nhắc tới – Trần Bì A Tứ!

Lúc nãy vào bữa cơm mới vừa nhắc tới hắn, vậy mà giờ đã đụng mặt ngay trong quán trà, kể cũng khéo quá đi. Tôi ngẫm nghĩ một lát, lão Hải không dưng lại đường đột tới Hàng Châu kể cho tôi mấy chuyện này, không lẽ lão già này có mối liên hệ ngầm với lão Hải? Bày ra mấy việc này mục đích cuối cùng là muốn dụ tôi vào cuộc? Lão già này xem ra có vẻ xảo trá, phải đề phòng mới được.

Tôi thầm rủa trong lòng, lại không biết trò diễn này sẽ dẫn tới đâu, lòng tràn đầy nghi hoặc. Nhớ lại câu chuyện lão Hải đã kể, không phải lão già này đã mù rồi sao? Làm sao còn nhìn được nữa, lại còn nói chuyện rất có khí thế, nhìn chẳng giống ông lão 90 tuổi chút nào. Có điều nghĩ thông suốt được thế cục Đại đầu tiềm long, trong lòng đã dễ chịu hơn nhiều, cảm giác u ám trước kia cũng bất giác tan biến. Tôi bèn đứng lên tính tiền rồi quay về nhà thoải mái đánh một giấc ngon.

Tỉnh dậy vào giữa trưa ngày hôm sau, tôi vừa nhìn thấy cái thiếp mời đã chửi mẹ kiếp, thế là xong. Tôi gọi điện ngay cho lão Hải, ông ta cũng không nói gì nhiều, chỉ nói con cá kia không có ai mua cả. Trong lòng tôi đắc chí, thầm nghĩ chỉ có kẻ ngốc mới đi mua thứ này. Lại chuyện phiếm thêm vài câu nữa, thấy lão Hải bên kia có vẻ rất bận, xem ra đang mua khá nhiều đồ, tôi cũng không nói dông dài nữa.

Buổi chiều tôi không muốn đến cửa hàng, chỉ muốn ra quán trà đợi người kia. Không ngờ cửa tiệm của chú Ba lại gọi điện tới, nói có người tìm tôi.

Trong lòng tôi thầm nghĩ không phải lão Dương đó chứ, vội tất tả lái xe tới. Vừa vào trong tiệm đã thấy một người ngồi trên ghế sô pha dành cho khách, tôi chợt thấy mắt mình cay cay, nước mắt thiếu điều rơi lã chã, lập tức gọi to: "Phan Tử!"

Chương 7: Phan Tử

Tôi với Phan Tử ngồi trong cửa hàng của chú Ba cả một buổi chiều, kể nhau nghe vài điều về tình hình bản thân.

Thì ra từ trước khi tôi đi Hải Nam, Phan Tử đã dần dần khôi phục ý thức, nhưng rồi tôi đi vội quá, chỉ để lại bệnh viện số điện thoại di động nên sau khi tôi rời bến thì đương nhiên không tìm được.

Thể chất Phan Tử rất tốt, hồi phục cực kì nhanh, dù vậy anh vẫn phải nằm trên giường cả tháng, đến khi có thể xuống giường tìm gặp bọn tôi thì chẳng liên hệ nổi với mống nào. Tính ra lúc đó chắc là tôi đang ở Thiểm Tây, còn chú Ba thì khỏi phải nói, cả thế giới đều đang tìm ổng.

Tôi thấy trên tay Phan Tử quấn một dải lụa đen, liền hỏi anh làm sao vậy? Anh nói Đại Khuê cũng từng là anh em, chết đi còn chưa nổi bảy ngày, mang nó dù sao cũng nhẹ lòng đôi chút. Anh nhắc đến chuyện cũ làm tôi nhớ lại khoảng thời gian đi Sơn Đông, trong lòng không khỏi nghẹn ngào, suy cho cùng chuyến đi đó cũng do tôi khơi mào mà ra, nếu lúc đó không nhiều chuyện đưa sách lụa cho chú Ba xem thì tình cảnh mọi người giờ đây đã khác nhiều rồi.

Phan Tử thấy sắc mặt tôi thay đổi cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì, liền vỗ vai tôi nói: "Cậu Ba, chúng ta đã làm cái nghề này thì có một số chuyện muốn tránh cũng không thoát, đâu thể trách ai được."

Tôi thở dài, thầm nhủ anh nói thì dễ lắm, người hại chết Đại Khuê cũng đâu phải anh.

Xúc động một hồi, tôi lại kể cho Phan Tử nghe mấy chuyện xảy ra gần đây, anh càng nghe càng mặt nhăn mày nhíu, sau khi nghe suy đoán của chúng tôi liền biến sắc, lắc đầu bảo anh và chú Ba đã quen biết bao nhiêu năm, anh dám chắc chú Ba tuyệt đối không phải là loại người này, bảo tôi đừng có nghe người ta nói vớ vẩn.

Phan Tử đi theo chú Ba nhiều năm, cảm tình sâu đậm, có vài điều tất nhiên không thể tin nổi. Tôi bèn lảng sang chuyện khác, hỏi anh có dự tính gì không.

Phan Tử ngẫm nghĩ một hồi, nói mình vốn định quay về Trường Sa tiếp tục kiếm cơm, công việc làm ăn của chú Ba đều ở đó cả, người làm mình đều quen biết hết, trở về không sợ không có chuyện gì làm. Bây giờ nghe tôi nói vậy, anh cảm thấy chuyện này không hề đơn giản, e rằng phải tiếp tục điều tra cho rõ ràng mới có thể yên tâm.

Tôi gật đầu, tuy chuyện này về cơ bản tôi đều đã điều tra qua, nhưng Phan Tử với chú Ba có quan hệ không tầm thường, giữa họ có nhiều chuyện tôi không biết, nếu anh chịu đi điều tra thì không còn gì tốt hơn.

Phan Tử gọi mấy cuộc điện thoại, bên kia cũng bảo anh cứ ngồi chờ tin tức. Tôi nghĩ chắc phải chờ đến dăm bữa nửa tháng, không ngờ chỉ năm phút sau đã có người gọi lại. Phan Tử nghe xong, cau mày nói với tôi: "Cậu Ba, e rằng cậu phải đi với tôi một chuyến."

Tôi ngẩn người, thầm hỏi thế này là sao, không phải là có chuyện gì xảy ra đấy chứ.

Phan Tử nói tiếp: "Ông Ba tìm một người ở Trường Sa, có để lại lời nhắn cho cậu, nhưng bên đó bảo tôi đưa cậu sang để họ trực tiếp nói chuyện."

"Chú Ba nhắn lại với tôi?", tôi gần như bật dậy, bên phía Trường Sa không phải tôi chưa từng liên lạc, nhưng sao đến bây giờ vẫn chưa có ai cho tôi biết chuyện này?

Phan Tử tỏ ra vô cùng nghiêm túc, không nói gì thêm, chỉ bảo tôi: "Bên đó gấp lắm, cậu thấy thế nào, bao giờ mới có thể xuất phát?"

Anh có vẻ rất sốt ruột, tôi mơ hồ cảm thấy sự tình không đơn giản nhưng cũng không ngờ anh lại vội tới mức này. Kết quả là ngay tối hôm đó chúng tôi nhanh chóng lên tàu hỏa sơn xanh (1) đi Trường Sa, không kịp nhắn lại câu nào.

(1) Nguyên văn 绿皮火车, đây là loại tàu hỏa cũ và sắp bị đào thải ở Trung Quốc, giá vé cũng rất rẻ.

Lên tàu rồi tôi mới hỏi Phan Tử, nếu đã vội sao không đi luôn máy bay mà còn ngồi tàu hỏa, có nực cười không cơ chứ?

Phan Tử có vẻ hoảng hốt, chỉ vỗ vỗ vai tôi nói chút nữa sẽ biết. Tôi thấy trán anh túa mồ hôi thì càng cảm thấy kỳ lạ, thầm hỏi rốt cuộc anh đang căng thẳng vì chuyện gì chứ.

Tàu hỏa xuất phát từ Hàng Châu, đầu tiên dừng lại một ga khác cũng thuộc Hàng Châu. Còn ba giờ nữa là đến ga Kim Hoa, tôi đã bắt đầu mất kiên nhẫn, muốn hỏi cho ra lẽ, nào ngờ đúng lúc ấy tàu hỏa bỗng đột ngột dừng bánh.

Tàu hỏa xanh tạm thời dừng bánh là chuyện rất bình thường, lúc mua vé tôi đã nghĩ khoảng cách xa như vậy, anh không đi máy bay thì chí ít cũng phải là tàu tốc hành, ai đời cứ khăng khăng đi tàu hỏa xanh đến cái ghế ngồi cũng ê mông, nhưng Phan Tử căn bản không quan tâm đến chuyện này. Bây giờ tàu bị dừng, trong lòng tôi có phần hả hê – anh vội chứ gì, giờ tàu tạm dừng, cho anh vội chết luôn!

Không ngờ tàu vừa dừng bánh, Phan Tử liền đập tôi một cái, ý bảo đi theo mình. Tôi đứng lên định hỏi hắn đi đâu, kết quả anh đột nhiên xoay người nhảy ra qua cửa sổ tàu.

Tôi nhìn sang, chết tiệt, anh làm cái trò gì thế? Người trên tàu thấy vậy cũng giật nảy mình, đều đứng lên ngó. Phan Tử ở bên ngoài kêu to: "Cậu Ba còn chần chừ gì nữa, mau xuống đây!"

Tôi nhìn quanh bốn phía, tất cả mọi người đều ngó mình chằm chặp, thầm nhủ kiểu này ngày mai mình lại được lên trang nhất báo thành phố chứ chả chơi, cắn răng một cái rồi cũng xoay người nhảy ra ngoài.

Tàu hỏa khá cao, lúc nhảy xuống tôi bị mất thăng bằng, ngã vào bên vệ đường, Phan Tử bèn đỡ tôi dậy rồi kéo tôi chạy đi.

Một hơi chạy băng qua đồng, leo lên bờ ruộng sau đó lại vòng ra đường lớn, ở đó đã có sẵn một chiếc Pica đứng chờ chúng tôi. Phan Tử kéo tôi vào trong, thế rồi xe lập tức nổ máy.

Tôi mệt đến đứt hơi, đến khi xe chạy ra tỉnh lộ mới bình ổn trở lại, bèn mắng: "Con mẹ nó anh làm gì mà hấp tấp vậy."

Phan Tử cũng mệt hết hơi, nhìn bộ dạng của tôi, cười nói: "Cậu đừng nóng, đây cũng là lần đầu tiên tôi phải chật vật như vậy mà. Tổ sư, chả biết đã rút dây động rừng khi nào nữa, không biết có cắt đuôi nổi không."

Nói rồi anh ngó về phía sau, chỉ thấy một vùng tối đen, hình như không có ai đuổi theo.

Tôi nghe không hiểu, xem chừng việc này anh đều đã lên kế hoạch, vội hỏi anh có chuyện gì xảy ra thế. Anh châm một điếu thuốc, dùng tiếng Trường Sa nói: "Trên tàu có chim b câu (*), ông Ba đi vng, Trường Sa ri như canh h, đám người hot đng ngm (*) ch ch tri sáng (*) là l mt."

(Những chỗ (*) đều là tiếng lóng của Trường Sa, mình dịch thoáng, nghĩa cả đoạn thì tác giả đã giải thích bên dưới)

Lời này ý là trên tàu hỏa có cảnh sát, chú Ba tôi không có mặt ở Trường Sa, việc làm ăn bên đó cũng rối tung beng lên, chỉ e có người bên cảnh sát trà trộn vào đám người làm.

Khi nói chuyện, ánh mắt anh không ngừng liếc qua người lái xe. Tôi hiểu ra người này chỉ là quơ tạm trên đường, không nên để lộ nhiều tin tức thành ra cũng không hỏi gì thêm. Trong lòng lại ngổn ngang trăm mối, thầm nhủ bây giờ mình đã thành cái thể loại gì đây, không phải tù trốn trại à.

Ông nội con ơi, năm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy tháng trước tôi còn là một anh tiểu thương, bỗng chốc biến thành trộm mộ đi giao lưu văn hóa với bánh tông cũng không nói làm gì, bây giờ thì thành một tên đào tẩu, cuộc đời thật là kịch tính quá đi mà...

Xe đến một huyện thành nhỏ gần Kim Hoa, chúng tôi xuống xe trả tiền. Phan Tử đưa tôi đi mua mấy bộ đồ nhỏ hơn 1 size có phần lỗi mốt để thay, soi vào gương trông giản dị hơn trước. Sau đó lại chạy đến nhà ga, mua vé chuyến tàu chúng tôi vừa nhảy xuống lúc nãy, tàu bị tạm dừng nên đến bây giờ mới tới ga.

Chúng tôi lại lên tàu, lần này mua vé giường nằm. Phan Tử nhìn toa hành khách, rõ ràng đã nhẹ nhõm hơn, nói: "Lũ cớm vừa rồi hẳn là đã xuống ở ga Kim Hoa, giờ này hai đầu tỉnh lộ cao tốc đều có chốt chặn, bọn họ tuyệt đối sẽ không lường được chúng ta lại lên tàu một lần nữa."

Lần đầu tiên trong đời tôi trở thành kẻ trốn chạy, tay chân cũng luýnh quýnh không biết phải làm sao, căng thẳng đến phát run. Tôi khẽ hỏi: "Rốt cuộc chuyện này là sao? Tại sao chúng ta đi lại bị cảnh sát theo dõi? Tôi cũng không làm gì... A, không phải, phải nói những chuyện tôi làm đáng lẽ ra người bình thường sẽ không thể phát hiện ra mới đúng chứ?"

"Tôi cũng không rõ", Phan Tử nói, "Xế chiều tôi gọi điện cho quỹ tín dụng đen của chúng ta bên Trường Sa, kết quả ông chủ bên kia nghe ra giọng tôi bèn nói đúng hai câu. Một là bảo tôi lập tức mang cậu đến Trường Sa, ông Ba có chuyện nhắn lại; hai là Trường Sa xảy ra chuyện, bảo chúng ta cẩn thận với cảnh sát, sau đó dập máy luôn. Ông chủ này là bạn làm ăn ba mươi năm với ông Ba, tuyệt đối có thể tin tưởng. Tôi nghĩ mình không quen ở Hàng Châu, ở lâu tất sinh chuyện, gì thì gì cứ về Trường Sa trước rồi tính sau."

Anh thấy tôi lo lắng, lại an ủi: "Tôi vừa lên xe đã phát hiện ngay ra mấy người mặc thường phục, liền liên hệ với một người bạn, nhờ hắn gọi một chiếc xe bám sát theo tàu. Vừa nãy tàu tạm dừng, tôi thấy lái xe đánh tín hiệu, biết có cơ hội mới kéo cậu xuống theo. Nhìn tên lái xe kia dọc đường không nói một lời, xem ra cũng là quơ đại trên đường, trước mặt loại người này cậu không thể nói quá nhiều.

Có điều lũ cớm đó không truy bắt chúng ta chứng tỏ chúng ta cũng không liên quan nhiều đến chuyện ở Trường Sa, bên phía Trường Sa hẳn đã có vài tên đầu sỏ bị tóm, còn chúng ta chỉ là hạng tôm tép. Những việc cậu làm không liên quan đến chuyện lần này đâu nên cậu cũng chẳng việc gì phải sợ, cùng lắm mình chỉ dính vào tội tiêu thụ hàng cấm thôi."

Nghe thế tôi cũng nhẹ nhõm hơn chút ít, vừa định nói cám ơn trời đất, không ngờ anh lại tiếp: "Ở Trường Sa nếu xảy ra chuyện thì lần theo đống dây mơ rễ má, ông Ba nhất định không thoát khỏi liên can. Ông chủ bên kia lại không chịu nói cho rõ ràng, mẹ kiếp cũng không biết rốt cuộc là có chuyện gì nữa? Thật ra mấy năm nay chúng ta đã hạn chế hoạt động lắm rồi, hầu như chưa từng đích thân xuống đất, chuyện trước kia cũng không thể làm lớn tới mức này được, thật sự là không tài nào nghĩ ra."

"Vậy bây giờ anh tính sao?", tôi bèn dò hỏi, ai mà muốn bỏ mạng nơi đất khách chứ.

Phan Tử nói: "Chúng ta không thể đi thẳng một mạch đến Trường Sa được, ra khỏi Chiết Giang mình sẽ xuống xe rồi bắt xe buýt đường dài đến ngọn núi gần Trường Sa. Ông Ba có vài địa điểm thu mua đồ cổ ngoài đó, đến nơi sẽ có người đón, chờ một lúc ông chủ quỹ kia sẽ đến."

Tôi gật đầu, lúc này tàu hỏa lại dừng, bắt đầu đón thêm khách. Gian giường nằm của chúng tôi có thêm một người mới đến, Phan Tử nháy mắt ra hiệu, tôi lập tức nói lảng sang chuyện khác.

Tán dóc một hồi, tôi vô tình đề cập tới chuyện Trần Bì A Tứ. Danh tiếng ông ta vang dội khắp Trường Sa, Phan Tử cũng đã từng nghe, liền nói: "Người này cũng có công việc làm ăn riêng của mình, nghe nói sau khi bị mù lão không tự mình ra tay nữa. Sau cách mạng văn hóa, lão có thu mấy đồ đệ để giúp việc buôn bán đồ cổ với người ngoại quốc. Kẻ này rất nham hiểm, mấy tên đồ đệ đầu tiên theo lão hầu như đã bị xử bắn cả rồi mà lão còn thong dong tại ngoại, tin đồn về lão vô số, tốt nhất cứ nên giữ khoảng cách thì hơn."

Tôi nhớ đến dáng vẻ của Trần Bì A Tứ, rõ ràng trông không giống người mù, lại càng cảm thấy kỳ quái.

Chúng tôi dựa theo kế hoạch của Phan Tử, chật vật mấy lần cũng đến được vùng núi Phúc Thọ phụ cận Trường Sa, nơi đó quả nhiên tuyệt vời, phong cảnh dọc đường đẹp mê ly, Phan Tử sống ở đây mấy năm, nhìn mãi cũng thành quen. Chúng tôi vào chợ tạp hóa trên trấn, nhìn qua cứ như chỗ hội họp của mấy tay nằm vùng thời xưa, quẹo đông quẹo tây, cuối cùng đến một cửa hàng vừa nhìn là biết chả làm ăn gì được. Bề ngoài là một cửa hàng bán máy tính cũ, đẩy bức tường bên trong ra thì đến một gian nhỏ, vào sâu bên trong bắt đầu rộng rãi sáng sủa hơn, do hai gian mặt tiền của cửa hiệu dựa lưng vào nhau tạo nên một hành lang đủ rộng cho hai người đi song song, bên trên phủ vải che mưa, hai bên tường là hàng loạt giá trưng bày, trên giá đều là minh khí mới ra lò.

Có vài người đang đứng xem hàng, người quản lý nhận ra Phan Tử liền buông đồ trên tay chạy lại túm lấy anh mà hỏi: "Sao bây giờ mới đến? Mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, bao giờ các anh xuất phát?"

"Mọi thứ? Thứ gì cơ?", Phan Tử ngẩn người, vẻ mặt mù mờ.

Người kia cũng ngây ra: "Anh không biết gì sao?"

Phan Tử quay lại nhìn tôi, tôi trừng mắt nhìn lại, thầm nói ở trên địa bàn của anh mà anh nhìn tôi làm khỉ gì? Anh liền quay lại hỏi: "Chuẩn bị cái gì?"

Người kia trả lời: "Ông Ba bảo thu xếp trang bị cho năm người, có việc phải làm. Anh không biết sao?"

Chương 8: Đội hình mới

Phan Tử cau mày nói: "Sao tôi lại không biết gì hết? Ông Ba về rồi à? Ổng dặn lại lúc nào?"

Người nọ nhìn vẻ mặt của hai đứa chúng tôi, còn tưởng Phan Tử đang đùa với mình, nhún vai cười nói: "Bớt giả nai với tôi đi, đồ chuẩn bị cho anh hết mà anh không biết tí gì sao?"

Phan Tử phát cáu chửi một tiếng: "Tôi lừa cậu làm quái gì? Ông Ba nói sao, bảo thế từ lúc nào?"

Người kia ngắm nghía chúng tôi một lượt nữa mới hiểu ra chúng tôi thật sự không biết, cũng cảm thấy kỳ quặc, bèn nói: "Chi tiết chuyện này thế nào tôi không rõ, tôi cũng chỉ nghe ông Sở chủ quỹ tín dụng đen dặn lại thôi. Ông ấy đang ở ngay phía sau, các anh qua đó mà hỏi."

Phan Tử rầu rĩ rên lên một tiếng, dẫn tôi đi xuyên qua cái ngách nọ. Cuối ngách có cánh cửa sắt không khóa, đẩy cửa ra là thấy ngay một văn phòng bày biện sơ sài. Trong phòng, trên chiếc salon dành cho khách kê ở một bên, tôi thấy một gã trung niên đầu trọc mặt mũi bóng nhẫy đang ngồi hút thuốc. Thấy chúng tôi tiến vào, gã quăng điếu thuốc xuống đất, lấy chân di di rồi đứng lên.

Phan Tử lên tiếng chào hỏi, "Anh Sở", thái độ thoắt cái đã trở nên cung kính. Tôi lập tức ý thức được rằng đây nhất định là người được chú Ba tôi nhờ chuyển lời nhắn nhủ.

Gã quan sát Phan Tử rồi lại nhìn sang tôi, lên giọng: "Sao bây giờ mới đến, tôi đã chờ các chú hai ngày rồi đấy."

Phan Tử kể lại một lượt những chuyện trên đường, rồi không đợi gã phản ứng đã vội vàng hỏi luôn: "Anh Sở, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không lẽ chúng tôi lỡ tay chọc phải đám số má (*) rồi sao?"

(*) Tiếng lóng ch cnh sát.

Gã họ Sở đáp lại không nhanh không chậm: "Tạm thời đừng hoảng, không có chuyện gì đâu. Đây là ý của ông Ba nhà chú, ông ấy bảo anh nhả ra một ít tin tức về hoạt động mua bán từ mấy năm trước, kích động bọn số má một tý, giờ này ở tổ nhà nó (*) đã lập đội điều tra chuyên án rồi. Anh cũng không biết ông ấy có dụng ý gì, nhưng xem ra ông ấy đang bố trí chướng ngại để ngáng chân một bọn người khác."

(*) Ý ch s cnh sát.

"Một bọn người khác?"

"Đúng, chỉ vì một chiêu này mà giờ toàn bộ thị trường đồ cổ đều bị liên lụy. Phàm là người có quan hệ làm ăn với ông Ba nhà chú đều bị giám sát hết, vì thế kẻ nào không nhanh tay chuẩn bị từ trước thì bây giờ sẽ hoạt động cực kỳ khó khăn. Ông Ba nhà chú đang giúp các chú tranh thủ thời gian đó."

Tôi nhìn nhìn Phan Tử, xem ra anh cũng không hiểu lắm những lời gã đầu trọc này nói: "Thời gian gì cơ?"

Đầu trọc nhún vai, ý muốn nói chính gã cũng chẳng biết. "Chú Ba cậu lão luyện giang hồ rồi, chiêu thức của ông ấy tôi làm sao đoán nổi."

Phan Tử hỏi tiếp: "Vừa rồi tôi có nghe Cửu Tứ ở bên ngoài bảo cái gì mà trang bị đã sẵn sàng rồi, nói là do ngài bố trí, chuyện này là sao vậy?"

Gã họ Sở đáp: "Nãy anh nói rồi đấy, chỉ cần anh nhả tin tức ra một cái thì người làm nghề này muốn triển khai bất cứ hoạt động nào cũng cực kì khó khăn. Cho nên ông Ba nhà chú mới dặn anh trước khi tiết lộ thông tin phải làm xong xuôi mọi việc đã. Vì vậy anh phải mua sắm trang bị cho sớm, nếu giờ này mới đi thì dân chợ đen chẳng ai dám ra tay, đến một cái đầu xẻng cũng đừng hòng mua được."

Tôi hỏi: "Nhưng mấy thứ trang bị đó mua để làm gì? Chúng em có định đánh quả gì đâu?"

Gã họ Sở đáp: "Đây chính là nguyên nhân ông Ba nhờ tôi nhắn lại với cậu," ông ta bảo chúng tôi ngồi xuống, "Thật ra những trang bị này ban đầu không tính phần cậu đâu. Nói cách khác là ông ấy chuẩn bị năm phần trang bị, trong đó có một suất cho bản thân mình."

Gã ngắt quãng một chút rồi tiếp: "Có điều lúc ông ấy gọi điện thoại cho tôi cũng từng bảo, chuyện ông ấy làm không phải chỉ có mình ông ấy nhắm đến mà còn có kẻ khác tranh giành. Đối phương cũng không phải loại hết xí quách, cho nên nếu ông ấy không về được thì phần trang bị này cứ để cậu dùng. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc của ông ấy cậu cũng phải tiếp tục làm, không thể để cho bọn người kia qua mặt được."

Một nhóm người khác ư? Tôi đột nhiên nghĩ tới công ty của A Ninh. Lẽ nào những gì chú Ba sắp đặt cho bọn họ trong cái đấu dưới đáy biển đều vì nguyên nhân này?

Phan Tử cũng hỏi: "Ông Ba có nói bọn người khác kia là ai không?"

Đầu trọc lắc đầu, trả lời: "Không nói, nhưng anh nghĩ giờ này ông Ba dễ chừng đã lọt vào tay bọn chúng lắm, bằng không ông ấy đã sớm xuất hiện rồi. Chỉ tiếc hiện giờ chúng ta mù mờ không rõ chuyện gì cả, bằng không anh nghĩ dù đối phương có lai lịch hoành tráng hơn thì chúng ta cũng chưa đến nỗi rơi vào thế bí."

Tôi thầm than một tiếng 'ôi chao', tay đầu trọc lại tiếp: "Nơi các chú phải đến là rặng Hoành Sơn thuộc dãy Trường Bạch ở Cát Lâm. Địa điểm cụ thể chỉ đánh dấu bằng tọa độ, nhưng anh đã chuẩn bị người dẫn đường bản xứ để đưa các chú đi rồi."

Nói đến núi Trường Bạch, giai đoạn này toàn bộ ký ức liên quan đến núi Trường Bạch đối với chúng tôi chỉ có Vân Đỉnh Thiên Cung của Uông Tàng Hải. Không còn nghi ngờ gì nữa, đâu đó trong rặng núi Hoành Sơn hẳn phải là nơi đặt Vân Đỉnh Thiên Cung.

Nhưng tại sao tôi lại phải đến đó chứ? Vô duyên vô cớ mà tôi lại phải đến một nơi tôi không hề hiểu rõ, lại còn vào giữa mùa đông ư?

Gã đầu trọc thấy mặt mày tôi đã sắp xanh lét như tàu lá chuối thì đột nhiên thở dài: "Nói thật chính tôi cũng hoang mang lắm, nhưng tôi đã cân nhắc cẩn thận rồi. Con đường duy nhất các cậu có thể đi hiện giờ là bám theo kế hoạch ông Ba đã chuẩn bị sẵn, như thế mới có thể tìm được manh mối. Bằng không tôi e là chú Ba cậu không qua nổi ải này mất."

Phan Tử vỗ vỗ tôi, ngoảnh lại hỏi tiếp: "Vậy theo kế hoạch của ông Ba, bước tiếp theo chúng tôi phải làm sao đây?"

Gã đầu trọc đáp: "Các chú có tổng cộng năm người, đầu tiên hãy lên tàu hỏa đi Cát Lâm, hành lý chúng tôi sẽ có cách gửi qua bên kia, cơ bản là đã đến nơi hết rồi đó."

Tôi và Phan Tử đưa mắt nhìn nhau một cái. Cát Lâm, vậy xem ra không bò lên núi tuyết là không được rồi.

Gã đầu trọc nói mình sẽ phụ trách hết những vấn đề lặt vặt cho hành trình của chúng tôi, nên chúng tôi khỏi phải lo gì cả, chỉ cần vác xác đi thôi, trên đường nhớ chú ý đừng để bị cánh sát bám đuôi là được. Thời gian chuẩn bị sẽ rất gấp gáp, sau một đêm nghỉ lại ở Trường Sa, ngày mai sẽ đưa thẳng chúng tôi lên xe lửa, từ vé xe cho đến đồ dùng vệ sinh cá nhân đều được gói ghém chuẩn bị xong xuôi cả rồi. Kế hoạch chi tiết thế nào ba người kia đều biết rõ, có thắc mắc gì ngày mai cứ việc hỏi họ là được.

Năng lực tổ chức của gã đầu trọc này mạnh đến không ngờ. Chú Ba nhờ gã đến chuyển lời, kế hoạch đề ra lúc này e rằng đã được chuẩn bị trước một thời gian khá lâu rồi. Không biết rốt cuộc mục đích của gã là gì đây?

Chúng tôi lại hỏi thêm vài vấn đề, gã đầu trọc cũng chỉ biết một chứ chẳng biết hai. Có điều theo giọng điệu của gã có thể thấy sự sắp xếp của chú Ba thật sự là hoàn hảo không một kẽ hở, đây mới là lúc để người lão luyện thể hiện khả năng.

Theo đường cũ trở ra, tôi thấy cửa hàng bên ngoài có rất nhiều màn hình máy tính cũ được vận chuyển đến. Phan Tử nói cho tôi biết minh khí được giấu ở bên trong để vận chuyển đấy, đi qua các cửa khẩu cứ đóng vào như vậy là không tra ra nổi đâu. Chuyện vận chuyển trang bị của chúng tôi đến Cát Lâm mà tay đầu trọc kia nói, có lẽ cũng thông qua cách thức này.

Ở đây Phan Tử là dân anh chị địa phương, chập tối tôi cùng anh đi ăn món sủi cảo Trường Sa. Tôi đến Trường Sa không phải mới một hai lần, cũng không còn thấy lạ miệng ngon lành nữa. Chúng tôi vừa ăn vừa thảo luận tin tức hôm nay tay đầu trọc tuồn cho, Phan Tử ngẫm nghĩ nửa ngày rồi nói với tôi: "Cậu Ba, về chuyện cậu kể với tôi ấy, tôi đã nghĩ kĩ rồi. Cái công ty tài nguyên gì gì đó chuẩn bị cho các cậu đi Tây Sa kia có vẻ khả nghi lắm, mẹ kiếp cậu bảo cái bọn người khác mà ông Ba nói có khi nào chính là bọn họ không?"

Tôi đáp: "Tôi đã nghĩ thế từ đầu rồi, có điều tôi cảm thấy vấn đề không phải ở công ty đó, mà ở kẻ đứng sau lưng nó cơ. Chúng ta cũng đừng nghĩ nữa, dù sao đến bên kia rồi chúng ta không đi tìm bọn chúng, bọn chúng cũng sẽ tìm đến tận cửa. Mà cái gã họ Sở kia có thể tin được không đấy?"

Phan Tử bèn bảo: "Cậu Ba, cậu đừng xem Phan Tử tôi như thằng lính quèn, tôi nhìn người chuẩn lắm đấy, người này cậu cứ yên tâm tuyệt đối đi. Chẳng qua tôi vẫn còn lo, ông ta nói có năm người cùng đi, không biết ba người kia là hạng người gì."

Tôi an ủi: "Chú Ba sắp xếp thì sẽ không sao đâu."

Phan Tử lắc đầu: "Khó nói lắm, ông Ba thường nói nhìn người phải nhìn đủ 365 ngày, thiếu một ngày cũng không được. (Hả? Chú giống anh Điệp Y dữ vậy chú Ba :v :v :v ) Đã là người thì sẽ thay đổi, chỉ cần một tuần cậu không nhìn đến người ta, chưa biết chừng người ta đã tính kế hại cậu rồi đấy. Đặc biệt là mấy kẻ vô văn hóa trong đám đồng đạo của chúng ta, nói khó nghe một chút thì, mẹ kiếp mỗi tay lại chẳng nợ những mấy mạng người, tâm địa thì hung ác, đến mẹ ruột còn có thể đem chôn xuống đất. Ông Ba mất tích đã lâu, đám người làm ở đây đảm bảo đã thay lòng đổi dạ rồi."

Tôi bèn bảo anh yêu cầu cao quá cũng không đáp ứng nổi, chúng ta cứ được đến đâu hay đến đó thôi.

Buổi tối ngoài đường trời trở lạnh, ăn xong chúng tôi nhất trí về ngủ trong căn phòng Phan Tử ở lúc trước. Sáng sớm thức dậy ăn điểm tâm xong thì xe của gã đầu trọc cũng tới đón chúng tôi. Tôi đứng xa xa xốc hành lý cá nhân lên lưng, nhìn vào trong xe, phát hiện ra trên ghế đã có người ngồi.

Nhìn kĩ hơn thì thấy đó là một ông già, người này mặt mũi trông rất quen, hình như tôi đã gặp ở đâu đó rồi, hơn nữa còn mới gặp gần đây thôi.

Tôi cũng không hề để ý, vừa cười cười nói nói với Phan Tử vừa bước lại gần, tới nơi mới nhìn một cái đã muốn lịm cả người đi.

Ông già kia, cứ xem hình thể và bộ trang phục quái gở thì chẳng phải ai khác, mà chính là người tôi đã gặp tại quán trà của chú Hai ở Hàng Châu – Trần Bì A Tứ!

Tôi há hốc miệng, cổ gần như cứng ngắc, thầm hỏi ông ta ngồi trong xe làm gì? Không lẽ lão già này cũng là một trong năm người? Sao có thể vô lý đùng đùng vậy chứ?

Phan Tử lúc này cũng đã nhìn thấy, lúng búng một tiếng, mặt cũng không giấu được vẻ kinh ngạc.

Gã đầu trọc gọi chúng tôi, bảo đi nhanh lên, chúng tôi ù ù cạc cạc bước lên xe. Phan Tử có quen Trần Bì A Tứ, đánh tiếng bắt chuyện với lão. Lão già kia đang nhắm mắt nghỉ ngơi, chỉ khẽ gật đầu. Phan Tử lập tức chuyển hướng sang tay đầu trọc đang lái xe, nhe răng dùng khẩu hình hỏi gã sao lại thành thế này?

Gã đầu trọc cười cười ra vẻ bất đắc dĩ, dùng khẩu hình trả lời mình cũng không biết, chính ông Ba đã sắp xếp như vậy đấy.

Không thể nào, tôi thầm nhủ. Lão già chết bầm này chẳng phải là một lão mù sao, hơn nữa số tuổi còn lớn hơn cả tôi lẫn Phan Tử cộng lại. Chú Ba đang chơi cái trò mèo gì đây?

Chúng tôi tiến vào nhà ga với tâm trạng thấp thỏm không yên. Trong lòng tôi âm thầm suy tính, người đầu tiên chú Ba an bài cho chúng tôi lại là một lão già đã ngót trăm tuổi, vậy người thứ hai là hạng người gì thật khó đoán quá, chẳng có gì chắc chắn đó không phải một phụ nữ bụng chửa vượt mặt, hoặc là một kẻ tàn phế ngồi xe lăn. (trí tưởng tượng phong phú quá =)))

Không lẽ chú Ba lại muốn thử thách tấm lòng thơm thảo của chúng tôi sao?

May thay Trần Bì A Tứ thân thể vẫn còn rất cường tráng, chắp tay sau lưng bước xuống xe. Gã đầu trọc cư xử cực kỳ cung kính với ông ta, giúp ông ta mang hành lý. Để dễ bề ứng biến, chúng tôi vẫn chọn loại giường nằm hạng bét, một phòng ngủ được tới sáu người, vừa vặn còn một giường để đặt hành lý.

Tới phòng mình, tôi thò đầu vào trong ngó nghiêng, chưa chi đã trông thấy một gã béo đang gặm mỳ tôm. Nhìn thấy tôi, hắn nhướng mày kinh ngạc hỏi: "Má nó chứ, lại là cậu à?"

Tôi lập tức thấy đầu phát nhức lên... ruột gan cũng muốn rụng ra, trong lòng tự hỏi không biết chú Ba làm thế nào mà tìm được hắn, chẳng lẽ ổng vẫn giữ nguyên đội hình trước kia sao? Tôi lập tức chuyển hướng đến cái giường phía trên Bàn Tử, quả nhiên bắt gặp một đôi mắt hững hờ không có lấy nửa điểm xao động cũng đang nhìn lại tôi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Hũ Nút (*) nheo mắt ngó tôi một cái rồi lại quay đầu ngủ tiếp.

(*) *Chú gii ca beta* Tên chính thc ca anh là Bình Kín Ming, đ thun Vit hơn na, dân dã hơn na, t đây mình s dch ra là Hũ Nút.

Chương 9: Cửu Long Đài Thi

Tay đầu trọc bố trí cho chúng tôi đi theo tuyến đường du lịch, trước hết xuất phát từ Trường Sa đến Sơn Hải Quan, sau đó đổi tàu đi Đôn Hóa, cả hành trình đều ngồi tàu hỏa, tổng cộng mất khoảng hai ngày đường, vượt qua gần ba ngàn cây số. Trong khoảng thời gian này chúng tôi chẳng có việc gì để làm, chỉ biết giết thì giờ bằng một cái điện thoại di động và vài tờ tạp chí.

Tôi đưa chi phiếu bán viên Ngư nhãn thạch kia cho Bàn Tử, hắn liền nhìn tôi bằng con mắt hồ hởi. Thấy tâm trạng hắn khá tốt, tôi bèn vụng trộm hỏi xem vì sao hắn lại tới nơi này.

Bàn Tử bèn đáp, dấn thân vào cái nghiệp này rồi, có một số vụ không tụ tập nhau lại thì không thể làm được. Tỷ như có những đấu lớn nằm tít trong rừng xanh núi đỏ, một mình anh tuyệt đối xử lý không xong. Thứ nhất phải mang quá nhiều trang bị cần thiết, mỗi người có mỗi một cái lưng, cõng làm sao cho xuể. Thứ hai, hàng tốt nếu quá nhiều, anh một thân một mình cũng chẳng khuân hết được ra. Mà kết cấu trong những cổ mộ kiểu này thường cực kỳ hiểm ác, đổ một lần may mắn còn mạng trở ra là đã tốt lắm rồi, còn muốn mạo hiểm chui vào thêm hai ba lần nữa ư, chỉ e là không ai muốn. Cho nên nếu gặp những cái đấu như thế thì sẽ có một người đứng lên cầm đầu, thời xưa gọi là "Tróc đấu", còn thời Dân Quốc tiếng lóng trong nghề gọi là "gắp Lạt Ma".

Cái trò này giống với nghề làm thầu khoán bây giờ, nhận việc vào tay rồi tự mình tìm công nhân điện nước để làm. Hồi mới giải phóng các đội khảo cổ cũng dùng cách tương tự để chiêu mộ kỳ nhân dị sĩ.

Lần này người "gắp Lạt Ma" chính là đầu trọc. Gã đầu trọc kia quan hệ rất rộng, quen một người bạn của Bàn Tử làm cò đất(*) ở Bắc Kinh. Rất nhiều mối của Bàn Tử đều do người bạn làm cò đất này chắp nối cho, thế là dây mơ rễ má một hồi, Bàn Tử dính vào vụ này. Về phần tình hình cụ thể, theo như thông lệ, chưa đến nơi hành sự, người "gắp Lạt Ma" chưa cần phải lộ diện, bằng không lỡ để cho người ta biết sớm thì dễ dẫn tới đấu đá nội bộ. Vì thế nên khi tôi hỏi về tình hình của chú Ba, Bàn Tử lắc đầu quầy quậy, nói: "Con bà nó chứ, cậu còn hỏi tôi à? Bàn gia đây nếu biết vụ này có liên quan đến lão chú Ba chó má nhà cậu thì có chi đậm hơn nữa ông cũng éo làm đâu."

(Gp Lt Ma cm đu mt v đ đu ln, nhưng ko quen biết rng trong gii trm m, hoc quen biết rng, nhưng vn cn chiêu m nhiu kỳ nhân d sĩ hơn, thì tìm qua trung gian là th biu t (aka cò đt). Cò đt lăn ln lâu trong gii, quen biết rng, mt thng còquen được dăm chc thng cò khác, thng cò khác li quen đến dăm chc thng khác na, c thế, to thành mng lưới rng, có th d dàng vi được đến nhng kỳ nhân dnhng hang cũng ngõ hm hơn, chiêu m v cho cuc đ đu ln đy nguy him : D Nói chung, mun đi đ đu ln mà ko biết chiêu m ai sành đ đu, hãy tìm đến cò đt =))~)

Tôi thầm thở dài, tự nhủ tên Muộn Du Bình kia dĩ nhiên cũng là do gã đầu trọc liên hệ, xem ra sẽ chẳng hỏi han được gì nốt. Ở đây người hiểu rõ tình hình nhất, ngoại trừ tôi và Phan Tử, chắc cũng chỉ còn Trần Bì A Tứ mà thôi.

Muộn Du Bình trước sau như một vẫn lầm lầm lì lì, chẳng thèm chào hỏi tôi lấy một tiếng, cứ ở nguyên một chỗ mà ngủ gà ngủ gật. Tôi muốn ra vẻ ân cần mà tâm sự hàn huyên với hắn, nói được vài câu lại phát hiện hắn căn bản chẳng để vào tai. Bàn Tử bảo tôi đừng phí hơi nữa, từ lúc lên tàu hắn vẫn ngủ suốt như thế đấy.

Sau khi tàu chuyển bánh, tôi cùng với Bàn Tử và Phan Tử tụ lại một chỗ chơi spades (*), đánh bài giết thời gian. Tôi vừa chơi vừa suy xét về Trần Bì A Tứ. Lão già này sau khi lên xe vẫn chưa hé răng câu nào, Phan Tử sáp tới làm thân lão cũng chỉ "ừ" một tiếng, tàu vừa chạy là cứ thế chuồn ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở lại. Bàn Tử còn hỏi nhỏ tôi: "Lão già này là ai đấy, làm gì cứ như đang úp bài chờ ù thế?"

Phan Tử hạ giọng kể cho Bàn Tử ít chuyện về Trần Bì A Tứ. Bàn Tử nghe nói lão đã hơn chín chục cái xuân xanh thì mặt mũi xám ngoét: "Anh đừng bảo tôi là lão già ôn dịch này cũng đòi theo chúng ta lên núi đấy nhé. Nếu đúng là như thế thì đợi đến chỗ vắng vẻ tôi đưa lão đi tiêu hủy trước cho nhân đạo, đừng hòng đứa nào cản nổi. Dù sao để lão đi vào thì cũng chỉ có đường chết thôi."

Phan Tử vội vàng bịt miệng hắn lại, nói nhỏ: "Mẹ kiếp anh bơn bớt lời đi. Lão khọm kia tinh lắm đấy, để lão nghe thấy thì còn chưa đến nơi lão đã cho anh tiêu đời rồi."

Tôi nhớ lại chút ít về Trần Bì A Tứ. Lúc trong quán trà lão tạo cho tôi cảm giác như một bậc thầy cao thâm khó lường về văn hóa quốc gia, có một đám người phải trái vây quanh. Với thế lực và tài nghệ của hạng người này, hơn nữa tuổi đã kề miệng hố, sao lại một thân một mình đi "gắp Lạt Ma"? Không sợ bị chúng tôi hại sao?

Tôi nhắc chuyện này với Phan Tử thì hắn cười nói: "Cậu lại không hiểu rồi. Chúng ta hiện tại đều là Lạt Ma do ông Ba gắp tới, cho dù là chú tiểu hay sư trụ trì thì cũng phải để ông Ba gắp hết, đây là luật giang hồ. Lão muốn húp chung chén canh này thì phải làm theo luật, với địa vị của lão đại để là không còn cách nào khác." Anh ngẫm nghĩ rồi lại nói tiếp: "Có điều chúng ta vẫn phải cẩn thận với lão già này. Ngoài mặt thì lão chỉ có một mình, kỳ thật hạng người như lão đảm bảo là đã cài cắm bè đảng tứ phía rồi."

Bàn Tử nghe xong liền chửi: "Bố đếch hiểu nổi nữa, ông Ba nhà các anh gọi loại người như thế ra làm cái gì? Chẳng phải không dưng rước lo vào người sao? Nếu kẻ này đã tai quái như vậy, tôi thấy chúng ta nên tiên hạ thủ vi cường, hoặc trói lại hoặc là xử phắt luôn."

Phan Tử mắt nhìn cánh cửa, miệng nói: "Tôi cảnh cáo anh không được làm bậy đâu đấy. Ông Ba kéo người này đến nhất định là có dụng ý, chúng ta cũng phải nể mặt lão. Dù sao lão cũng kề miệng hố rồi, hồi trẻ có lợi hại mấy cũng chẳng ăn thua, đến lúc đó nếu thật sự muốn —- ui da!"

Anh còn chưa dứt lời, cánh tay của Muộn Du Bình đã bất thình lình thò xuống từ giường trên, tóm lấy bả vai Phan Tử. Hắn dùng sức rõ mạnh, bóp chặt đến nỗi anh ta suýt nữa đã kêu lên.

Phan Tử đau đến nghiến răng, nửa câu sau cùng chưa kịp nói ra. Chúng tôi đều sững lại một giây, Phan Tử vốn chẳng có cái thiện cảm chết tiệt gì với Muộn Du Bình, vừa định cự nự thì cửa đã kêu đánh kẹt một tiếng, Trần Bì A Tứ lừng lững bước vào.

Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau, vội cúi đầu tiếp tục chơi bài, cứ như hồi đi học bị bắt quả tang quay cóp trong phòng thi.

Lão già ngó qua chúng tôi, cũng chẳng buồn mở miệng, lẳng lặng leo lên giường mình, không biết có ngủ hay không.

Có lão ở đây, chúng tôi cũng không dám bàn bạc chuyện gì nữa, đành phải tập trung đánh bài. Thời gian cứ chầm chậm trôi, gần nửa đêm hôm sau tàu của chúng tôi cập ga Sơn Hải Quan.

Sơn Hải Quan là thiên hạ đệ nhất quan (*), có điều cũng chỉ là cảnh quan nhân tạo, phần lớn được trùng tu vào năm 1986. Chuyến tàu chúng tôi phải chuyển sang còn hai giờ nữa mới vào ga, Bàn Tử hỏi có muốn đi thăm quan không, tôi bèn bảo đã nửa đêm về sáng rồi, trời lại chẳng có trăng, xem cái con khỉ biển ấy. Vì vậy mấy người chúng tôi hòa vào đám đông người tứ xứ cũng đổi tàu như mình, đi về phía phòng chờ của nhà ga.

(Sơn Hi Quan đây là mt ca i chính ca Vn Lý Trường Thành, đã được xếp hng di tích lch s bc nht. Ca i này trước đây trn gia Trung Nguyên và vùng đt ca các dân tc du mc như Khiết Đan, N Chân, Mãn Châu. Hin nay nó là mt thng cnh thuc qun Sơn Hi Quan, tnh Hà Bc – theo )

Bữa nay lại đúng vào đêm trước ngày dân tình lũ lượt kéo về quê ăn Tết, người đã đông lắm rồi, bên trong nhà ga bốc mùi khó ngửi, đủ mọi loại người ở lại qua đêm, có kẻ còn cuốn chăn ngủ trên mặt đất. Chúng tôi nhón chân theo dòng người tiến vào, chỉ sợ dẫm phải người ta.

Người quá đông, đi lại lộn xộn, chẳng mấy chốc mấy người chúng tôi đã rã đám. Muộn Du Bình và Trần Bì A Tứ đứng cách chúng tôi khá xa, Bàn Tử bị mấy người dẫm chân, đứng tại chỗ chửi bới. Tôi đang định bảo bọn họ chớ để bị phân tán, giơ tay lên cho họ nhìn thấy vị trí của tôi thì đã bị Phan Tử níu lại, kéo tôi ngồi thụp xuống.

Tôi còn lơ ngơ chưa hiểu, chợt nghe anh nói: "Có cớm đấy, chú ý một chút."

Nghe vậy tôi vội vàng ngồi bừa xuống đất, trái phải cơ man là người. Tôi liếc qua khóe mắt xem thử thì thấy ngoài cửa lớn có mấy tay cảnh sát mặc đồng phục đang tra xét giấy tờ cùng vài gã dân phòng.

Tôi cúi đầu nói nhỏ bằng tiếng Hàng Châu với Phan Tử: "Có sao đâu, ở Hàng Châu cũng thường xuyên như thế, kiểm tra giấy tờ thôi mà. Chúng ta chẳng mang vũ khí trên người, cũng không bị truy nã, có gì phải sợ?"

Phan Tử hất hàm về phía mấy gã đàn ông mặt mũi bình thường trong đám người, nói: "Đó mới chỉ là bọn gác cửa thôi, lũ mặc thường phục núp trong đám đông mới đang tìm người. Cúi đầu xuống, đừng để chúng nó nhận ra."

Tôi lập tức ngẩng đầu lên nhanh như chớp, liếc qua một cái. Giữa mấy tên kia hình như còn kẹp một kẻ trông khá quen mặt. Kẻ đó nhìn quanh quất về phía chúng tôi. Tôi còn định quan sát cẩn thận hơn thì hắn đã giãy nảy lên, chỉ thẳng vào tôi hét lớn: "Kia kìa!"

Thấy trên tay người kia còn mang còng, ruột gan tôi bỗng rớt bộp xuống. Nhìn kỹ lại người nọ, cái đệt, chẳng phải là Sở đầu trọc sao? Mới có hai ngày không gặp, sao đã thành chỉ điểm cho cớm rồi?!

"Mẹ, dẫn dẫn cái kít!" Phan Tử chửi toáng lên, kéo tôi bật dậy bỏ chạy, một đám cớm chìm đằng sau dồn sức đuổi theo hô lớn: "Đứng lại!"

Chúng tôi bổ nháo bổ nhào trèo qua mấy hàng ghế, cố sức rẽ đám người mà chạy. Phan Tử xô đẩy tiến thẳng một đường, người ta đều nhốn nháo dạt sang hai bên, nhưng đến phiên tôi thì nhoáng cái đã bị những người đó bao vây lại. Tôi âm thầm gào thét trong lòng, cái khỉ biển gì thế này, bộ trông tôi dễ bắt nạt đến thế sao? ( h h h li còn phi hi cơ đy –3–)

Ngó thấy phía trước mình đã bị vây kín, đám cớm đằng sau cũng sắp đuổi tới nơi, bất thình lình tôi nghe đánh 'rốp' một cái, bóng đèn neon trên trần sảnh đợi đột nhiên vỡ vụn, mọi người hốt hoảng nhảy dựng lên, ngay sau đó lại 'rốp' một tiếng vỡ thêm chiếc nữa. Tôi thừa cơ khom lưng luồn qua giữa hai người, luồn tới lách lui trong đám đông, tính đường chen ra cửa lớn.

Bất thình lình, tôi bị một người giữ lại kéo sang bên, nhìn kĩ thì hóa ra là Phan Tử. Anh hất đầu một cái, ý bảo chúng tôi hãy chuồn ra phía đường ray.

Đèn neon trên đầu rốp rốp rốp liên tục vỡ nát, phòng chờ càng lúc càng tối, vụn thủy tinh rơi thẳng xuống đầu. Trong chốc lát tiếng người ồn ào, tiếng trẻ con gào khóc, tiếng kêu la sợ hãi xoắn vào nhau thành một mớ hỗn loạn. Rất nhiều người chen chúc ra cửa, chúng tôi cũng theo dòng người luồn ra.

Từ xa tôi đã trông thấy Bàn Tử vẫy tay ra hiệu với chúng tôi. Tôi lại gần hắn, vừa định hỏi Muộn Du Bình đâu rồi thì tên kia đã thình lình xuất hiện như oan hồn. Bàn Tử hỏi Phan Tử: "Cái đũa gắp Lạt Ma nhà anh bị cớm bẻ gẫy rồi, giờ phải tính sao?"

Phan Tử chửi một tiếng: "Đồ chó đẻ đốn mạt, chưa gì đã bán đứng chúng ta, người thời nay mẹ kiếp đúng là đéo tin được đứa nào, có dịp tôi phải đập chết gã mới được!"

Bàn Tử hỏi tiếp: "Giờ hăng máu cũng có ích gì? Anh nói xem, giờ ta tính sao đây?"

Phan Tử gãi đầu, anh cũng chẳng biết giờ phải làm sao mới ổn, lại nhìn về phía tôi. Tôi vừa định mở miệng oán thán thì Muộn Du Bình đã vỗ vai chúng tôi một cái rồi lên tiếng: "Đi theo lão già đó."

Chúng tôi nhìn theo ánh mắt hắn, thấy Trần Bì A Tứ đang đứng cách đó không xa nhìn chúng tôi, bên cạnh lão còn có mấy gã trung niên chẳng biết chui từ đâu ra.

Muộn Du Bình lập tức tiến về phía lão. Bấy giờ chúng tôi cũng chẳng còn cách nào mà bàn bạc nữa, đành phải bấm bụng qua đó cùng hắn. Trần Bì A Tứ thấy chúng tôi đi tới, bèn ra dấu cho mấy người bên cạnh. Những người kia thoắt cái lại tản ra, trà trộn trong đám đông, bản thân lão cũng quay đầu lẩn vào giữa đoàn người.

Chúng tôi nhờ đám đông che chắn, rốt cuộc cũng trốn khỏi ga Sơn Hải Quan, mò mẫm đến được một xó trong công viên. Chúng tôi dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt ai nấy đều bất ổn. Trận này thật đúng là xuất quân bất lợi, cứ ngỡ dựa theo kế hoạch của tay đầu trọc là cả đám có thể đến đích mà khỏi phải động não. Chẳng ngờ còn chưa đến hai ngày, gã đầu trọc thế mà đã bị bắt, đã thế còn đích thân dẫn đường cho cớm đến tóm cả bọn. Tình nghĩa thì như thế, còn đi lại suốt ba mươi năm trời, xem ra con mắt nhìn người của chú Ba cũng chẳng có gì hơn người ta.

Chúng tôi ngồi xổm trong bụi cỏ nghỉ ngơi một lát. Trần Bì A Tứ nhìn chúng tôi chòng chọc, đột ngột cất lên một tiếng cười lạnh, nói bằng cái cổ họng khản đặc: "Dựa vào mấy đứa chúng bay mà muốn đi đào Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ ấy hả? Ngô Tam Tỉnh già quá hóa lú rồi sao?"

Chương 10: Thôn Doanh Sơn

Trong lòng chúng tôi vốn đã khó chịu, tự dưng bị mắng một câu như vậy lại càng thêm bực bội. Bàn Tử 'Hừ!' một tiếng, chửi ầm lên: "Lão già, ông nói thế là sai rồi, chuyện này liên quan quái gì đến chúng tôi, rõ ràng là mắt nhìn người của cái ông Ba gì gì kia có vấn đề, mẹ kiếp việc này sao có thể trách chúng tôi? Ông đây lăn lộn giang hồ bao lâu, đây là lần đầu tiên bị cớm đuổi cho cong mông lên chạy thế này, thật là tức chết đi được."

Tôi thấy hắn nói có phần quá đáng bèn chạy tới can, nháy mắt ra hiệu. Phan Tử không thích người khác nói xấu chú Ba, một hai câu còn có thể nhẫn nhịn bỏ qua, tốt nhất không nên nói thêm nữa kẻo xảy ra đánh lộn.

Bàn Tử coi như cũng nể mặt tôi, bèn ngậm miệng lại, rít một điếu thuốc lá rồi hậm hực thổi phù một làn khói. Phan Tử quay sang hỏi Trần Bì A Tứ: "Cụ Trần à, chúng ta trước đây kể như đã từng qua lại, giờ cũng không phải lúc phê bình chúng tôi. Ở đây ngài là trưởng bối, bây giờ chiếc đũa gắp Lạt Ma đã gãy, ngài nói xem nên làm gì mới phải? Chúng tôi sẽ nghe theo ngài cả."

Bàn Tử trừng mắt, xem chừng lại muốn gào lên: Tại sao phải nghe theo lão ta? Tôi biết Phan Tử hẳn đã có kế hoạch nên ra hiệu cho hắn đừng có nói gì cả, vội vàng kéo Bàn Tử lại, vỗ vỗ lưng kêu hắn bình tĩnh.

Trần Bì A Tứ nheo mắt quan sát Phan Tử một lượt, im lặng hồi lâu rồi cất tiếng: "Xem ra ngươi cũng biết chút phép tắc, thôi thì ta sẽ chỉ bảo cho tụi bay vài câu. Giờ không thể đi tàu hỏa được, ta đã sắp xếp một chiếc xe khác, nếu muốn tới nơi thì đợi lát nữa theo ta lên xe, còn nếu không chịu thì ai đến từ đâu tự động mà cút về chỗ đó! Nhưng ta nói trước với tụi bay, lần này đi tới nơi đó không phải chuyện đơn giản đâu. Trước kia Ngô Tam Tỉnh đến tìm ta, chính là muốn lão gia ta dạy dỗ tụi bay. Trên đời này, ngoại trừ ta, chỉ e không còn người thứ hai có thể đi vào vùng đất kia nữa."

Bàn Tử cười khẩy, "Xí! Lão già kia đừng có dọa rồ nhau, trên đời này còn có thứ gì Bàn gia ta chưa từng thấy? Nói cho lão biết, mấy người bọn ta từng lên trời hái trăng, xuống biển bắt rùa, đến bô nước tiểu của Ngọc Hoàng đại đế chúng ta cũng từng đi đổ, không phải chỉ là một cỗ Cửu Long đài thi quan thôi sao, có gì ghê gớm chứ? Ông đây hồi trước chỉ cần vỗ một cái là bánh tông trong quan tài cũng phải nhảy ra. Còn người này, ông có biết cậu ta là ai không? Chính là cháu nội của Trường Sa Cẩu vương, nhớ hồi còn ở Sơn Đông..."

Tôi vội vã véo Bàn Tử một cái, cười xòa nói: "Ngài đừng nghe hắn nói linh tinh, người này nói một câu thì nửa câu đáng quẳng vào nhà xí rồi."

Trần Bì A Tứ quay sang nhìn tôi rồi nói: "Ngươi không cần phủ nhận, ta đã biết ngươi là cháu nội Ngô Lão Cẩu rồi. Rượu mừng đầy tháng của cha ngươi ta đã từng uống rồi, tính ra ngươi cũng nên gọi ta một tiếng ông mới phải."

Ngô Lão Cẩu là danh xưng thân mật mà người trong nghề gọi ông nội tôi, ông có kể với tôi mình từng qua lại với người này, quả nhiên là không sai.

Tôi vội vã gật đầu, ngàn vạn thứ có thể đâm thông, mỗi mông ngựa là vững như tường đồng (), nghĩ thế bèn kêu một tiếng: "Ông Tư."

(1) Nguyên văn: Thiên xuyên vn xuyên mã thí bt xuyên. Mã thí đây nghĩa là mông nga, trong cm t "vut mông nga", ám ch chiêu nnh hót ly lòng. C câu trên có nghĩa là ngàn vn cách có th tht bi, ch nnh b luôn luôn là vô đch, vì ai mà ch thích nghe nnh hót ="))))))

Trần Bì A Tứ nghe thế bèn cười một tiếng cổ quái, cũng không biết có ẩn ý gì. Phan Tử hỏi: "Cụ Trần, bây giờ chúng ta làm gì đây? Tìm một chỗ nghỉ chân trước, hay là..."

Chưa dứt lời thì từ xa đã truyền đến hai tiếng còi ô tô một dài một ngắn, Trần Bì A Tứ nói: "Xe của ta đến rồi, muốn đi hay về các ngươi tự mình cân nhắc cho kĩ. Nếu muốn lên núi thì hãy theo ta lên xe." Nói xong liền đứng thẳng dậy, bước về phía tiếng còi ô tô vang lên inh ỏi.

Chúng tôi cũng chưa vội đi theo ngay, chờ lão ta đi xa mới quay sang nhìn nhau. Phan Tử nhỏ giọng: "Lão khọm này đã sớm chuẩn bị sẵn cứ như biết trước chúng ta ở đây ắt gặp rắc rối, tôi dám khảng định chính lão bán đứng gã đầu trọc kia. Hiện giờ người tiếp ứng bên Đôn Hóa chắc chắn đã không còn nữa, cũng đừng trông mong trang bị sớm được mang đến, muốn nắm rõ tình hình bây giờ thì mẹ kiếp chúng ta kiểu gì cũng phải đi theo lão. Chiêu này của lão thật hiểm, nhưng bất luận thế nào, chuyện ông Ba dặn dò tôi nhất định phải làm cho xong. Các người có đi hay không thì tự mình quyết định." Phan Tử nói rồi lập tức đứng lên, đuổi theo Trần Bì A Tứ.

Muộn Du Bình liếc tôi và Bàn Tử một cái, rồi cũng đứng lên đi theo Phan Tử.

Phút chốc chỉ còn lại tôi với Bàn Tử. Tôi nhìn Bàn Tử, Bàn Tử cũng nhìn lại tôi, cuối cùng Bàn Tử cất tiếng: "Phải rồi, Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ mà lão ta vừa nhắc đến là cái gì vậy?" Tôi lắc đầu, đáp: "Tôi cũng không biết." Bàn Tử miết chặt điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói: " Vậy chi bằng chúng ta đuổi theo rồi hỏi lão cho rõ nhỉ?" Tôi bật cười một tiếng, gật đầu, rồi hai người cùng đứng lên nối gót Phan Tử và Muộn Du Bình.

Đám người trung niên đi theo Trần Bì A Tứ mà chúng tôi gặp ở nhà ga quả nhiên là tay chân lão ta đã cài cắm sẵn từ trước, thu xếp xe cũng chính là bọn họ. Một chiếc xe tải Giải Phóng chạy tới đón chúng tôi, cả đám leo vào thùng xe, bên ngoài chồng hàng hóa lên ngụy trang. Xe đi một mạch đến Sơn Hải Quan, lên tỉnh lộ, thẳng hướng Nhị Đạo Bạch Hà. ()

(2) Nh Đo Bch Hà: khu vực nm ở ven rìa phía nam khu tự trị An Đ của người dân tộc Triu Tiên, ngay dưới chân dãy núi Trường Bạch, giáp ranh vi c nước Triu Tiên lẫn thành ph Đôn Hóa. Triu Tiên ở đây là dân tộc thiểu s sinh sng ở các tnh Hc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh.

Trên đường đi tôi ngủ mê man không biết trời trăng gì, khi tỉnh lại đã là giữa trưa ngày hôm sau. Ô tô không tiện lợi như tàu hỏa, mới đi được hơn nửa ngày lộ trình mà nhiệt độ nơi này đã thấp hơn Hàng Châu rất nhiều. Mặc dù thùng xe có mui bằng vải buồm che chắn nhưng gió vẫn luồn vào trong, khiến tôi lạnh phát run. Trần Bì A Tứ quấn mình trong chiếc áo bành tô quân đội, có mấy lần vô ý lộ ra dáng vẻ của một cụ già, nhưng biểu cảm này chớp mắt đã biến mất. Trong lòng tôi thầm than, quả nhiên cũng đã có tuổi rồi, không biết một lão già đã ở tuổi tri thiên mệnh (*) như thế còn có mưu đồ gì nữa.

(Cái này chc nhiu người biết nhưng c chú thích cho chc. Lun Ng có câu "Tam thp nhi lp, t thp nhi bt hoc, ngũ thp nhi tri thiên mnh", ng đã chín mươi nhưng mà người xưa chết sm, Lun Ng ch viết đến tui năm mươi nên tri thiên mnh coi như là già lm ri.)

Chúng tôi cùng nhau bàn bạc cách leo núi, theo như tin tức mà Trần Bì A Tứ nhận được từ gã đầu trọc thì đến Đôn Hóa rồi chúng tôi sẽ đi ô tô hướng về Nhị Đạo Bạch Hà, ở đó sẽ có dân bản địa dẫn đường cùng với trang bị đã chuẩn bị sẵn. Sau đấy chúng tôi lại tìm đến một thôn nhỏ nằm kế bên Lật Tử Câu, đến đó gã sẽ nói cho chúng tôi biết mục đích chuyến đi rồi dẫn đường cho chúng tôi tìm tới mục tiêu, còn sau đó tìm kiếm thế nào, xuất nhập ra sao lại là việc của chúng tôi.

Hiện giờ chúng tôi chắc chắn không thể đến Lật Tử Câu bởi cớm rất có thể đã đặt chốt ở đó, hơn nữa nơi đó cũng rất gần Nhị Đạo Bạch Hà. Chúng tôi nhìn nhau, quyết định không ghé qua Lật Tử Câu nữa mà đi thẳng vào. Mé trong còn có mấy thôn, phải đi đến hết đường mới thôi.

Chúng tôi không rõ gã đầu trọc rốt cuộc biết được bao nhiêu thông tin về vị trí của thiên cung, giờ gã không có ở đây, mọi việc tự nhiên cũng khó khăn hơn nhiều. Dãy Trường Bạch rất đồ sộ, lại có một phần nằm trong lãnh thổ Triều Tiên, nếu phải lần mò từng tấc một e rằng không khả thi. Nhưng chúng tôi suy đoán, nếu kế hoạch cũ là tới Lật Tử Câu thì đích đến tất nhiên phải ở quanh đó. Chúng tôi trở ra theo con đường cũ, đầu tiên là tới mấy sơn thôn gần đó dò đường, tiện thể hỏi thăm tin tức, hẳn sẽ có thu hoạch.

Mọi chuyện cứ theo kế hoạch mà tiến hành. Cuối cùng khi tới Nhị Đạo Bạch Hà, người của Trần Bì A Tứ bắt đầu giở trang bị ra. Tôi nghĩ bây giờ trên khắp cả nước đều kiểm tra gắt gao, mấy người này sao lại thần thông quảng đại như vậy chứ. Nào ngờ mở ra thì xém ngất xỉu luôn, nghĩ bụng đây là trang bị cái khỉ biển gì chứ, không xẻng không súng ống, nhìn lại xem thứ gì chiếm chỗ nhất thì ra là mấy hộp băng vệ sinh Whisper, ngoài ra còn có dây thừng, mấy đồ linh tinh, sô cô la, một túi to toàn ớt, chậu rửa mặt... toàn là mấy vật dụng sinh hoạt hàng ngày.

Bàn Tử thắc mắc sao lại thế này, không lẽ chúng ta đang đi phát vật dụng bảo hộ lao động cho phụ nữ hay sao. Trần Bì A Tứ chỉ đáp khi nào cần dùng đến tự dưng ngươi sẽ biết những thứ này để làm gì.

Bốn ngày sau, chúng tôi tiến vào khu rừng trong núi Hoành Sơn để đến thôn Doanh Sơn. Xe tải đi được vào đây đúng là kì tích, có vài đoạn cách mép đường chừng ba mươi phân thôi là vực sâu vạn trượng, chỉ cần lái xe sơ sẩy một chút là cả đám chúng tôi thịt nát xương tan ngay. Đến nơi rồi, hỏi dân bản xứ mới biết nơi này ngày trước từng có một trạm gác của biên phòng, về sau mới bị bỏ. Vậy nên đường mới được làm tới chỗ này, bằng không chỉ có cách dùng xe trượt tuyết mới vào được đây. Cũng vì có con đường mòn nên nơi này thỉnh thoảng lại có vài du khách đi phượt, người dân trong thôn cũng quen với việc có người nơi khác thường xuyên lui tới.

Cùng theo chúng tôi tới đây có thêm ba người của Trần Bì A Tứ. Một người tên Lang Phong, chính là lái xe; một người cao to đeo kính gọi là Hoa hòa thượng(*), có điều trên người toàn sẹo từ những vết đao chém. Ngoài ra còn có một người hơn ba mươi, có vẻ nhỏ tuổi nhất, trên đường đi cứ huyên thuyên không ngừng, tên là Diệp Thành.

(Hoa hòa thượng L Trí Thâm là mt nhân vt trong truyn Thy H. Người này hình xăm v kín người nên có bit danh là Hoa hòa thượng. Còn anh Hoa hòa thượng trong này người cũng chi chít hoa văn, nhưng là hoa văn t so đao chém =")) )

Chúng tôi xuống xe, nhìn khắp bốn phương đều là núi tuyết. Tôi âm thầm tìm kiếm cảnh núi tương tự với bức tranh trong ngôi mộ dưới đáy biển mà tôi còn lưu trong trí nhớ, nhưng rõ ràng nơi tôi đứng không chuẩn, nhìn ngọn núi tuyết nào cũng thấy từa tựa nhau cả.

Trần Bì A Tứ nói tầm long thì dễ, điểm huyệt mới là khó. Trong "Táng kinh" cũng nói, ba năm tầm long mười năm điểm huyệt, xác định một long mạch phải mất tối thiểu ba năm nhưng muốn tìm bảo nhãn phải mất đến mười năm. Đây là một quá trình cực kì chặt chẽ, nếu chúng tôi đã biết đầu rồng ở Hoành Sơn thì chỉ cần đi vào trong núi là tự nhiên sẽ tìm ra vị trí của bảo nhãn. Vấn đề là làm sao vào được trong núi? Vùng này không giống như những nơi khác, núi tuyết rất cao, bình thường thợ săn sẽ không đặt chân tới nơi này, người đào sâm cũng không thể leo đến đỉnh núi tuyết, muốn tìm một người dẫn đường e rằng không dễ.

Trong thôn không có nhà khách, không tìm được chỗ nghỉ chân chúng tôi đành phải tới gõ cửa ủy ban thôn. Bí thư chi bộ của thôn rất nhiệt tình, cho chúng tôi ở tạm gian nhà của người gác rừng đang bỏ trống. Chúng tôi thu xếp trả tiền nong đầy đủ, ở lại trong thôn vài ngày, thuê mấy con ngựa tốt. Sau nhiều lần vất vả, cuối cùng cũng tìm được ở địa phương một người Triều Tiên là lính xuất ngũ tên Thuận Tử đồng ý dẫn đường.

Người này cho hay, người bình thường sẽ không bao giờ lên núi tuyết bởi vì gió tuyết khôn lường, đường đi mỗi ngày một khác, hơn nữa lên đó cũng chẳng có gì hay, chỉ có bọn họ từng ở trong quân ngũ, những lúc đi tuần tra bắt buộc phải lên. Vài ngọn núi quanh đây hắn đều biết đường lên, cho nên nếu chúng tôi thực sự muốn đi thì hắn có thể dẫn đường, nhưng khi tiến vào vùng đất phủ tuyết phải tuyệt đối nghe lời hắn.

Chúng tôi thương lượng giá cả hợp lí, cuối cùng cũng thỏa thuận xong. Sau đó cả đám chỉnh đốn lại trang bị, mua thêm một đống đồ theo như yêu cầu của Thuận Tử, thế rồi đoàn chúng tôi chín người cùng mười bốn con ngựa lũ lượt tiến sâu vào trong khu rừng.

Phong cảnh trên núi Trường Bạch rất đẹp, qua mỗi đoạn đưa mắt nhìn lại đều thấy cảnh quan biến đổi. Núi cao khiến lòng người lãnh đạm, chúng tôi cũng không để ý nhiều đến cảnh sắc rừng rậm bốn bề bởi tất cả tinh lực đều tập trung để giữ cho mình không ngã xuống khỏi lưng ngựa, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn khung cảnh hùng vĩ của vòm trời và ngọn núi vẫn khiến người ta trào dâng những cảm xúc khó tả.

Núi Trường Bạch đã từng là núi lửa nên có rất nhiều suối nước nóng và hồ núi lửa nhỏ. Từ thôn Doanh Sơn tiến vào rừng, dọc theo con đường núi của công nhân, đi lên bốn giờ sẽ đến hồ A Cái Tây, người Triều Tiên gọi nó là hồ "Cô Nương". Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng, soi bóng cả dãy núi Trường Bạch xuống làn nước trong như gương.

Để Thuận Tử nghĩ chúng tôi là khách du lịch, đoàn cũng dừng lại bên hồ chụp ảnh, sau đó mới tiếp tục xuất phát. Đoạn đường chúng tôi vừa đi là phần chân dãy núi, càng đi vào sâu núi càng thêm dốc. Cuối cùng chúng tôi phát hiện mình đang đi trên sườn núi dốc 60 độ, cây cối ở nơi này đều thẳng tắp nhưng mặt đất lại nghiêng, mỗi bước đi đều vô cùng mạo hiểm. Thuận Tử nói cho chúng tôi biết tít trên đó vẫn còn một thôn bỏ hoang, chính là nơi đặt trạm gác biên phòng. Thôn này bây giờ không có người ở, đêm đầu tiên chúng tôi sẽ nghỉ chân ở đó, đến ngày mai đoàn sẽ qua vùng đất tuyết phủ.

Lúc này, hồ A Cái Tây đã nằm dưới chân chúng tôi, đứng từ trên nhìn xuống, mặt hồ ban nãy mênh mang là thế mà giờ đây trông chỉ như một cái ao nhỏ. Đúng lúc này, chúng tôi phát hiện ra còn một đoàn ngựa thồ khác xuất hiện ở ven hồ, nhân số vượt xa đoàn mình rất nhiều.

Mọi người đều cảm thấy bất ngờ, Bàn Tử lấy ống nhòm ra, nhìn xuống phía dưới rồi đưa cho chúng tôi, nói: "Chúng ta gặp phiền phức rồi đây."

Chương 11: Cảnh khốn đốn

Tôi vừa thúc ngựa tiến lên, vừa nhìn theo hướng Bàn Tử chỉ. Xuyên qua đám cây cối lưa thưa tôi thấy ven hồ có khoảng ba mươi người và hơn năm mươi ngựa đang tụ tập rất đông vui, là một đoàn ngựa thồ rất lớn. Những người đó đang dựng trại ven hồ, có vẻ muốn nghỉ chân qua đêm ngay bên bờ hồ này. Trong đám người có một cô gái đang mở thứ gì đó giống như rada ra điều chỉnh thử. Tôi nhìn qua ống nhòm, nhận ra cô gái kia không phải ai khác, mà chính là A Ninh ở Hải Nam.

Tôi chửi thề một tiếng, cô ả cũng đến nơi này chứng tỏ những gì chúng tôi suy đoán đều đúng. Người dây dưa với chú Ba chỉ e đúng là họ, không biết công ty mò thuyền vét bùn này đi vào đất liền làm gì.

Hoa hòa thượng thấy đoàn ngựa thồ dưới núi, sắc mặt liền thay đổi, nhỏ giọng hỏi Trần Bì A Tứ phải làm sao bây giờ.

Trần Bì A Tứ liếc mắt một cái, cười khinh khỉnh: "Tới đúng lúc lắm, chứng tỏ chúng ta không đi nhầm đường. Cứ tiếp tục đi thôi, mặc xác bọn chúng."

Tôi lấy ống nhòm nhìn kĩ từng người một nhưng không thấy chú Ba đâu cả. Có điều nếu chú Ba rơi vào tay bọn họ, e là sẽ không dược tự do đi lại, có khi nào đang bị nhốt trong mấy cái lều vải kia chăng? Điều khiến tôi cảm thấy không thoải mái chính là một nửa số người dưới kia hình như đều đeo súng trường K-56 (1) trên lưng, ngoài ra tôi còn thấy cả điện thoại vệ tinh và rất nhiều thiết bị hiện đại khác. Bàn Tử thấy súng phát thèm, đốp lại Trần Bì A Tứ: "Này lão già, ông cứ nói không mua súng, giờ hãy xem người ta vai vác súng, đạn lên nòng đuổi theo tới đây, nếu xảy ra va chạm thì đối phó kiểu gì? Hay là định lấy chậu rửa mặt làm khiên, dùng băng vệ sinh mà đánh bọn họ?"

Trần Bì A Tứ liếc Bàn Tử một cái, lắc lắc đầu rồi cười nói:"Làm nghề này xưa nay chúng ta chưa bao giờ dựa vào nhân số, đến vùng núi tuyết ngươi sẽ biết đi theo ta là lựa chọn chính xác."

Khi trao đổi với nhau chúng tôi đều dùng phương ngữ, Thuận Tử không thạo tiếng Hán nên không nghe ra được. Tuy nhiên Thuận Tử dẫn đường đã nhiều năm, cũng biết khách nói chuyện thì đừng nghe, nghe nhiều quá không chừng người ta giết mình diệt khẩu.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên phía trên, cho đến khi trước mắt xuất hiện mấy căn nhà gỗ tồi tàn có cửa sắt, bên trên còn viết khẩu hiệu: "Lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc là bất khả xâm phạm."

Thuận Tử cho chúng tôi biết đây là trạm tiếp tế cho những trận đánh tiền tiêu. Sau cuộc hội đàm đa phương, mấy trạm gác ở đây đều chuyển đi cả, nơi này trở nên hoang phế. Mấy trạm gác trên vùng tuyết cũng không còn ai nữa, nếu chúng tôi cứ đi lên mãi thì sẽ có cơ hội được thấy.

Màn đêm buông xuống, chúng tôi ở tạm trong này một đêm, sáng sớm hôm sau thức dậy bèn gấp rút lên đường. Thuận Tử đã cảm thấy kỳ quặc, hiếm có khách du lịch nào lại bạt mạng như chúng tôi, nhưng dù gì cũng đã nhận tiền nên vẫn thuận theo.

Khi chúng tôi thức dậy thì tuyết cũng bắt đầu rơi, nhiệt độ không khí đột ngột hạ xuống. Người miền nam rất khó có thể thích ứng với thời tiết này, ngoại trừ Bàn Tử và Diệp Thành, những người khác không khỏi cảm thấy thân thể mình đông cứng.

Cứ đi mãi rồi cũng tiến vào vùng núi phủ tuyết, chúng tôi rốt cuộc đã thấy tuyết đọng trên mặt đất. Ban đầu lớp tuyết còn mỏng, càng lên cao càng dày, cây cối ngày càng ít, các loại đá tảng lại nhiều thêm, Trần Bì A Tứ nói đó là dấu vết của một công trình đã được xây dựng ở đây.

Đến giữa trưa thì bốn phía xung quanh chúng tôi bao phủ trong một màu trắng xóa, lớp tuyết trên mặt đất dày đến độ phủ kín cả lối đi, tất cả chỉ biết đi theo Thuận Tử cưỡi ngựa ở phía trước dẫn đường.

Đúng lúc này bỗng nổi lên một trận gió to, Thuận Tử quan sát đám mây rồi hỏi nhóm chúng tôi hay là hôm nay chỉ đi đến đây thôi? Xem chừng sẽ có gió to, núi tuyết đã hơi nghiêng ngả rồi, tiếp tục đi lên có thể sẽ gặp nguy hiểm.

Trần Bì A Tứ lập tức khoát tay, bảo hắn cứ từ từ. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi, ăn chút lương khô, vài người thì ngắm phong cảnh xung quanh.

Chúng tôi đang ở trên lưng chừng một ngọn núi thấp, có thể nhìn thấy cánh rừng nơi chúng tôi bắt đầu tiến vào. Lão dõi mắt nhìn ra xa rồi chỉ vào một dải đất trũng, nói với chúng tôi. "Thời cổ khi xây lăng mộ người ta thường lấy vật liệu tại chỗ, ngươi xem mảng rừng kia rõ ràng thưa thớt hơn những cánh rừng gần đó rất nhiều, trăm năm trước chắc chắn là có người phát quang cây mà thành. Vả lại dọc đường tới đây chúng ta đi đứng hơi vất vả nhưng không có chướng ngại gì đặc biệt khó qua, gần đây chắc chắn từng có một công trình cổ đại, thế núi ở đây từng có người tu sửa. Chúng ta đã đi đúng hướng rồi, phải tiếp tục hướng lên cao nữa."

Diệp Thành hỏi: "Lão gia, dãy núi này có hơn mười ngọn đều bắt đầu từ đây đi lên, chúng ta tìm kiểu gì bây giờ?"

Trần Bì A Tứ nói: "Cứ vừa đi vừa quan sát, đầu rồng hẳn phải có điểm đặc biệt. Chỗ địa mạch ngắt quãng chính là long huyệt, nơi này nhiều núi nhưng địa mạch chỉ có một, chúng ta đang đi dọc địa mạch, không sợ không đến nơi, cùng lắm là mất nhiều thời gian thôi."

Tôi nhìn theo hướng nhìn của Trần Bì A Tứ, chỉ thấy từng mảng từng mảng cây cối, trông chẳng có gì khác nhau, trong lòng không khỏi cảm thấy xấu hổ.

Quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tôi đã thấy hắn chăm chú nhìn lên núi tuyết phía trước; đôi mày khẽ nhíu lại, tựa như đang lo lắng điều gì. Tôi biết chắc hỏi hắn bây giờ cũng như không, bèn xoay người tìm Bàn Tử nói chuyện phiếm.

Thuận Tử nghe chúng tôi nói muốn đi tiếp lên trên, bèn thở dài, lắc đầu nói nếu muốn lên cao hơn nữa sẽ không thể cưỡi ngựa, phải dùng đến xe trượt tuyết kéo bằng ngựa. Núi Trường Bạch vào mùa đông thật ra lại là nơi giao thông thuận lợi nhất, ngoại trừ những khi có bão tuyết, bình thường dùng ngựa kéo xe trượt tuyết là có thể đến bất kì nơi nào ngựa còn đi được. Nhưng một khi gió nổi lên thì chúng tôi tuyệt đối phải nghe lời hắn, hắn nói quay lại là quay lại, tuyệt đối không được có ý kiến.

Chúng tôi đều gật đầu đồng ý, lập tức dỡ hết hành lí xuống, đặt lên xe trượt tuyết. Chuẩn bị xong xuôi, Thuận Tử hô lớn rồi quất roi thúc con ngựa của mình đi trước dẫn đường, ngựa chúng tôi tự động theo sau, cả đoàn người lướt đi như bay trên đất tuyết .

Vừa mới ngồi vào xe trượt tuyết tôi cảm thấy rất thích thú, cái này cũng giống như đi bằng xe chó kéo vậy. Nhưng chỉ lát sau, không biết có phải vì gió lớn hay ngồi trên xe trượt không thể nhúc nhích mà tứ chi đều lạnh run lên, thân thể cứ như mất hết tri giác. Vì đây là đường núi nên ngựa chạy không được êm, cứ xóc nảy liên tục. Bàn Tử vì quá nặng nên mấy lần bị lật xe, ngã dúi vào đống tuyết làm chúng tôi cũng lại phải dừng lại chờ.

Chúng tôi cứ chạy mãi như thế cho đến khi màn đêm dần buông, gió càng lúc càng mạnh, ngựa chạy ngày càng chậm. Chúng tôi phải đeo kính chắn gió mới có thể nhìn rõ phía trước, khắp nơi đã trắng xóa một màu không biết là tuyết rơi trên trời xuống hay là tuyết lở trên núi xuống. Tiếng gió thổi vù vù bên tai, muốn nói một câu thôi mà mới mở miệng ra gió lạnh đã thốc thẳng vào vòm họng, nói theo cách của Bàn Tử là mấy câu chửi thề cũng muốn đông cứng lại trong cổ họng rồi.

Chạy một hồi lâu, cuối cùng con ngựa dẫn đầu của Thuận Tử cũng dừng lại. Tôi mơ hồ thấy có gì đó không ổn, bây giờ mới 2h chiều, sao trời đã xám xịt như tro rồi? Chúng tôi chạy ngược gió, nhanh chóng bắt kịp Thuận Tử, chỉ thấy hắn vừa xoa xoa cổ vừa quan sát bốn phía, mặt nhăn mày nhó.

Chúng tôi vây lấy Thuận Tử hỏi hắn xem có chuyện gì, hắn tặc lưỡi một cái: "Gió to quá, hơn nữa nơi này hình như đã xảy ra tuyết lở, nhìn không giống lần trước tôi đi qua. Còn nữa, mọi người nhìn xem, trước mặt toàn là tuyết từ trên núi lở xuống, vừa dày vừa xốp, tiến lên một bước là tuyết ngập đến tận bụng ngựa, lũ ngựa không chịu đi qua đâu. Loại tuyết này bên trong còn có bọt khí, rất dễ sụp xuống, cực kì nguy hiểm, nếu đi tiếp sẽ không thể tụ tập cùng nhau."

"Vậy phải làm gì bây giờ?" Phan Tử nhìn trời, "Xem chừng thời tiết hôm nay không tốt, có nên quay về không?"

Thuận Tử hết nhìn bầu trời lại nhìn sang chúng tôi, nói: "Cũng chưa chắc, nhưng một khi gió nổi lên thì phải ít nhất hai ngày hai đêm mới tạm ngừng, nếu chúng ta cứ ở lì lại đây thì chỉ có con đường chết. Không xa về phía trước có một trạm gác biên phòng bỏ hoang, chúng ta có thể vào đó tránh gió tuyết. Tôi thấy bây giờ có muốn quay lại cũng không kịp nữa rồi, chỉ còn cách đi bộ qua đó thôi."

Bàn Tử đè chặt cái mũ che tai trên đầu, nhón chân tiến thử một bước, kết quả bị lún vào tuyết đến đùi. Hắn chật vật nhích lên từng bước, chửi thề: "Con bà nó chứ, cứ như hành xác."

Chúng tôi xỏ giày đi tuyết vào chân, ngược gió mà kéo xe trượt ngập sâu trong tuyết, chật vật tiến lên. Chỗ này là đầu ngọn gió, nằm chính giữa hai sườn núi, gió rất lớn chả trách sao có tuyết lở. Chúng tôi hướng về phía đầu ngọn gió, Thuận Tử nói cứ đi khoảng một tiếng nữa sẽ tới trạm gác, nhưng lại không tính tới chuyện chúng tôi đang ì ạch tiến lên như rùa. Mà hình như Thuận Tử đã nhầm đường, chúng tôi đi hơn 6 tiếng, đến khi trời chạng vạng vẫn không thấy bóng dáng cái trạm gác kia đâu.

Thuận Tử bối rối đi qua đi lại, bỗng "Ai da!" một tiếng: "Xong rồi, tôi biết trạm gác ở đâu rồi!"

Chúng tôi vây quanh, thấy sắc mặt hắn cực kì khó coi: "Sao tôi lại không nghĩ ra chứ, chỗ này vừa có tuyết lở, hẳn là trạm gác bị tuyết vùi mất rồi. Có khi nó nằm ngay dưới chân chúng ta cũng nên, bảo sao tìm nửa ngày trời mà không thấy!"

Phan Tử thở dài, nói một câu, dựa theo khẩu hình chính là: "Mẹ cái đất chết tiệt này!"

Bàn Tử gào lớn hỏi Thuận Tử: "Vậy bây giờ tính sao? Ngựa thì không có, lẽ nào chúng ta phải chết ở đây sao?"

Thuận Tử chỉ chỉ về phía trước: "Còn một hi vọng cuối cùng, tôi nhớ gần đây có một suối nước nóng nằm trong một sườn núi, nhiệt độ rất cao. Nếu có thể đến đó, chúng ta có thể ăn lương khô sống tạm vài ngày, suối nước nóng kia tương đối cao, chắc vẫn chưa bị tuyết vùi. Chẳng may tìm không được thì chỉ còn cách dựa vào ý chí sinh tồn, từng bước từng bước một mà quay về.

"Anh có dám chắc chắn không đó?" Bàn Tử bắt đầu không tin tưởng Thuận Tử.

Thuận Tử gật đầu: "Lần này tuyệt đối không sai, nếu không tìm được suối nước nóng thì anh cứ trừ tiền công của tôi."

Tôi cười khổ trong lòng. Con mẹ nhà anh chứ, nếu thực sự phải trừ tiền công của anh thì chỉ e đến kiếp sau chúng tôi mới có cơ hội.

Mọi người đeo lên vẻ mặt như đưa đám, theo Thuận Tử tiến lên trên. Càng đi trời càng tối, Thuận Tử lấy dây thừng ra buộc vào từng người chúng tôi. Do tầm nhìn bị hạn chế, không thấy rõ người, gọi cũng không nghe tiếng nên chỉ còn cách dùng dây thừng mới có thể tập hợp chúng tôi lại một chỗ.

Tôi đi mãi đi mãi cho tới khi mắt hoa lên, không thể nhìn rõ được nữa. Người phía trước càng lúc càng xa, người đằng sau càng lúc càng tụt lại. Tôi nhìn trước nhìn sau đều không thấy bóng người, trong lòng trống rỗng, thầm nghĩ phải chăng lên núi vào lúc này là một sai lầm, không lẽ mình phải bỏ mạng ở đây? Không đâu, bước đi của Thuận Tử vẫn rất ổn định, tuy tôi không nhìn thấy hắn nhưng có thể cảm nhận được hướng đi của sợi dây thừng truyền lại rất kiên định, hẳn là đã quen đứng vững trong gió tuyết, chắc đi theo hắn sẽ không sao đâu.

Tôi vừa tự an ủi mình vừa tiếp tục tiến về phía trước, chợt thấy trong màn tuyết trước mặt xuất hiện một bóng đen mờ mờ ảo ảo, thoạt nhìn không thể nhận ra là ai. Đi được vài bước, bóng đen kia đột ngột nghiêng ngả rồi ngã nhào xuống tuyết. Tôi vội vàng chạy tới xem xét, thì ra người gục xuống tuyết đó chính là Thuận Tử.

Muộn Du Bình từ phía sau cũng vừa đuổi kịp, thấy đó là Thuận Tử bèn nhanh chóng đỡ hắn đứng lên. Chúng tôi khoác vai Thuận Tử rồi kéo mạnh dây thừng để những người khác nhanh chóng tập trung lại.

Bàn Tử vừa nhìn thấy Thuận Tử, nét mặt đã trở nên vô cùng cổ quái, hét lớn: "Con mẹ nhà hắn làm dẫn đường kiểu gì vậy? Không biết đường cũng chưa nói, đằng đây chúng ta còn chưa ngất hắn đã xỉu rồi. Chúng ta biết làm sao bây giờ?" Hắn còn định mắng tiếp nhưng nửa câu sau đã bị một cơn gió vừa thổi tới cuốn đi mất.

Tôi phóng mắt nhìn ra xung quanh, trời đất ơi, tình hình bây giờ đã không kiểm soát được nữa rồi. Gió dữ cuốn theo vô vàn bông tuyết đập vào nham thạch, vờn quanh chúng tôi, cách một mét đã không thấy gì, đến cả những dấu chân cũ của chúng tôi cũng bị gió thổi bay biến. Chúng tôi không thể phân biệt phương hướng, mỗi khi gió dữ thổi qua, đến đầu cũng không ngẩng lên nổi, bây giờ mà đứng lên sẽ bị gió thổi bay mất.

Mặt mũi ai nấy đều trắng tái, mắt Trần Bì A Tứ còn nổi cộm lên, xem ra lão già này gặp phải hoàn cảnh khắc nghiệt cực độ đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê rồi. Nếu Thuận Tử không ngã xuống thì chắc lão cũng không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Phan Tử nói: "Chúng ta không thể đứng đây chờ chết, suối nước nóng có lẽ ở ngay gần đây thôi. Chúng ta sẽ nối thêm dây thừng, tản ra tìm kiếm, ai tìm được thì kéo dây thừng làm tín hiệu."

Mọi người tản ra xung quanh, tôi cũng không biết mình đang đi về hướng nào, mới đi vài bước đã hoa mắt chóng mặt, cảm giác tê dại theo tứ chi truyền khắp thân thể. Trước đây tôi xem rất nhiều phim đều nói ở trên núi tuyết, người ta càng đi sẽ càng nguy khốn, lỡ ngủ quên thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại. Có người còn sinh ra vô vàn ảo giác, ví dụ như trước mặt hiện lên bát cơm nóng hổi chẳng hạn.

Tôi ra sức nhắc nhở bản thân phải tỉnh táo, nhưng lại không thể kiên trì cho nổi. Mỗi bước đi là mắt giống như đeo thêm một khối chì, nặng nề đến nỗi chỉ chực cụp xuống.

Đúng vào lúc ai nấy tưởng chừng mất hết hi vọng, đột nhiên lại nghe Bàn Tử kêu lên một tiếng, do gió quá mạnh nên không nghe rõ hắn kêu cái gì. Tôi nhìn lại, chỉ thấy bóng hắn thoắt cái đã biến mất. Muộn Du Bình lập tức quay đầu, phái hiện dây thừng trên mắt đất đột ngột bị kéo mạnh, mặt lập tức biến sắc, thét to: "Không xong rồi! Mau cởi dây thừng, có người thụt xuống hố tuyết!"

Lời còn chưa dứt, tuyết dưới chân hắn đã đột ngột sụp xuống, cả người hắn bị dây thừng kéo vào hố tuyết, kế đến là tôi – người đứng gần hắn nhất. Chúng tôi bị Bàn Tử kéo vào trong tuyết từng người một giống như một chùm nho, cứ lăn lông lốc không biết bao lâu mới dừng lại.

Mắt tôi bị tuyết bịt kín, không tài nào mở ra được, chỉ nghe tiếng Phan Tử bảo mọi người đừng nhúc nhích. Anh ở cuối dây thừng, đợi anh bò xuống rồi tính sau.

Đúng lúc này, đột nhiên nghe tiếng Diệp Thành kêu lên: "Khoan đã! Tiên sư nó, đừng ai đi xuống, trong đống tuyết kia có cái gì vậy?"

———————————————

(1) Nguyên văn là "五六式步枪", trông em nó như thế này:

Chương 12: Bách túc long

Tôi vuốt vội mấy hạt tuyết bám trên mí mắt xuống, nhất thời không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy lưng hình như va phải đá nhọn; Diệp Thành ở phía dưới đang kêu gào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, theo bản năng nhìn xuống xem Diệp Thành đang sợ hãi cái gì. Nhìn kĩ thì phát hiện chúng tôi đang ở bên mặt của một sườn núi dốc đứng lởm chởm đá, cách chân dốc chừng năm, sáu mét, sợi dây thừng buộc ở thắt lưng mắc vào một khối đá giúp chúng tôi không tiếp tục lăn xuống. Đáy dốc toàn là đá tảng và tuyết lở theo khi chúng tôi ngã xuống đây, trong đống tuyết lộ ra mấy cái chân khẳng khiu đen đúa dài ngoằng.

Tôi suýt nghẹt thở, bất giác dán chặt lưng vào tảng đá phía sau. Dịch tầm mắt lên phía trên đống chân, lấp ló bên dưới lớp tuyết dày là một vật gì đó màu đen đang cuộn tròn, kích cỡ tương đương cái thùng đựng nước, trên thân thể nhiều đốt phủ kín vảy, một phần giấu trong tuyết, một phần lộ ra ngoài. Thoạt nhìn tôi còn tưởng đó là một con rắn đang ngủ đông, nhìn kĩ lại thì thấy từa tựa con rết. Thứ này kề sát tảng đá, không hề động đậy, chẳng biết còn sống hay đã chết, không thấy đầu đuôi, cũng chẳng rõ nó dài bao nhiêu nữa.

Trong lòng tôi cảm thấy kì lạ, nơi này đã là vùng núi phủ tuyết, bình thường rất hiếm gặp sinh vật sống, đây rốt cuộc là cái giống gì? Nhìn cái đầu cùng với đống chân trông như chân rết của nó, bản năng khiến tôi nảy sinh cảm giác không thoải mái.

Phan Tử khăng khăng đòi xuống xem, Diệp Thành thì luôn mồm la oai oái. Bàn Tử cũng thấy thứ nằm bên dưới, bèn vơ một nắm tuyết cạnh mình vo tròn thành khối cầu rồi ném bốp một cái vào gáy Diệp Thành, nhỏ giọng mắng: "Đệch mợ anh be bé cái mồm cho tôi nhờ, muốn đánh thức nó hả?"

Tôi xem xét bốn phía, nơi này hẳn là một khe núi nhỏ bị tuyết lở lấp kín, do thế đá quá lộn xộn nên tích tụ khá nhiều bọt khí. Vừa nãy Bàn Tử đã giẫm phải lớp tuyết mỏng manh, kích phát phản ứng dây chuyền khiến cả tầng tuyết sụp xuống, kết quả là cả đám đều bị hắn kéo ngã theo. Lớp tuyết bên trên vẫn không ngừng sạt lở, nhiều khi sụp xuống rồi mà tuyết xung quanh cứ tiếp tục chảy xuống giống như cát trên sa mạc, chẳng mấy chốc đã chôn vùi nơi bị sập một lần nữa, quá trình này chỉ xảy ra trong chớp mắt. Rất nhiều đoàn thám hiểm núi cao vì thế mà tổn thất quân số, trong vài giây ngắn ngủi cả nhóm đã hoàn toàn biến mất. May cho chúng tôi là tuyết xung quanh có vẻ rắn chắc, cũng có thể do chúng tôi dùng dây thừng buộc cả đám lại với nhau.

Nơi này khuất gió, cơn cuồng phong vào đây rõ ràng đã yếu đi nhiều, không còn lạnh buốt như vừa nãy. Tôi thoải mái hít thở vài hơi, cẩn thận ngồi xổm, nhích xuống dưới vài bước. Nơi này tuy dốc đứng nhưng mặt ngoài sườn núi đều là đá vụn gồ ghề, có tảng to bằng cái xe tải, có viên chỉ nhỏ như quả bóng bàn, leo trèo rất tiện, lên xuống đều không quá khó khăn.

Phan Tử và Muộn Du Bình đã tháo dây thừng, do đứng cách chân dốc không xa nên hai người bọn họ nhảy ào ào xuống, kéo theo cả tuyết. Rơi xuống rồi, họ lăn vài vòng đến tận chân dốc để giảm dư chấn. Hai người rón rén đứng lên, một trước một sau chạm vào vật màu đen kia, khiến tim chúng tôi tưởng chừng nhảy vọt lên cổ họng.

Đi được vài bước, Muộn Du Bình và Phan Tử đểu duỗi thẳng lưng, rõ ràng đã trấn tĩnh lại. Phan Tử liếc Muộn Du Bình một cái, nhún vai rồi ra hiệu cho chúng tôi xuống theo.

Trong khi mọi người còn đang nghi hoặc, Bàn Tử đã cởi dây thừng lăn xuống. Muộn Du Bình gạt lớp tuyết đọng lên thạch điêu trên mặt đất, thì ra đó là hình một con rồng nằm phủ phục trên đá được chạm lên một tảng đá đen. Thạch điêu này chạm khắc vô cùng sinh động, nếu vùi sâu trong tuyết thì quả là không thể nhìn ra.

Chúng tôi cũng lục tục kéo nhau xuống. Trần Bì A Tứ nhìn thấy thạch điêu, sắc mặt lập tức biến đổi. Lão không đứng nổi, phải nhờ Hoa hòa thượng đỡ mình đến trước thạch điêu mài từ đá núi, bắt đầu lần mò. Con rồng này có vài điểm khác biệt so những con rồng bình thường, dưới thân nó khắc vô số chân trông như chân rết, rõ ràng không phải là tác phẩm điêu khắc của trung nguyên, có lẽ là dị bản hình rồng của một dân tộc du mục nào đó quanh vùng này.

Bàn Tử hỏi tôi: "Sao con rồng này xấu như ma thế, trông giống côn trùng hơn là giống rồng. Nhìn qua là thấy tà khí ngút trời rồi, còn không đẹp bằng hình rồng khắc trên tường cố cung, hay đây là bản khắc hỏng?"

Hoa hòa thượng đáp: "Không biết thì đừng có nói bậy. Đây là Bách túc long (1), không phải Bàn long (2), những họa tiết hình rồng của nước Đông Hạ thời kì đầu đều có dạng này. Ngày xửa ngày xưa, vào thời viễn cổ, rồng Trung Quốc mang nhiều hình dạng khác xa bây giờ, thậm chí còn có hình rồng mũi heo, cỡ này vẫn chưa phải là quái đản đâu". Rồng Trung Quốc đã trải qua một khoảng thời gian tiến hóa rất dài, ban đầu rồng vốn là loài bò sát dưới đất, tiện tay ghép một cái đầu thú với thân rắn là ta có con rồng. Lúc ấy mỗi bộ lạc đều có đồ đằng rồng của riêng mình, họ phát triển theo những chiều hướng khác biệt thành ra hình dạng rồng cũng không giống nhau. Sau này văn hóa của người Hán lưu truyền rộng rãi, văn hóa Di, Hạ (3) cũng hợp lại với nhau, hình dạng con rồng của người Hán mới dần hòa trộn với rồng của các dân tộc thiểu số. Đến cuối cùng, rồng từng bước thống nhất lại thành hình dạng Bàn long như bây giờ.

Con Bách túc long này chính là hợp thể của rồng và rết, không hiểu vì sao nhưng nhìn một cái thân rồng bình thường mọc ra một đống chân rết, chẳng những không thể hiện được sự uy vũ mà ngược lại còn khiến cho người ta nảy sinh cảm giác cực kì khó chịu, cảm thấy có phần quỷ dị.

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng giới thiệu xong liền cười nói: "Mặt Sẹo (4) à, thật không ngờ anh cũng đầy bụng chữ nghĩa nha. Tảng đá này hẳn là của cái nước Đông Hạ đó hả?"

Hoa hòa thượng ngắm nghía thạch điêu rồi lại ngẩng đầu nhìn sườn núi phía trên, ngờ vực nói: "Phải, có điều không biết khối đá khắc hình rồng này là từ đâu tới?"

Lúc này trời đã tối đen, chúng tôi đều bật đèn pin, một tay cầm đèn một tay gạt hết lớp tuyết phủ trên phiến đá kia xuống. Bấy giờ mới phát hiện ra đó là một khối đá bằng khổng lồ cao năm mét rộng ba mét, một mặt tựa vào sườn núi lởm chởm đá. Khối đá này cực kì bằng phẳng, lại còn đen tuyền một màu, không giống chất đá xung quanh chút nào.

Tôi xem xét chỗ nứt trên khối đá, nói: "Có thể khối đá này từ bên trên sụt xuống, ông Tư nói không sai, đích đến của chúng ta vẫn còn xa tít trên kia. Mọi người xem, con rồng này hình thể không cân đối, đây gọi là song long hí châu, vậy thạch điêu này có lẽ vẫn còn một phần nữa, thông thường sẽ khắc trên cửa đá, hai mặt như một."

Trần Bì A Tứ ho khan một tiếng, cất giọng yếu ớt: "Nói láo! Hiểu biết nông cạn mà cũng đòi khua môi múa mép. Cửa đá cái đầu mi, khối đá này chính là phong thạch của mộ đạo."

Nói rồi lão chỉ chỉ vào miệng rồng, Hoa hòa thượng lập tức đi tới, thò tay vào miệng rồng kéo mạnh một cái, nhưng chỉ kéo ra được một sợi xích sắt màu đen to cỡ cổ tay. Bàn Tử thấy thế liền nói: "Ai dà, thôi xong, ruột rồng cũng bị anh lôi ra cả rồi."

Trần Bì A Tứ tiếp: "Lúc niêm phong mộ thất người ta dùng sợi mã liệm (5) này để kéo khối phong thạch kia, chứng tỏ đây là mặt quay vào trong."

Tôi bị lão mắng đến đỏ mặt, giả bộ nhìn quanh: " A, đúng là cháu nhầm rồi, nhưng tại sao phong thạch lại xuất hiện ở chỗ này chứ?"

Hoa hòa thượng dùng sức kéo mạnh sợi xích sắt nhưng tảng đá vẫn trơ ra không suy suyển. Nét mặt Trần Bì A Tứ cũng hiện lên tia nghi hoặc, lão lắc đầu, ngẩng cổ nhìn lên trên. Trong lòng tôi thầm than một tiếng, biết rõ lão đang lo lắng điều gì. Nếu khối phong thạch này từ trên kia rơi xuống, chẳng phải là minh chứng cho thấy mộ đạo phía trên đã bị phá hủy nghiêm trọng rồi sao? Chúng tôi dù có tìm ra nó thì chắc gì đã vào được?

Trên đầu bão tuyết vẫn đang thét gào, bầu trời đen kịt hẳn đã vào đêm. Tôi nhìn quanh quất, không biết trận bão tuyết này còn kéo dài bao lâu nữa.

Phát hiện ra khối thạch điêu này, mọi người càng thêm tin tưởng mình sẽ tìm ra thiên cung, nhưng tôi cũng không biết mình nên phấn chấn hay là chán nản. Hoa hòa thượng chụp lại thạch điêu, Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại tinh thần, dặn chúng tôi trước tiên phải giữ gìn đồ đạc cá nhân cho kĩ, mệt mỏi thì nên nghỉ ngơi một lát. Nơi này vừa hay lại khuất gió, muốn làm gì thì cũng phải đợi gió ngừng rồi tính sau.

Chúng tôi bỏ trang bị ra kiểm tra lại, còn Hoa hòa thượng đi chăm sóc người bị thương kia. Tôi vừa lôi ra mấy thứ đồ thì hắn đã chạy tới bảo phiền phức rồi, Thuận Tử hình như không còn phản ứng.

Chúng tôi lay lay Thuận Tử, lắc thử đầu hắn. Hắn chỉ có thể trì trệ "A~" một tiếng, ý thức mơ hồ, vừa nhìn qua đã biết thân thể bị mất nhiệt.

"Chúng ta mau đốt lửa lên, bằng không hắn không chịu đựng nổi nữa đâu" Phan Tử lại gần, "Đã ngủ bấy lâu vẫn chưa chịu tỉnh lại."

Tôi nhìn quanh quất bốn phía, căn bản không đào đâu ra củi, nếu muốn nhóm lửa có lẽ phải đốt xe trượt tuyết. Nhưng mà lên núi tuyết cần mang theo rất nhiều trang bị, không có xe trượt tuyết, chặng đường về sao chỉ e không thể đi tiếp.

Hoa hòa thượng nhìn Trần Bì A Tứ, rõ ràng không dám tự quyết. Trần Bì A Tứ sắc mặt cũng tái mét, không biết vì lạnh hay vì lý do nào khác, nhíu mày nói: "Tạm thời không thể để hắn chết, ta còn có chuyện phải hỏi."

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng bèn dỡ đồ đạc trên xe trượt tuyết xuống, chuẩn bị lấy gỗ nhóm lửa. Nhưng giờ này xe trượt tuyết cũng bị tuyết thấm ướt, không biết có còn bắt lửa nữa không.

Trong cơn lo lắng, tôi bất chợt ngửi thấy một mùi giống như lưu huỳnh, mùi này không biết từ nơi nào xộc tới khiến tôi giật nảy mình. Hoa hòa thượng ra hiệu đừng nhúc nhích, còn bản thân mình thì đứng lên, cẩn thận nghe ngóng. Những người khác cũng đồng thời ngửi thấy mùi này, ai nấy đều dừng hết những việc đang làm. Bàn Tử hít sâu một hơi, nói: "Các đồng chí, hình như có mùi của suối nước nóng!"

Trần Bì A Tứ đưa mắt ra hiệu cho Diệp Thành và Lang Phong, ý bảo bọn họ ra ngoài tìm kiếm. Bàn Tử đeo ba lô lên tỏ ý cũng muốn đi, kết quả là cả ba đều bị Phan Tử cản lại. Bàn Tử hỏi: "Chuyện gì?", Phan Tử hất cằm về phía Muộn Du Bình: "Các anh vội cái gì chứ, đừng quên chúng ta có cao thủ."

Lúc này Muộn Du Bình đã cúi người xuống, dùng hai ngón tay dài khác thường của mình lần mò tảng đá dưới chân, bỗng "A?" một tiếng rồi chuyển hướng sang khối phong thạch khắc hình Bách túc long.

Chúng tôi vòng ra mặt trước khối đá Bách túc long, trước đó chỗ này hoàn toàn không có mùi gì, bây giờ lại ngửi thấy mùi lưu huỳnh hết sức rõ ràng. Muộn Du Bình sờ lên đầu rồng, lại nhìn ra đằng sau khối đá, bàn tay đặt lên đầu rồng thả ra rồi lại ấn xuống, nói: "Lạ thật, phía sau cái đầu rồng này trống không."

—————————————————

(1) Bách túc long: nghĩa đen là rồng trăm chân, đây không phải hình bách túc long trong truyện, chỉ là hình ảnh tương tự mình tìm trên mạng để cho dễ hình dung cái con quái này =)))

(2) Bàn long: có nghĩa "rồng cuộn", chỉ hình rồng hiện tại của Trung Quốc:

(3) Di là từ người Hán dùng để chỉ các dân tộc sống phía bắc Trung Quốc, Hạ trong Hoa Hạ, chỉ người Hán.

(4) Nguyên văn nick name của ổng là "Đao ba" là nghĩa là sẹo do bị đao chém. Vì khắp người Hoa hòa thượng đầy sẹo Bàn Tử gọi ổng ta là Đao ba huynh, và để hưởng ứng phong trào thuần Việt mình sẽ để là anh Mặt Sẹo (tên Mặt Sẹo cũng dễ thương mà ~~~)

(5) Mã liệm:

Chương 13: Khe nứt

Trường Bạch là một dãy núi lửa đã ngủ đông, căn cứ vào tài liệu lịch sử thì lần phun trào quy mô nhỏ gần đây nhất của nó hẳn đã kết thúc từ 1000 năm trước. Hiện giờ tuy núi lửa đã yên tĩnh trở lại nhưng những nguồn địa nhiệt quanh nó vẫn đặc biệt dồi dào, vô số khe nứt địa chất và miệng phun dung nham từ thời kỳ hoạt động vẫn còn duy trì nhiệt độ cực cao. Phía sau khối phong thạch Bàn long này không chừng còn đè lên một khe đất bốc hơi nóng, vì thế mới toát ra mùi lưu huỳnh.

Chuyện này đối với chúng tôi chắc chắn là một tin tốt lành. Trong hoàn cảnh này, có được nguồn nhiệt ổn định đương nhiên là tiết kiệm hơn hẳn so với đốt một đống lửa. Thế nhưng lại vướng tảng phong thạch Bàn long vĩ đại màu đen chèn chặt bên trên, liếc qua đủ biết phải nặng đến hơn mười tấn, chúng tôi lại không có bất kì thiết bị phá đá nào, muốn lật nó sang một bên quả là hơi khó.

Bàn Tử thuộc phái hành động, hăng hái vung tay kêu gọi chúng tôi cùng khuân tảng đá lên, có vài người cũng bước tới nhấc thử mấy cái. Nhưng cả đám ra sức khiêng tới nỗi đầu tóc nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ đến mang tai mà tảng đá vẫn không mảy may suy suyển.

Bàn Tử thở hổn hển, than vãn: "Không được rồi bố già ơi. Tôi đã bảo trang bị của chúng ta không dùng được rồi mà, bố xem giá lúc này có ít thuốc nổ thì tốt quá."

Hoa hòa thượng đáp, anh không biết thì đừng có nói lung tung, ông cụ nhà này qua cầu còn nhiều hơn anh đi đường đấy. Không mang thuốc nổ là đúng rồi, anh nói coi giờ chúng ta đang ở dưới đáy khe, trên đỉnh đầu tuyết phủ trắng xóa, anh cứ thử đào bừa cái lỗ, chôn xuống quả mìn rồi cho nổ, chờ đám tuyết đọng bên trên chấn động sụt xuống xem có bị chôn sống ngay không.

Bàn Tử cứng họng, đúng lúc đó tôi lại thoáng thấy mép dưới của phiến đá Bàn long còn kẹp rất nhiều khối đá to nhỏ không đều, nảy ra một ý, bèn bảo bọn họ: "Có lẽ không cần dùng thuốc nổ đâu, để tôi thử xem."

Nói rồi tôi lấy từ trong hành lý ra một chiếc búa đục đá, đến bên cạnh khối phong thạch Bàn long, cẩn thận kiểm tra mấy khối đá lớn bên dưới rồi nhắm chuẩn vào một tảng trong số đó mà khỏ một búa. Khối đá kia một mặt đã phải chịu sức nặng hơn mười tấn, nay lại phải nhận thêm nhát búa thốc từ bên sườn của tôi, tức khắc nứt ra một kẽ nhỏ. Tiếp đó là những tiếng đá nghiến vào nhau rào rạo liên hồi, tảng phong thạch Bàn long phía trên vì lực chống đột ngột biến đổi mà bắt đầu trượt xuống theo vách núi đá.

Chúng tôi gấp gáp lùi về phía sau, phiến phong thạch Bàn long trượt xuống vài tấc lại bắt đầu nghiêng ngả. Thế nhưng phiến đá kia thật sự quá nặng, chỉ trượt khỏi vị trí một chút đã ngừng lại. Nhưng như thế cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy phía sau tảng phong thạch lộ ra một khe nứt nằm trên vách núi.

Khe đá này rộng vừa một đầu người, cố ép mình cũng có thể chui qua. Nhìn mép động thì thấy đường đứt gãy của nham thạch vẫn còn nguyên trạng, không có dấu vết đục đẽo của con người, mùi lưu huỳnh từ trong đó phả ra từng đợt.

Bàn Tử vặn đèn pin sáng lên, thò tay chiếu vào xem thử rồi quay đầu lại nói: "Trong này ấm lắm, mỗi tội góc độ thì quá khó đỡ, chẳng chiếu đến cái gì cả. Với lại, tường đá bên trong hình như còn viết chữ."

"Viết cái gì vậy?" Tôi hỏi.

Bàn Tử nheo mắt nhìn cẩn thận một lát rồi đáp: "Đọc không nổi, mẹ kiếp chẳng biết nó viết cái của nợ gì."

Nói rồi hắn lại định khom lưng chui vào, có điều Bàn Tử quả thực quá mập, hang động này hiển nhiên không vừa với hắn, cố nhét người vào mấy lần vẫn không được. Rốt cuộc hắn phải cởi tấm áo khoác bên ngoài ra mới miễn cưỡng chui lọt.

Trần Bì A Tứ lại bảo Diệp Thành, Lang Phong và Phan Tử ở lại bên ngoài, có gì còn tiếp ứng, còn chúng tôi theo sau Bàn Tử tiến vào trong khe hở.

Đây là một kẽ đá nứt ra do vận động tạo núi, đi vào rồi mới phát hiện nó đột ngột dốc thẳng xuống dưới, bên trong tối om om, xem ra khe này rất sâu, chỉ e nó thông thẳng vào trong lòng núi.

Không gian ngoài miệng khe nứt hơi chật, hai người không thể sóng vai cùng vào, hơn nữa trong khe rất khó đi, dưới chân toàn là những khối đá lớn góc cạnh lởm chởm. Mùi lưu huỳnh trong hang phải nói là nồng nặc, nhiệt độ ít nhất cũng tầm 30 độ C, đến cả đá cũng nóng rẫy lên.

Chúng tôi dùng cả chân lẫn tay nhích lên vài bước, Bàn Tử lấy đèn pin chiếu sáng một bên, bảo: "Các anh xem, đây là chữ gì?"

Tôi quay đầu sang, thấy đám chữ không được khắc lên vách khe nứt mà chạm trên một khối đá nằm ngang lẫn trong đống đá lộn xộn dưới đáy. Đây toàn là những chữ lạ lùng, có phần giống tiếng Trung, lại hơi na ná chữ Hàn, chạm khắc không theo thứ tự gì cả.

Hoa hòa thượng sáp lại gần nhìn thử rồi khẳng định: "Đây là chữ của người Nữ Chân(*)."

(N Chân chính là dân tc ca hoàng tht nhà Thanh, vn h thuc mt nhóm các b tc du mc sng ti vùng Mãn Châu – nay là đông nam Nga và đông bc Trung Quc – và min bc Triu Tiên, cũng tc là sát vi dãy Trường Bch Sơn trong truyn. Trong quá kh h tng thành lp nhà Kim, xung đt vi triu Tng cho đến khi b liên minh Tng và b tc Mông C ca Thành Cát Tư Hãn dit quc. Sau này h li ni lên xâm chiếm toàn b lãnh th Trung Quc ca nhà Minh và lp ra triu Thanh, cũng chính là vương triu cui cùng ca giai cp phong kiến Trung Hoa.)

"Nó viết cái gì thế?" Bàn Tử hỏi.

Hoa hòa thượng đáp: "Chờ chút, tôi đâu phải siêu nhân, phải xem kỹ mới biết được. Để tôi chép lại đã."

Chúng tôi chờ một lát cho Hoa hòa thượng chép xong những chữ này vào sổ. Rồi Bàn Tử dẫn đầu, chúng tôi lại xếp thành hàng ngũ, tiếp tục đi sâu vào trong động.

Nói là đi, chứ thực ra dùng tay còn nhiều hơn chân. Toàn bộ khe nứt cơ hồ đều nghiêng 30 độ xuống dưới, lại không có bậc thang, gần như phải bò xuống. Bên trong khúc rộng khúc hẹp chỗ thấp chỗ cao, có nhiều nơi phải thụp người xuống mới luồn qua được.

Điểm duy nhất khiến người ta thoải mái là trong này ấm áp hơn rất nhiều, chúng tôi bò mãi cũng bắt đầu đổ mồ hôi, đành phải tháo bớt nút quần nút áo. Đúng lúc đó Bàn Tử lên tiếng: "Bố già ơi, phiến phong thạch chặn ngoài kẽ nứt kia hình như không phải ngẫu nhiên đúng không?"

Trần Bì A Tứ ậm ừ nói: "Phá núi xây lăng thường lấy vật liệu tại chỗ, bên ngoài nhiều đá vụn như thế, hẳn đây chính là công trường khai thác đá để xây lăng mộ. Khe nứt này dễ chừng bọn họ đã phát hiện ra trong khi lấy đá, không hiểu sao cuối cùng lại dùng phong thạch chặn lại."

Còn chưa xuống đến 100 mét, mùi lưu huỳnh đã ngày càng nồng, nham thạch càng lúc càng đen, cũng bắt đầu phản chiếu ánh ngọc lóng lánh bảy màu, đó là dấu vết để lại sau khi đá mica bị nhiệt độ cao nung chảy. Tôi kêu úi cha một tiếng, trong lòng thầm nghĩ đây chắc là miệng phun dung nham của núi lửa rồi. Trường Bạch là ngọn núi lửa ngủ đông, lỡ như nó đột ngột tỉnh giấc, nham thạch nóng chảy từ trong lòng núi phun ra thì chúng tôi chết là cái chắc.

Tôi đang nghĩ ngợi lung tung, bỗng hai người đi đầu đoàn ngừng lại, chiếu đèn pin về phía trước. Thì ra khe nứt đằng trước đột ngột thu hẹp lại, đá vụn ngổn ngang, chỉ chừa ra một khe hở bé tý có thể chui xuống dưới.

Tôi ngồi thụp xuống, chiếu đèn pin vào bên trong. Nơi đây do khe nứt sụp xuống hình thành, không gian bên trong rất nhỏ, kiểu này chắc phải nằm hẳn xuống mới trườn vào được.

Trần Bì A Tứ nhìn thấy miệng cái khe, biết ngay với thể lực của mình thì đừng hòng bò vào nổi. Bàn bạc một lát, tôi bảo Hoa hòa thượng ở lại chờ chúng tôi với lão, còn tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình thì tiếp tục chui vào xem bên trong còn có thứ gì.

Chúng tôi cởi áo ngoài, cố giảm hết cỡ kích thước cơ thể mình. Lần này chúng tôi để Muộn Du Bình đi đầu, ba người lần lượt trườn xuống, từng tý từng tý một luồn dần vào cái khe kia.

Tôi cho rằng chỗ bị sụp xuống chỉ là một đoạn ngắn, cứ bò về phía trước vài bước khắc có lối ra. Nếu đúng là như thế thì chúng tôi có thể quay về kịp thời, ai dè cái khe này dài khiếp, bò mãi bò mãi vẫn chưa hết đường, quả là vượt quá dự liệu.

Những tảng đá trong khe đều sắc nhọn khác thường, mới bò được vài bước quần áo trên người tôi đã bị móc rách vài chỗ. Nham thạch đè ép phổi tôi, cộng thêm nhiệt độ ngày càng tăng khiến tôi dần dần cảm thấy khó thở.

Bàn Tử đi sau cũng có cảm giác giống tôi, bèn níu chân tôi lại, nói: "Không xong, thành phần không khí ở đây hình như có vấn đề, chúng ta chưa thăm dò đã tiến vào thế này là quá liều lĩnh."

Tôi muốn ngoảnh lại nhìn nhưng không gian quá chật chội, thật sự không cách nào làm được. Nghĩ bụng nãy giờ đã trườn được một đoạn khá xa, quay lại thì cũng tiếc, hơn nữa tình hình hiện tại như vầy, chỉ e bò lại còn khốn khổ hơn bò đi, vì vậy tôi nói: "Tiến thêm vài bước nữa đi, nếu còn chưa đến đáy thì chúng ta lại lui ra ngoài."

Bàn Tử ậm ừ. Đúng lúc này, Muộn Du Bình ở đằng trước bất chợt kêu lên một tiếng: "Hửm?"

Tôi quay đầu lại nhìn về phía trước thì thấy đằng đó trống trơn, Muộn Du Bình mới nãy còn chặn trước mặt tôi giờ đã không thấy đâu nữa, chỉ để lại cái khe nứt tối om om, chẳng biết thông đến tận đâu.

Từ lúc nghe thấy tiếng Muộn Du Bình cho đến khi phát hiện ra hắn biến mất ngay trước mắt tôi, tuyệt đối không quá năm giây. Cho dù có là một con chuột thì trong hoàn cảnh này cũng không thể nào biến mất trước mặt tôi nhanh đến thế, huống chi là một con người.

Tôi lập tức cảm thấy có gì không ổn, vô thức lùi lại một bước, định nhìn lại cho cẩn thận. Bỗng vụt một cái, lại thấy Muộn Du Bình hiện ra lù lù ngay trước mặt mình.

Bàn Tử bò sát phía sau, thấy tôi lùi một bước thì hốt hoảng khựng lại, lên tiếng hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

Nhất thời tôi cũng mù mờ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn trả lời lấy lệ: "Không... không có gì đâu."

Muộn Du Bình hình như cũng không biết chuyện kỳ dị vừa xảy ra với mình. Hắn dừng lại một lát, gọi chúng tôi một tiếng rồi bắt đầu tăng tốc trườn về phía trước.

Dù hắn thoắt ẩn thoắt hiện chỉ trong tích tắc nhưng tôi vẫn cảm nhận được hết sức rõ ràng. Tuy nhiên nhìn vào cảnh tượng trước mắt, bỗng dưng tôi lại không thể chắc chắn một trăm phần trăm. Trong lòng tôi cực kỳ hoang mang, lẽ nào là do không khí trong này khiến tôi sinh ảo giác?

Nhưng tình hình không cho phép tôi cân nhắc nhiều. Bàn Tử đằng sau kéo chân tôi thúc giục, tôi đành ôm cảm giác bực bội bò thêm một quãng. Lúc bò qua cái đoạn Muộn Du Bình vừa biến mất kia, tôi đặc biệt chú ý quan sát xung quanh nhưng không thấy bất kì chỗ lõm hay cái gì tương tự có thể khiến tôi sinh ra ảo giác, trong lòng mơ hồ dấy lên cảm giác bất an.

Qua khúc này lại đi thêm tầm mười phút nữa, Muộn Du Bình bất chợt thả lỏng, cả người rướn ra ngoài dò xét. Tôi thấy trước mặt trở nên rộng rãi, biết rằng đã đến lối ra.

Phần cuối của khe nứt là một đống lớn đá ngổn ngang. Sau khi leo ra, Muộn Du Bình bẻ vài khúc gậy huỳnh quang ném ra tứ phía, ánh sáng ấm áp màu vàng lan tỏa khắp không gian. Tôi quay đầu lại nhìn, nhận thấy đây hẳn là chỗ rộng rãi nhất của cả cái khe nứt trong lòng núi này, chiều rộng cỡ bốn năm chiếc xe bảy chỗ hiệu Kim Bôi, chiều dài đại khái bằng nửa sân bóng rổ, bên dưới lổn nhổn toàn đá vụn lớn có nhỏ có, đều là bị hoạt động địa chất xảy ra vào thời điểm hình thành cái khe này lắc cho vỡ xuống.

Bàn Tử điều chỉnh quầng sáng của đèn pin chiếu rộng ra, quan sát bốn phía rồi nói: "Quái lạ, chỗ này mà còn có bích họa. Xem ra chúng ta không phải những người đầu tiên tới đây rồi."

Chúng tôi bước tới, phát hiện trên vách khe đúng là có bức bích họa lớn nhiều màu sắc. Nhưng tình trạng bảo tồn của bức bích họa này cực kỳ kém, màu sắc nhạt phai, đường nét bên trên phải cố gắng lắm mới nhìn ra nó na ná hình vẽ Thiên nữ phi thiên.

Những người tiến vào đây đã lấy một phiến đá vĩ đại bít cửa, bên trong lại còn có bích họa. Đây rốt cuộc là nơi nào? Một lần nữa, tôi lại cảm thấy hoang mang.

Quanh quẩn vài vòng, chúng tôi phát hiện ra vài miệng suối nước nóng giữa lớp đá vụn, tuy cái nào cũng rất nông, nhưng bốc lên hơi nóng hôi hổi hấp dẫn không sao tả xiết. Tuy nhiên, chúng tôi lại không phát hiện ra dấu vết cho thấy có những người khác đã từng hoạt động ở đây.

Từ sâu bên trong khe nứt thỉnh thoảng phả ra những luồng gió nóng bỏng. Tôi qua đó chiếu đèn vào trong, khe này sâu không thấy đáy, chẳng biết nó còn thông đến tận đâu.

Sau khi trao đổi ý kiến, chúng tôi thống nhất không phải vào sâu thêm nữa, đây đã là chỗ tránh bão tuyết lý tưởng rồi. Bàn Tử kiểm tra không khí, thấy không có vấn đề gì quá lớn, bèn thắp ngọn đèn bão lên duy trì ánh sáng. Muộn Du Bình lại bò qua cái khe nhỏ hẹp đã đưa chúng tôi tới đây, ra báo cho những người ở bên ngoài.

Lát sau Hoa hòa thượng và Diệp Thành đã lần lượt chui vào, Thuận Tử cũng được Phan Tử kéo đến nơi. Tôi lập tức kiểm tra bệnh tình của Thuận Tử, nhận ra nhờ hơi ấm trong này mà sắc mặt hắn đã bắt đầu hồng hào hơn, nhưng tay chân vẫn lạnh ngắt, không biết còn có thể cố gắng chống đỡ hay không.

Suốt quãng đường lên đây đều do Thuận Tử dẫn chúng tôi đi, nếu hắn chết thì cũng chưa đến nỗi không đi nổi nữa, nhưng tóm lại sẽ rất khó khăn. Hơn nữa tôi cũng rất quý mến người này nên thật sự không muốn một người vô tội như thế lại phải bỏ mạng vì chúng tôi.

Hoa hòa thượng kiểm tra nhịp tim và mạch đập của hắn, sau đó lại bảo tôi tránh ra, dấp nước nóng đẫm chiếc khăn mặt rồi đặt trên tảng đá cho nguội bớt, sau đó dùng nó lau người cho Thuận Tử, đợi đến khi toàn thân hắn được chà xát đến đỏ lựng lên rồi mới tưới lên người hắn chút nước nóng. Thuận Tử bắt đầu ho khan dữ dội, mí mắt co giật.

Chúng tôi thở dài nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng nói: "Xong rồi, hắn không chết được đâu."

Bầu không khí dịu đi, Bàn Tử và Diệp Thành đều lấy thuốc lá ra hút. Lúc này Trần Bì A Tứ cũng được Phan Tử đỡ vào.

Trải qua lần biến cố liên tiếp này, chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức, cũng chẳng còn hơi đâu mà nói chuyện nữa, ai nấy đều tự tìm một chỗ thoải mái mà ngả lưng xuống.

Tuyết trên người vì nhiệt độ thay đổi mà tan thành nước, quần áo giày dép bắt đầu thấm hơi ẩm, chúng tôi phải lột quần áo ra phơi lên mấy tảng đá khô. Diệp Thành lấy đồ hộp nén nhỏ ra, ném vào suối nước nóng ngâm một lát rồi phân phát cho mọi người.

Tôi vừa ăn vừa cùng Hoa hòa thượng ngắm bức bích họa vừa phát hiện ban nãy. Chỗ này rõ ràng là do thiên nhiên tạo thành, hơn nữa không gian lại hẹp, tại sao phải vẽ bích họa làm gì? Việc Muộn Du Bình đột nhiên biến mất ngay trước mắt tôi vừa rồi, cùng với tảng đá vĩ đại chắn ngang cửa động đã cho tôi một cảm giác rất bất thường.

Người làm việc với đồ cổ luôn cảm thấy cực kì hứng thú với những vật truyền lại một lượng thông tin lớn như bích họa và phù điêu. Những người khác thấy chúng tôi chăm chú nhìn, cũng dần dần bước tới.

Nhưng trên tấm bích họa này lại không chứa nhiều thông tin cho lắm. Hình Thiên Nữ Phi Thiên được vẽ lên tường ở nhiều nơi trong cung đình hoa lệ hay in lên đồ thờ cúng chỉ để thể hiện những màn ca múa tưng bừng mừng cảnh thái bình thịnh vượng, chứ thực tế chẳng có ý nghĩa gì. Tấm bích họa tàn tạ này nhiều khả năng cũng chỉ là vật tương tự, có mặt tại đây lại toàn những người thường xuyên ra vào cổ mộ, nhìn nhiều phát nhàm, liếc qua đã chẳng có hứng xem xét gì nữa.

Trên đoạn đường tới đây tôi đã đổ mồ hôi đầm đìa, đầu ngón chân tê cóng, đau đến dại đi. Đúng lúc tôi đang định về chỗ, ngồi xoa bóp mấy đầu ngón chân thì lại nghe Bàn Tử chắt lưỡi một tiếng, chìa ngón cái ra, bắt đầu cậy bức bích họa.

Tôi bèn hỏi hắn làm sao thế, thứ này tuy không có giá trị nhưng dù gì cũng là di vật của người xưa, anh không thế phá hoại nó chứ.

Bàn Tử trả lời: "Cậu lảm nhảm cái gì đấy, móng tay tôi mà không có giá à? Đồ đạc bình thường tôi có thèm bóc bao giờ đâu. Cậu tự qua đây mà xem, bích họa này có hai tầng đấy!"

"Hai tầng á?" Tôi hửm một tiếng, nhíu mày, trong lòng tự hỏi thế nghĩa là sao?

Mọi người bắt đầu chụm lại, tới xem rốt cuộc hắn đang nói gì. Hắn chìa đầu ngón tay cho chúng tôi xem, chỉ thấy trên đó dính lại chất chu sa màu đỏ bị cạo ra. Nhìn lại vị trí trước mặt hắn, quả nhiên trong góc bức bích họa có một khoảng đường nét không hề liên quan đến xung quanh, thứ được vẽ cũng không giống. Chẳng qua chỗ này nằm hơi khuất, nếu không nhờ Bàn Tử tinh mắt, chúng tôi tuyệt đối không thể nhìn ra.

Điều này chứng tỏ đã có người vẽ chồng một tầng lên trên tấm bích họa gốc, che khuất hình vẽ ban đầu bằng hình vẽ này.

Tầng phía trên do phơi ngoài không khí, lâu dần tróc ra, để lộ bích họa đằng sau, chuyện này cũng thường xảy ra đối với tranh sơn dầu.

Bàn Tử tiếp tục lấy ngón tay lần lần trên bức bích họa, phát hiện ra tầng ngoài cùng này hình như cũng chưa được thi công hoàn thiện, cho nên Bàn Tử vừa cạo đại một cái đã có thể cào rụng lớp màu bên ngoài một cách đơn giản. Bằng không nếu như làm đủ thao tác, bích họa từ thời Đường trở đi đều phủ lên một lớp vật liệu trong suốt đặc thù; tầng này giống như lớp sơn bảo vệ hình vẽ, khiến cho nó không dễ bay màu, cũng không dễ tróc ra.

Đôi mày Trần Bì A Tứ nhíu lại thật chặt. Rất nhanh chóng, một mảng bích họa lớn cỡ cái chậu rửa mặt đã bị lột xuống, trên bức họa đằng sau xuất hiện nửa cỗ xe ngựa được vẽ với năm màu. Chủ nhân cỗ xe ngựa này là một người đàn ông phốp pháp, phục sức trên người ông ta tôi chưa thấy bao giờ.

Đây là loại bích họa tự sự, tôi bỗng nhiên cảm thấy hồi hộp.

Rõ ràng đã có người vẽ lên đây một tấm bích họa tự sự trước, nhưng vì nguyên nhân nào đó lại dùng một bức họa khác thay thế hết sức vội vàng, hơn nữa có lẽ do thời gian cấp bách nên không thể làm nốt thao tác cuối cùng để hoàn thành tấm bích họa bên ngoài này.

Trần Bì A Tứ ngắm nghía tấm bích họa này, lại nhìn quanh quất một vòng rồi nói với chúng tôi: "Thứ này... có liên quan tới thiên cung. Bóc toàn bộ mặt tường ra đi, để xem bức họa bên trong kể lại chuyện gì."

Tôi đã muốn ra tay từ khuya rồi, bèn từ một đầu khác chìa móng tay ra, cẩn thận làm việc, bóc đi lớp bích họa trên tường đá.

Bức họa bong ra từng mảng lớn, chỉ trong chốc lát, một cuộn tranh khí thế hào hùng, màu sắc tươi đẹp đã dần dần trải ra trước mắt chúng tôi...

_______________

Thiên n phi thiên ch là cô tiên bay lên gii thôi ( ̄)
Thế này này

Chương 14: Hai lớp bích họa

Bốn phía yên tĩnh đến rợn người, ngọn đèn bão được treo lên vách đá để tăng cường độ sáng, ánh đèn nhợt nhạt chiếu lên tầng nham thạch cho người ta cảm giác thần bí cổ xưa.

Màu sắc tấm bích họa vô cùng rực rỡ, chủ yếu dùng sắc đỏ tươi như máu, dưới ánh sáng chập chờn lại trở nên lấp lánh, dường như cả khối nham thạch đang ứa máu tươi. Bích họa ẩn giấu bên dưới một lớp phẩm màu khác lại được bảo tồn tốt đến nhường này, thật là không sao tưởng tượng nổi.

Nhưng nội dung tấm bích họa mới khiến chúng tôi thực sự kinh ngạc, những gì được vẽ trên đó rất khó diễn tả bằng lời. Tấm bích họa được chia làm hai phần, ghi lại hai sự kiện khác nhau nhưng khi ghép chung một chỗ trông vẫn rất hoàn chỉnh, đẹp đến lung linh huyền ảo.

Hoa hòa thượng thấy hai mắt tôi sáng rực lên thì lẩm bẩm: "Đây là cảnh tượng cuộc chiến giữa hoàng đế Vạn Nô của Đông Hạ và người Mông Cổ, cậu nhìn người này đi, xem ra y chính là Vạn Nô vương, đây rất có thể là trận chiến diệt nước Đông Hạ trong truyền thuyết."

Hiểu biết của tôi về Đông Hạ vô cùng hạn hẹp, những người khác hiển nhiên cũng không hơn gì, ai nấy đều yên lặng nghe ông ta nói tiếp.

Ông ta đi đi lại lại vừa trầm trồ thán phục, vừa ngắm nghía hình vẽ trước mặt rồi chỉ tay vào một vị trí trên bức bích họa, nơi có rất nhiều binh lính vai mang khôi giáp và da tê tê, nói: "Đây là quân Vạn Nô vương", lại chỉ vào kỵ binh bên kia: "Còn đây là lính Mông Cổ, các cậu xem, nhân số hơn xa quân Đông Hạ đến mấy lần, rõ ràng là một cuộc chiến không hề cân sức."

Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, thấy tên bay tán loạn đá bắn tứ tung, Bàn Tử nhìn một hồi chẳng hiểu sao lại cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi: "Vì sao quân Đông Hạ người nào người nấy mặt mũi trông như phụ nữ thế này?"

Tôi cũng thấy lạ, chẳng lẽ người Đông Hạ lại để phụ nữ ra trận đánh nhau sao? Nếu thế thì không mất nước cũng uổng. Hoa hòa thượng đáp: "Không phải, đây là một trong những đặc trưng của bích họa Đông Hạ, những người cậu nhìn thấy đều thanh tú mỹ miều, tôi cũng từng tra trong điển cố ra vài hiện tượng kỳ quái, hình như những ai đã từng tiếp xúc với người Đông Hạ đều nói ở Đông Hạ không thấy người già, dân nước này đều ở độ tuổi rất trẻ. Dân Triều Tiên thì kể rằng người Đông Hạ đến lúc chết vẫn giữ được dung mạo trẻ trung." *Đây là lí do anh Bình không bị lão hóa đó hả...*

Bàn Tử cau mày, dường như không thể nghĩ ra tại sao lại có chuyện như thế, tôi cảm thấy điều này có thể liên quan đến tập tục của một vài dân tộc thiểu số, có những tộc người không cho phép người già gặp khách. Tôi không quan tâm lắm, lại cùng mọi người tiếp tục xem xét.

Hoa hòa thượng lại chỉ tới phần thứ hai của bích họa, nói: "Phần này mô tả lại diễn biến trận đánh. Các cậu xem, người Đông Hạ lấy một chọi ba, cuối cùng lần lượt bị người Mông Cổ bắn chết, trận chiến này rốt cuộc biến thành một trận thảm sát."

Trên bích họa dùng rất nhiều mảng đỏ để diễn tả sự thảm khốc của chiến tranh, mang đến cảm giác rất thật, dường như như tôi đang được tận mắt chứng kiến từng nhóm từng nhóm quân Đông Hạ ngã vào vũng máu, kỵ binh Mông Cổ giẫm đạp lên thi thể của họ, bắt đầu thiêu hủy nhà cửa, tàn sát đàn ông.

Phần thứ ba của bích họa bị che khuất sau một tảng đá lớn, chúng tôi không thể dời đi nhưng có thể đoán biết nội dung của nó là phần kế tiếp hai bức kia.

Lúc này tôi bỗng cảm thấy ngờ vực, bèn nói chen vào: "Không đúng, cái nước Đông Hạ này chẳng phải đã bị người Mông Cổ tiêu diệt từ đời tám hoánh rồi sao? Tôi thấy trong tài liệu có nói bọn họ tồn tại được hơn bảy mươi năm, lại chinh chiến liên miên, nếu bảo Vân Đỉnh Thiên Cung là do bọn họ xây nên thì với điều kiện thời đó, một quốc gia nhỏ làm sao có thể xây dựng một lăng mộ quy mô hoành tráng nhường này?"

Tôi vừa dứt lời đã có nhiều người tỏ vẻ đồng tình, Đông Hạ là nhà nước xuất hiện trong thời gian rất ngắn ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang khi Nữ Chân diệt quốc, theo trí nhớ của tôi thì hoàng đế khai quốc Vạn Nô vương thậm chí còn không kịp truyền ngôi cho đời sau đã bị người Mông Cổ vòng qua Triều Tiên tiêu diệt. Đó chính là thời kỳ Mông Cổ hùng mạnh nhất, gặp thần giết thần gặp phật giết phật, cảnh tượng được mô tả trên bích họa nếu đúng là trận quyết chiến kia, với tính cách của người Mông Cổ, họ hẳn phải bị tàn sát sạch sẽ mới đúng.

Mà thời đó sức sản xuất của các bộ tộc Nữ Chân rất yếu kém, không thể huy động quá nhiều nhân công, dù không bị diệt quốc đi chăng nữa thì căn bản cũng không thể xây dựng nên một lăng mộ hoành tráng nhường này.

Theo lời Trần Bì A Tứ thì trong Vân Đỉnh Thiên Cung thật sự chôn cất hoàng đế Đông Hạ, chuyện này nghĩ sao cũng thấy thật hoang đường, bởi lẽ bọn họ không có đủ thời gian cũng như thực lực.

Càng vô lý hơn, nếu dựa theo những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển mà suy đoán thì tòa lăng mộ trong truyền thuyết này hẳn là do Uông Tàng Hải xây dựng, như vậy thời gian thi công có lẽ vào cuối triều Nguyên, khi đó nước Đông Hạ đã bị tiêu diệt từ hàng trăm năm trước, đào đâu ra hoàng đế Đông Hạ để mà chôn cất chứ.

Chúng tôi đều đưa mắt về phía Trần Bì A Tứ, lão chính là người nói ra câu hoàng dế Đông Hạ được táng trong Vân Đỉnh Thiên Cung, nhưng bây giờ xem xét lại thì dường như giả thiết này hoàn toàn sụp đổ.

Trần Bì A Tứ biết chúng tôi đang nghĩ gì, mặt mũi lạnh tanh liếc qua bích họa, cười nhạt một tiếng rồi nhìn sang Hoa hòa thượng: "Nếu các người không tin, vậy thì hòa thượng, anh nói cho bọn họ biết đi."

Hoa hòa thượng dạ một tiếng rồi quay sang chúng tôi cười nói: "Tôi biết các cậu đang hoài nghi điều gì, và tôi dám chắc các cậu đều nghĩ sai cả rồi. Những tài liệu viết về Đông Hạ mà các cậu đã xem hầu hết đều được suy ra từ mấy cuốn sách cổ không còn nguyên vẹn. Trên thực tế tài liệu về nước Đông Hạ còn lưu lại thật sự quá ít ỏi, ở nước ngoài người ta thậm chí còn không thừa nhận đã từng có một quốc gia như vậy tồn tại, cho nên thông tin các cậu thấy bây giờ thực ra cũng rất khó đánh giá độ chính xác."

Bàn Tử nói: "Nếu đã thế thì ông dựa vào đâu mà khẳng định tài liệu của ông là đúng."

Hoa hòa thượng trả lời: "Bởi vì tài liệu của chúng tôi trực quan hơn." Ông ta móc một tấm lụa trắng từ trong túi áo lót, trải ra trước mắt chúng tôi. Tôi vừa nhìn thấy, ruột gan bỗng chốc rơi tuột xuống.

Không ngờ thứ đó chính là con Xà mi đồng ngư trong buổi bán đấu giá.

Tại sao nó lại nằm trong tay bọn họ, chẳng phải đã nói là không có người mua sao? Tôi nhíu mày, đột nhiên hiểu ra.

Đã không có người mua, mà cá lại nằm trong tay Trần Bì A Tứ, vậy lẽ nào Trần Bì A Tứ chính là người bán?

Toàn thân tôi run rẩy, cố gắng giữ thân thể ổn định, không để cho bản thân lộ ra vẻ mặt quá mức kinh ngạc. Thế nhưng lòng mề đã xoắn thành một cục, vô số câu hỏi bùng nổ trong đầu, nhất thời cũng không biết mình đang sợ hãi hay là hưng phấn, chỉ thấy tay chân đột ngột lạnh ngắt như bị rút máu.

Hoa hòa thượng không hề để ý đến nét mặt của tôi, tiếp lời: "Loại cá đồng này là một biến thể của rồng, cụ nhà chúng tôi nhờ cơ duyên xảo hợp mới lấy được, tôi tin chắc người chế tác ra nó phải biết rõ nội tình nước Đông Hạ. Lạ nhất là người này sử dụng thủ pháp vô cùng khéo léo để lưu lại một đoạn thông tin tuyệt mật trên thân cá, các cậu xem đi."

Ông ta đưa con cá lại gần đèn bão, những mảnh vẩy cá mạ vàng phản chiếu ánh kim lấp lánh, in lên bức bích họa vô vàn điểm sáng li ti. Hoa hòa thượng dịch chuyển thân cá, những điểm sáng bắt đầu biến đổi, dần dần lại hóa thành những con chữ lốm đốm.

"Bí mật nằm ở đây, trên vẩy cá này tổng cộng ẩn giấu bốn mươi bảy chữ Nữ Chân."

Trong lòng tôi a lên một tiếng, thầm nhủ hóa ra còn có thứ kỹ xảo này. Tôi nắm chặt hai con Xà mi đồng ngư trong túi, lắp bắp hỏi ông ta: "Nó...nó viết cái gì vậy?"

"Vì tư liệu trên con cá không hoàn chỉnh nên tôi còn chưa giải mã được hết. Nhưng tôi có thể khẳng định, người làm ra con cá này muốn ghi lại vài chuyện mà không muốn người ta phát hiện ra, lưu giữ lịch sử chân thực của Đông Hạ." Hoa hòa thượng nói có phần đắc ý, "Thật ra trước khi nhìn thấy vật này, căn cứ vào rất nhiều dấu vết để lại, tôi đã suy đoán rằng nhà nước Đông Hạ chắc chắn từng tồn tại, có điều họ đã rút sâu vào núi lớn, vả lại không biết dựa vào điều gì mà một nhà nước nhỏ bé yếu ớt như thế vẫn đứng vững vàng giữa một bên là Mông Cổ hùng mạnh vô song, một bên là Triều Tiên như hổ đói rình mồi trong suốt mấy trăm năm. Tôi từng nghiên cứu ghi chép của Cao Ly (tên cũ ca Triu Tiên), mãi cho đến trước khi nhà Minh thành lập, còn có người đào sâm bắt gặp những kẻ ăn mặc kỳ quái hoạt động ở chỗ này. Tôi nghĩ đó là một bộ phận dân cư còn sót lại của nước Đông Hạ."

Ông ta lại chỉ vào con cá, nói tiếp: "Những mẩu ghi chép vụn vặt trong này đã chứng minh cách nghĩ của tôi là đúng. Nước Đông Hạ sau khi quyết chiến với Mông Cổ đã lui đến biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên, vẫn náu mình tồn tại suốt mấy trăm năm, tổng cộng có mười bốn vị hoàng đế. Mông Cổ và Triều Tiên không dưới một lần muốn tiêu diệt đất nước bé nhỏ này, nhưng vì một lý do kỳ lạ mà tất cả đều thất bại."

 "Lý do gì?" Phan Tử hỏi: "Hòa thượng, anh nói chuyện thẳng thắn chút được không?"

Hoa hòa thượng nhún vai: "Tôi không biết. Tư liệu trên con cá kia không đầy đủ, đảm bảo còn có vật khác ghi lại phần còn thiếu. Nhưng căn cứ vào những chữ trong tay, tôi dám nói nước Đông Hạ đứng vững được hẳn là vì đã có những chuyện vô cùng ly kỳ xảy ra, còn nội dung phía sau thế nào thì chịu. Chúng tôi vẫn luôn muốn tìm, nhưng tiếc thay ông cụ nhà chúng tôi đã lùng sục bao nhiêu năm vẫn không thấy những phần khác đâu cả." Ông ta ngừng một lát rồi lại nói: "Các cậu có biết câu cuối cùng trong đống chữ Nữ Chân này nói gì không?"

Tôi thầm nghĩ tụi này biết thế quái nào được, Diệp Thành đã tiếp lời: "Là gì?"

Hoa hòa thượng nhìn chúng tôi rồi bảo: "Trên này viết, Vạn Nô Vương của các triều đại đều không phải là người."

"Không phải người thì là cái quái gì?" Bàn Tử thốt lên.

Hoa hòa thượng cất con cá đi: "Trên này viết, bọn họ đều là một loại quái vật từ dưới lòng đất bò ra!"

Không phải chứ, tôi nghĩ thầm. Mọi người nhìn nhau, xem chừng trong lòng đều đã hơi rờn rợn. Diệp Thành lại hỏi: "Cũng không thể nói như thế được, hay ý họ muốn ví hoàng đế với rồng, chứ không phải người phàm?"

"Tôi vốn cũng nghĩ người này chỉ muốn dùng lối ví von chân long thiên tử vậy thôi, nhưng sau này nghiên cứu thêm mới phát hiện người này khả năng chỉ muốn ghi lại một vài bí mật, khách quan hơn so với ghi chép lịch sử của Đông Hạ, nên hẳn là sẽ không dùng ngôn ngữ cung kính vậy đâu. Hơn nữa, nếu sự thực đúng như lời anh nói thì hãy tưởng tượng mà xem, giả sử anh chúc thọ hoàng đế mà vừa mào đầu đã nhả một câu: bệ hạ, ngài thật không phải người, chỉ e câu thứ hai chưa nói ra anh đã bị lôi đi lăng trì rồi. Làm gì có ai viết kì cục như vậy." Ông ta cười khó hiểu: "Hơn nữa câu sau cùng viết cực kỳ rõ ràng, cực kỳ khiếm nhã, tôi vẫn canh cánh trong lòng. Nếu ta tìm được những phần khác thì hẳn là sẽ giải mã được rốt cuộc những lời này có ý nghĩa gì."

Bàn Tử và Muộn Du Bình đều biết kỳ thật hai con cá đồng còn lại hiện giờ đang ở trong tay tôi, nhưng vì thận trọng nên bọn họ đều không lên tiếng. Tôi bóp chặt cá đồng trong túi áo, đột nhiên cảm thấy chúng trở nên nặng trĩu.

Nhất thời tôi cũng không biết mình có nên lấy hai con cá này ra không. Thực ra hai con cá này đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không đọc được chữ Nữ Chân, có xem cũng chẳng hiểu cóc khô gì sất. Nhhưng nếu giao cho bọn họ thì tôi lại thấy không ổn chút nào.

Phan Tử nhìn chằm chằm vào tấm bích họa, lẩm bẩm với chính mình rằng người được cho là Vạn Nô vương trên bích họa kia trông cũng giống người chứ nào có vẻ gì là quái vật. Bàn Tử vỗ vỗ anh, nói với Hoa hòa thượng: "Anh Mặt Sẹo, tôi bảo này, anh giải mã cái quái gì, chúng ta là người thực dụng, đừng ra vẻ phần tử trí thức, đến lúc quan tài mở ra thì là người hay chó khắc rõ ràng ngay thôi."

Hoa hòa thượng cười cười lên tiếng: "Ý tôi là, biết người biết ta vẫn hơn."

"Có điều, thằng vẽ bích họa không dưng lại vẽ mấy cái này ở đây làm quái gì nhỉ?" Bàn Tử hỏi: "Để nhắc mình khỏi quên nợ nước thù nhà à?"

Hoa hòa thượng lắc đầu, hiển nhiên cũng không hiểu rõ lắm. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: "Có khi là muốn hoàn thành bích họa ở đây rồi dỡ cả khối đá xuống, còn không thì chắc là vẽ để giết thời gian thôi. Anh xem trong này ấm áp, có lẽ lúc đó thợ thuyền cũng vào đây nghỉ ngơi mà."

Chẳng ai thèm tin tôi. Hoa hòa thượng bắt đầu chụp lại mấy thứ này để lưu lại làm tư liệu.

Chúng tôi nghỉ ngơi đã đủ, dần dần hồi phục tinh thần, bắt đầu cắt lượt nghỉ ngơi. Trần Bì A Tứ lại cử người của lão thay phiên ra canh bên ngoài, chừng nào tuyết ngừng rơi thì bò vào báo cho chúng tôi, còn chúng tôi bắt đầu thay phiên nhau ngủ.

Khi tôi tỉnh giấc thì Thuận Tử cũng vừa tỉnh lại, không ngừng xin lỗi chúng tôi. Bàn Tử không thèm quan tâm đến hắn, tôi lấy đồ cho hắn ăn, lại bảo anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, tôi còn phải nhờ anh tiếp tục dẫn lên mà.

Trong này không có mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũng chẳng biết thời gian đã qua bao lâu, đại khái là chờ hai ba ngày thì tuyết rốt cuộc cũng ngừng rơi. Chúng tôi lục tục leo ra khỏi cái khe, bên ngoài đã trời quang mây tạnh, xung quanh là một thế giới bao la trắng xóa.

Sửa soạn lại trang bị mới phát hiện mấy ngày nay chúng tôi đã ăn quá nhiều, đoán chừng nếu không có tiếp tế thì chưa đi đến đích đã cạn sạch lương thực. Hỏi Thuận Tử xem có cách nào không, hắn nói đã lên vùng núi phủ tuyết thì bó tay rồi, bằng không phải quay trở về, hoặc là phân phối đồ ăn ra, chịu khó nhịn bớt một chút.

Lúc ở trong khe nứt, Trần Bì A Tứ đã dạy chúng tôi rất nhiều mánh lới sử dụng trên núi tuyết, ví dụ như dùng băng vệ sinh làm lót giày có thể hút mồ hôi, giữ cho bàn chân khô ráo, toàn thân ấm áp. Chúng tôi làm theo cách của lão, quả thật không tồi, có điều chính mình cũng thấy chướng, cứ nghĩ nếu vào cổ mộ rồi vứt lại mấy thứ này trong đó, vài năm sau có đội khảo cổ đào ra, nhìn thấy cái của nợ này nằm chình ình bên cạnh quan tài thì không biết sẽ có vẻ mặt gì. *Êm vái cả nón trí tưởng tượng phong cmn phú của bạn Tà =))*

Chúng tôi dùng dây thừng leo lên sườn dốc mà mình đã ngã xuống, thấy trên mặt đất chi chít những dấu chân ngựa mới tinh. Bàn Tử ngồi thụp xuống xem xét rồi nói: "Đám người A Ninh kia xem ra đã vượt qua chúng ta, giờ đang ở tít đằng trước rồi."

Chúng tôi không nói thêm lời nào, đeo kính chắn gió rồi gấp rút lên đường. Hai giờ sau, trên một sườn núi, chúng tôi thấy đội của A Ninh. Bọn họ hiển nhiên cũng chịu tổn thất rất lớn, ba mươi người giờ chỉ còn có hai mươi, số ngựa cũng bị rút xuống một nửa, nhìn toét mắt cũng không thấy tăm hơi chú Ba tôi đâu.

Chúng tôi bắt đầu lẳng lặng ẩn nấp, quan sát bọn họ. Tôi thấy A Ninh nâng ống nhòm chăm chú nhìn về một phía, muốn trông theo hướng cô ả đang nhìn nên cũng nheo mắt lại.

Chỉ thấy ngoài xa, không biết là trong màn tuyết hay mây mù, đứng sừng sững một ngọn núi tuyết lớn, hợp thành một thể với những mạch núi khác, lại cao chót vót đên bất thường. Đó chính là ngọn núi tuyết tôi từng thấy trong ngôi mộ dưới đáy biến sâu, hình dáng của nó dường như không khác mấy so với trong hình vẽ.

"Đúng chỗ này rồi." Tôi thầm nhủ trong lòng, chỉ vào ngọn núi kia, ngoảnh đầu lại hỏi Thuận Tử: "Kia là núi gì? Làm sao qua đó bây giờ?"

Thuận Tử đưa tay lên che nắng, vừa nhìn đã biến sắc: "Thì ra các anh muốn đến đấy à?! Chỗ kia không đi được đâu!"

Chương 15: Ngũ Thánh tuyết sơn

Chờ cho trận bão tuyết tan đi, chúng tôi tiếp tục lên đường. Trên một sườn dốc, chúng tôi thấy đoàn ngựa thồ của A Ninh, đồng thời cũng cũng phát hiện ngọn núi tuyết thần bí trên bức tranh trong cổ mộ dưới đáy biển đột ngột hiện ra nơi cuối tầm mắt. Nhưng vừa mở miệng hỏi đi đường nào để tới nơi thì Thuận Tử đã lắc đầu, nói chúng tôi tuyệt đối không thể đến đó.

"Tại sao?" Tôi nghi hoặc hỏi, thầm nghĩ không phải anh đã nói tám trăm dặm núi tuyết này, ngọn núi nào anh cũng đều đặt chân lên cả rồi ư? Sao ngọn kia lại không thể lên?

Thuận Tử giải thích: "Ngọn núi kia tên là Tam Thánh, núi này chỉ có một phần nhỏ thuộc về chúng ta, từ ranh giới phủ tuyết đổ về bên kia đều thuộc lãnh thổ Triều Tiên, chúng ta không thể vào được."

Bàn Tử đờ người một lúc, hỏi lại: "Mẹ kiếp! Không thể nào! Núi Tam Thánh, chẳng lẽ chính là ngọn núi tuyết năm xưa Bành tổng tư lệnh dẫn quân tiếp viện Triều Tiên kháng Mỹ, bộ phận hậu cần của quân tình nguyện đã xây dựng con đường huyết mạch vượt qua nó sao?"

(Bành tổng tư lệnh tức Bành Đức Hoài, người lãnh đạo Chí nguyện quân Trung quốc tham chiến ở Triều Tiên)

Thuận Tử gật đầu nói: "Phải, chính là ngọn núi kia. Độ cao so với mực nước biển của nó là hơn 3400 mét, vượt qua ngọn núi này chính là vùng núi non của Triều Tiên."

Tôi nghe vậy, trong lòng thầm nghĩ thôi tiêu rồi.

Ngọn núi Tam Thánh này, nếu ai đã từng đi lính hoặc có hứng thú với lịch sử cận đại của Trung Quốc thì đều biết trên thế giới có ba vùng biên giới khó vượt qua nhất, một là biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan, hai là biên giới Isarel và Li Băng, nơi còn lại chính là đường biên giới Tam Thánh chỉ dài vẻn vẹn 14 km này đây.

Thật ra hai nước Trung Quốc và Triều Tiên vốn có quan hệ hữu hảo từ lâu, người từng trải đều biết ở sườn tây dãy Trường Bạch có thể vượt qua đường biên giới một cách cực kì thoải mái, cũng không có quá nhiều cửa khẩu. Khoảng chừng năm 1996, vùng núi Trường Bạch phía Trung Quốc kinh tế khó khăn, cho nên có rất nhiều người thường xuyên vượt biên sang Triều Tiên để đào một thứ thảo dược gọi là "Cao sơn hồng cảnh thiên" bán lấy tiền. Tuy bộ đội Triều Tiên cũng truy bắt nhưng người Trung Quốc chạy trốn còn nhanh hơn, cứ như đánh du kích. Hơn nữa rất nhiều người tới đào trộm thảo dược còn mang theo thuốc lá và rượu, chẳng may có bị tóm thì lại dùng rượu và thuốc đút lót mà thoát thân. Thế nên trong một khoảng thời gian, vùng biên giới phía sườn tây này chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa.

Duy chỉ có đoạn biên giới Tam Thánh này vẫn được canh giữ vô cùng nghiêm ngặt, lí do vì sao chẳng ai rõ, nghe nói là vì đây là đoạn biên giới cổ giữa hai nước, bên ngoài tuyết tuyến chính là lãnh thổ Triều Tiên. Giai đoạn kháng Mỹ viện Triều, để nhanh chóng vận chuyển vật tư chiến lược tới Triều Tiên, người ta đã tạo ra trên núi rất nhiều đường giao thông và công sự ngầm tạm thời. Hai bên đều có thể thông qua tuyến đường giao thông này mà nhanh chóng dẫn quân sang nước kia, cho nên không canh phòng nghiêm ngặt không được.

Hiện giờ lượng đồ ăn dự trữ không cho phép chúng tôi đi vòng qua đường biên cảnh đặc biệt cao so với mực nước biển này. Cách duy nhất để kịp tiến độ chính là đi thẳng hướng núi Tam Thánh, trực tiếp vượt qua vùng biên cảnh Trung – Triều, sau đó tiến lên đỉnh núi tuyết.

Phiền toái của chúng tôi lần này không phải là cạm bẫy tinh xảo huyền bí khó lường hay bánh tông mà là đạn bắn ra từ súng trường tự động số 81 () cùng với ít thì một bài, nhiều thì một liên (*) quân đội chuyên nghiệp.

(*) Bài là đơn vị quân đội bao gồm hai hoặc ba ban, liên lại cao hơn bài, còn ban thì tương đương tiểu đội, nói chung cứ hiểu bài là trung đội, liên là đại đội đi.

Những người khác cũng ít nhiều hiểu được tình hình hiện tại ở núi Tam Thánh, ai nấy đều tỏ vẻ buồn rầu. Chúng tôi nhìn nhau mất một lúc, bước tiếp theo biết phải làm sao bây giờ?

Phan Tử an ủi chúng tôi nói: "Mọi người đừng vội, vùng biên cảnh này kiểu gì chẳng có con đường lậu để vượt biên. Ở đây Thuận Tử đã từng đi lính, chắc chắn sẽ biết, chúng ta có thể thuyết phục hắn dẫn đoàn đi, đến lúc đó cho hắn thêm tiền là xong."

Nói rồi quay sang hỏi Thuận Tử, không ngờ Thuận Tử lại kiên quyết lắc đầu, nói: "Không đi! Không có cách nào đâu! Đúng là bên kia có vài con đường qua biên giới nhưng toàn bộ đều được canh gác rất kĩ, cứ mười mét đặt một đèn pha. Đi từ chân núi lên đến đỉnh đến đâu cũng gặp cấm khu quân sự, tuy không đông người nhưng trạm gác lại dày đặc. Đừng nói quá cảnh, anh muốn đến gần huýt sáo một tiếng cũng không được. Lúc còn là lính tôi đã từng nhận lệnh nếu có người lạ đi vào tầm nhìn, lập tức phải bắn một phát súng chỉ thiên cảnh cáo. Nếu kẻ đó còn không lui, phát thứ hai sẽ bắn thẳng vào chân, không cần biết lí do."

Bàn Tử hỏi: "Chúng ta mua chút hoa quả mang theo, giả dạng là dân thường đến thăm hỏi có được không?"

Thuận Tử bật cười. "Anh nói giỡn hay thiệt! Tất nhiên là không thể. Thứ nhất đây không phải nơi có thể đục nước béo cò, thứ hai trên này kiếm đâu ra hoa quả, giữa băng tuyết ngợp trời mà chúng ta tự dưng mang hoa quả tới tận ranh giới tuyết của núi Trường Bạch, thà đi tay không còn đỡ khả nghi hơn."

Bàn Tử chặc lưỡi: "Vậy làm sao bây giờ? Cái biên giới cùi này mà đánh chết cũng không qua được? Tôi không tin, Macedonia (2) phòng thủ kiên cố vậy mà còn bị phá, nơi này có thể kiên cố hơn Macedonia được không? Tiên sư, có phải anh chê tiền ít hay không? Muốn bao nhiêu cứ việc nói thẳng."

(2) Macedonia là tên một vương quốc cổ ở phía bắc Hy Lạp. Vương quốc này đã từng là cường quốc trong lịch sử ở khu vực Cận Đông sau khi Alexandros Đại đế chinh phục hầu hết các nước lớn trên thế giới, bắt đầu hình thành Thời kỳ Hy Lạp hoá trong lịch sử Hy Lạp.

Thuận Tử khó xử vò đầu: "Ai dà, vấn đề không phải là chuyện tiền nong. Nếu thực sự có cách thì tôi còn gây khó dễ để vòi tiền làm gì. Nếu các người muốn sang Triều Tiên sao không nói sớm để tôi dẫn đi đường khác, giờ đã đến đây rồi tôi cũng chẳng biết làm thế nào."

Thuận Tử ăn nói dứt khoát, tỏ ý không thể thương lượng như vậy khiến chúng tôi đều bất ngờ. Vùng này không phải trù phú gì, vượt biên cảnh cũng không phải tội lớn, nếu thực sự có cách thì hẳn là Thuận Tử sẽ không giấu chúng tôi.

Đám Hoa hòa thượng không có chủ kiến, đành tới chỗ Trần Bì A Tứ hỏi lão xem thế nào.

Thật ra vấn đề bây giờ là tiếp tục đi hay quay về. Nếu đi tiếp thì sẽ y như lời Thuận Tử nói, phải đi vòng qua đoạn biên giới khác, thời gian có thể dài gấp đôi, hơn nữa vài ngày cuối cùng sẽ phải ôm bụng đói mà leo núi. Còn nếu không đi tiếp tức là trở về nghỉ ngơi cho hồi phục sức khỏe rồi mới quay lại, nói cách khác mấy ngày nay đều leo núi không công, bao nhiêu công sức vất vả khổ cực đều uổng phí cả.

Tôi thì muốn tiếp tục đi. Không biết chú Ba sắp xếp hành động cấp bách như vậy là có mục đích gì, vả lại đám người của A Ninh cũng gây ra áp lực rất lớn, lòng tôi chỉ mong sớm có thể thấy chú Ba. Đương nhiên lúc đó tôi nghĩ thế là vì hoàn toàn không hiểu cảm giác khốn khổ khi leo lên núi tuyết trong cơn đói khát là như thế nào.

Trần Bì A Tứ thở dài, hiển nhiên chính bản thân lão cũng không đoán được chuyện này lại phiền phức như vậy. Những kẻ này lúc ở Trường Sa đều là hạng già đầu trong nghề, xưa nay vẫn quen một tay che trời, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng dám làm, nhưng một khi chuyện có liên quan tới chính quyền thì cũng không dám chọc. Thế nên người ta mới nói "bần bất dữ phú đấu, phú bất dữ quan tranh" (người nghèo không dám đấu đá với kẻ giàu, kẻ giàu lại không dám đắc tội với quan lớn). Lão suy nghĩ nửa ngày trời vẫn không nói gì, đôi mày ngày càng nhíu chặt.

Tôi bắt đầu sốt ruột, liếc Muộn Du Bình một cái, muốn hỏi xem hắn nghĩ sao, nào ngờ hắn lại hoàn toàn không để ý đến cuộc thảo luận nãy giờ của chúng tôi, chỉ nhìn về ngọn núi tuyết xa xa, không biết trong lòng đang nghĩ gì, tựa như mọi chuyện đều không liên quan tới hắn.

Bàn tới bàn lui mà không ai nghĩ ra cách, đang lúc không biết phải làm gì thì Diệp Thành đứng cạnh gọi chúng tôi một tiếng.

Chúng tôi đều ngậm miệng, nhìn xuống chân núi thì phát hiện đoàn ngựa thồ của A Ninh lại bắt đầu di chuyển về phía trước. Nhìn hướng xuất phát của bọn họ thì mục tiêu không còn nghi ngờ gì nữa, chính là núi Tam Thánh.

Rất nhiều đồ đạc bị tháo xuống, vứt bừa bãi trên mặt tuyết, có lẽ là muốn giảm bớt trọng lượng để đi cho nhanh, nhìn xuống dưới chân núi tuyết chỉ thấy một đống lộn xộn.

Diệp Thành nghi hoặc nói: "Lạ thật, đám người kia không biết phía trước là đường biên cảnh sao? Người dẫn đường bên đó uống lộn thuốc rồi hả? Theo như lời Thuận Tử nói, bọn họ đeo nhiều vũ khí trên lưng như thế, không phải sẽ trở thành cái bia cho người ta tập bắn đạn thật hay sao?"

Tôi lắc đầu ý nói không thể có chuyện đó. Tôi biết cách làm việc của công ty bọn họ, chắc chắn phải có dân địa phương dẫn đường, hơn nữa không chỉ một người. Một công ty khảo sát tư nhân chuyên nghiệp như vậy chắc chắn rất am hiểu thế nào là điều tra nghiên cứu cũng như quan hệ với chính quyền. Hiểu biết của họ về nơi này chắc chắn hơn chúng tôi rất nhiều lần, hơn nữa lộ trình chắc chắn đã được cố định từ trước, sẽ không dễ dàng thay đổi.

Bàn Tử hoài nghi năng lực nghiệp vụ của Thuận Tử, liền hỏi hắn giải thích chuyện này thế nào. Phải chăng có người khác biết con đường mà hắn không biết?

Thuận Tử nheo mắt nhìn rồi đáp: " Đi kiểu đó thì chỉ có một khả năng, chính là bọn họ muốn từ con đèo trước mặt, vòng lên một ngọn núi khác, sau đó bỏ qua đoạn có đường biên cảnh kia, sang đất Triều Tiên rồi mới quay lại núi Tam Thánh, cách này tuy cũng khá phiêu lưu nhưng còn đỡ hơn là đột nhập phòng tuyến biên giới. Đội ngũ của họ đông hơn chúng ta rất nhiều, nếu chuẩn bị đầy đủ lương thực, hoặc là đã thông đồng với bên Triều Tiên thì hoàn toàn có thể vượt qua đoạn đường dài này."

"Thế mình phải làm sao đây? Hay là đuổi kịp bọn họ rồi tính sau?" Diệp Thành quay sang hỏi Trần Bì A Tứ.

Trần Bì A Tứ lắc lắc đầu, cũng không mở miệng. Đột nhiên, lão chỉ tay về hướng một ngọn núi phủ tuyết trắng xóa bên cạnh Tam Thánh rồi hỏi Thuận Tử: "Kia là núi gì?"

Thuận Tử nhìn qua ống nhò, đáp: "Đó là núi tuyết Tiểu Thánh, ngọn núi này nằm trong lãnh thổ nước ta. Tam Thánh cùng với Tiểu Thánh, cộng thêm núi Đại Thánh phía bên kia nữa, thường được gọi là Ngũ Thánh."

Trần Bì A Tứ lại hỏi: "Từ đây có đường nào tới núi Tiểu Thánh kia không?"

Lời này vừa dứt, mọi người đều sửng sốt. Không biết lão già này muốn gì đây? Thuận Tử cũng thấy lạ, bèn đáp: "Không có vấn đề gì. Đi một ngày là đến nơi thôi, hơn nữa chỗ đó cũng xa trạm gác, phong cảnh không tồi. Chỉ có điều đường hơi khó đi."

Trần Bì A Tứ phủi phủi tuyết bám trên quần, đứng lên nói với Thuận Tử: "Đi thôi. Dẫn chúng ta tới đó là được."

Mọi người chẳng hiểu mô tê gì, Hoa hòa thượng lập tức nhắc nhở: "Tại sao vậy? Lão gia, đi tới đó chỉ tổ lãng phí thời gian, chúng ta không đủ lương thực để duy trì lâu như vậy..."

Trần Bì A Tứ khoát tay, chỉ sơn mạch kéo dài không dứt, nói: "Nơi này thế núi dài như sợi chỉ, quanh năm tuyết phủ, ba ngọn núi bao quát xung quanh, là một thế Tam đầu lão long rất hiếm gặp, Đại phong thủy gọi đây là thế "Quần long tọa". Ba ngọn núi này đều là đầu rồng, cực kì thích hợp để quần táng. Nếu Thiên cung quả thực nằm sau những vách đá dựng đứng của ngọn núi trung tâm là Tam Thánh, thì trong hai cái đầu rồng nhỏ hai bên hẳn là còn có lăng bồi táng của hoàng hậu hoặc cận thần chi đó."

Kết cấu của Tam đầu long hết sức kì lạ, ba đầu rồng phải nối liền với nhau, bằng không ba con rồng sẽ tự ý bay về trời, mất phương hướng và tụ thành một mớ hỗn loạn. Chôn cất ở đây sẽ khiến cho anh em con cháu tàn sát, cho nên nếu có lăng bồi táng thì phía dưới lăng mộ tất nhiên sẽ phải có con đường bí mật nối liền với lăng nằm chính giữa là thiên cung.

Trong lịch sử cũng có rất nhiều cổ mộ Tam đầu long. Ví như năm 1987 khai quật được một lăng mộ thời Chiến quốc trên núi Mang Sơn, là tam tử liên táng, chính là ba cổ mộ có liên hệ với nhau, chia ra ba đỉnh núi nằm trong cùng một sơn mạch. Hai cổ mộ hai bên lúc đầu cũng có thông đạo đường kính khoảng nửa mét nối với mộ chính ở giữa, đáng tiếc vào thời điểm khai quật thông đạo này đã sụp, thế nên đội khảo cổ cũng không biết những con đường này có thật sự thông với nhau hay chỉ là một cách bài trí tượng trưng.

Chúng tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, chỉ thấy ba ngọn núi tuyết vắt ngang nơi cùng trời cuối đất, trông chẳng khác gì những ngọn núi tuyết xung quanh, không biết Trần Bì A Tứ dựa vào đâu mà phán đoán như thế.

Trần Bì A Tứ nói rồi nhìn thoáng qua Muộn Du Bình, hỏi hắn: "Tiểu ca, ta nói đúng chứ?"

Đây là lần đầu tiên Muộn Du Bình có phản ứng với câu hỏi của người khác, hắn quay đầu lại nhìn lướt qua Trần Bì A Tứ, nhưng không nói gì cả, lại quay đầu tiếp tục ngắm núi tuyết phía xa.

Chúng tôi đều không hiểu Đại đầu phong thủy, nghe thế như lạc giữa sương mù, trong lòng cảm thấy mơ hồ. Nhưng nếu như lão già này đã nói thế, Muộn Du Bình tựa hồ cũng đồng ý, vậy thì tốt hơn hết đừng có nghi ngờ.

Xuống đến chân núi nơi mà đám người của A Ninh vừa dời đi, chúng tôi thấy hành lí bị bỏ lại nằm la liệt trên mặt tuyết, hầu hết đều đã bị lục tung lên, bên trong không hề có lương thực, hiển nhiên tất cả trang bị đều đã được sàng lọc một lần, những thứ vô dụng hoặc trùng lặp đều bị bỏ lại.

Bàn Tử thậm chí còn tìm được mấy cây súng, nhưng đạn bên trong đã bị mang đi sạch sẽ, chỉ còn cái vỏ không. Bàn Tử nhặt súng, đeo lên lưng tính mang theo nhưng bị Thuận Tử ngăn cản, nói lưng anh đeo súng, nếu chạm mặt bộ đội biên phòng ở đây thì khó mà giải thích, nếu không có súng thì tôi còn nói đỡ cho mọi người được. Bàn Tử chỉ đành chép miệng tiếc rẻ.

Đi hết sườn dốc bằng phẳng nằm dưới chân núi mà A Ninh đã bước qua là đến một khe núi, chúng tôi thấy dấu chân đoàn ngựa thồ của cô ả kéo dài, chui sâu vào khe núi đó.

Chúng tôi cũng dừng chân, chỉnh đốn một chút, rồi Thuận Tử dẫn chúng tôi đi ngoặt sang hướng núi Tiểu Thánh. Rất nhanh, chúng tôi đã tiến vào thế giới bao phủ trong một màu trắng xóa, phóng tầm mắt ra xa cũng chỉ thấy tuyết che kín chân trời cùng với những mỏm núi hay nhũ băng hiếm khi lộ ra.

Núi Trường Bạch có lẽ là ngọn núi tuyết duy nhất trên thế giới có thể leo lên. Cảnh vật nơi này còn đẹp hơn cả sông băng núi Côn Luân, lại không có những kẽ nứt lớn dưới lớp băng nên không cần lo dưới chân đột ngột sụp xuống. Nhưng sông băng trên núi Trường Bạch cũng là dạng sông băng cổ điển hình, núi liên kết không chắc chắn tạo ra những dạng địa hình băng hà phổ biến như động hình cối, hồ băng khổng lồ, giếng băng sâu không thấy đáy. Dù sao tôi cũng không rành địa hình núi tuyết cho lắm nên không biết giải thích gì cả, chỉ biết khi đi thường xuyên gặp đường cụt. Vách núi cao vạn trượng, dù là đi vòng qua bên cạnh hay nằm úp sấp mà bò qua thì vẫn hết sức nguy hiểm.

Dọc đường không ai nói câu nào, nếu gióng theo đường chim bay thì khoảng cách này chỉ cần đi mấy giờ mà chúng tôi phải mất gần một ngày mới đến, khi tới khe núi dưới chân núi Tiểu Thánh đã là chạng vạng tối ngày hôm đó.

Chúng tôi đào một cái hố rồi hạ trại trên sườn dốc phủ tuyết cao hơn khe núi chừng năm sáu trăm mét, ăn chút đồ nóng. Bầu trời sao trên núi cao trong sáng vô ngần, Trần Bì A Tứ lấy ra một cái kim chỉ nam, kết hợp với la bàn thiên văn trong đầu, xem vị trí các ngôi sao trên bầu trời để vạch ra lộ trình khái quát cho ngày mai.

Tuy dọc đường đi đã mệt lử cả người, nhưng trời vừa sáng, Bàn Tử đã quấn lấy Thuận Tử, hỏi xem quanh đây có suối nước nóng không.

Thuận Tử cũng nghĩ đến suối nước nóng, nhưng hắn nói nơi này rất cao so với mực nước biển, hắn cũng không hay lui tới, muốn tìm suối nước nóng có hơi khó. Nếu chán có thể đi dạo xung quanh để tìm thử xem sao, nhân tiện có thể tới thăm địa điểm băng táng của người cổ đại, cách nơi chúng tôi hạ trại có hơn 1 km thôi.

Dân đổ đấu luôn có cảm tình đặc biệt với thi thể, dù sao cũng rỗi rãi không có gì làm, nghe nói có người chết chúng tôi đều nảy sinh lòng hiếu kì.

Trần Bì A Tứ thể lực không tốt, Hoa hòa thượng ở lại chăm sóc lão, còn những người khác đều đi theo Thuận Tử hướng về sơn cốc phía bên trái. Đi không tới nửa giờ đã tiến vào một vách núi, bên dưới là hố băng tối đen một màu, chẳng nhìn thấy gì.

Thuận Tử tìm chỗ thuận tiện để dừng chân, nhóm lên một đống lửa nguội lạnh bị bỏ lại.

Chỉ thấy trong những tầng băng dưới đáy hố quả nhiên có rất nhiều cái bóng đen cuộn thành một đám, quấn quít vào nhau, có thể nhìn rõ hình dáng con người. Có nhiều cái chỉ còn lại một điểm đen, xung quanh hố băng thậm chí còn có vài dấu vết hiến tế.

Thuận Tử nói người dân trên núi này từ xa xưa đã phổ biến hình thức băng táng, thời kì đầu giải phóng vẫn có người được mai tang trong hố băng này, thế nên bây giờ thỉnh thoảng lại có người già đến đây bái tế. Sông băng nơi này mỗi năm lại thêm dày, cho nên anh hãy xem lớp thi thể tận cùng bên dưới kia đi, những chấm nhỏ nhìn không còn rõ nữa ấy, niên đại có khi đã được hơn ngàn năm rồi, mà lớp ngoài cùng dễ cũng phải vài chục năm.

Tôi đếm sơ sơ, chỉ tính những điểm đen có thể nhìn thấy cũng lên đến hàng ngàn hàng vạn rồi. Hiển nhiên ngôi mộ băng này trải qua mấy ngàn năm không biết đã tích tụ bao nhiêu thi thể, bên trong núi Tiểu Thánh kia hẳn là cũng có những hố băng như thế, tòa núi tuyết này chẳng phải chính là một nhà mồ vĩ đại hay sao.

"Trong những thi thể dưới kia, không biết có cả những nô lệ Đông Hạ xây dựng linh cung năm đó không nhỉ?" Bàn Tử đột nhiên cất giọng hỏi.

"Cũng chưa chắc." Muộn Du Bình nhìn vào điểm sâu tận cùng bên trong hố băng, ánh mắt lạnh lùng dần dần trở nên u ám, không biết đang nghĩ gì.

Thi thể chôn trong băng, cũng không thể nào đào lên được. Chúng tôi đi một vòng, thấy nhàm chán vô vị, thế là lại đi tìm suối nước nóng, không ngờ cũng tìm được một lạch nước nóng cỡ nhỏ. Mấy người rửa sạch mặt mũi chân tay dưới suối, cả người thấy ấm áp dễ chịu rồi quay về trại kể lại chuyện vừa nãy, khiến Hoa hòa thượng không thôi tiếc rẻ.

Trên núi tuyết kể cũng kì quái, người ấm áp cũng mệt rã rời, người đông cứng tưởng sắp chết đến nơi cũng mệt rã rời. Cơm chiều của chúng tôi là mì sợi, ăn xong căng da bụng chùng da mắt, bên ngoài lại nổi gió, chúng tôi sớm chui vào túi ngủ nghỉ ngơi, để Thuận Tử canh gác ca đầu tiên. Chúng tôi nhiều người, không cần phải thay phiên nhau hết trong một ngày, tốp canh gác luân phiên hôm nay là ba người Thuận Tử, Lang Phong và Phan Tử.

Tôi mệt mỏi rã rời, rất nhanh chìm vào giấc ngủ. Cứ nghĩ có thể đánh một giấc ngon lành, không ngờ vừa mới chợp mắt được chừng một tiếng, Hoa hòa thượng, Bàn Tử, Lang Phong và Phan Tử đã bắt đầu ngáy pho pho, liên miên không dứt cứ như giàn nhạc giao hưởng đang hòa tấu, khiến tôi gặp ác mộng mà tỉnh giấc.

Lần này trằn trọc mãi vẫn không ngủ lại được, nằm lại khó chịu nên tôi chui ra ngoài lều, bảo Thuận Tử tôi với anh đổi ca, tôi thay cho anh, anh vào ngủ một giấc đi.

Thuận Tử đang ngồi an nhàn hút thuốc, ngây người nhìn một bóng núi lớn màu đen in dưới ánh trăng. Nghe tôi nói muốn thay ca, hắn bèn lắc đầu nói không cần, đã cầm tiền của chúng tôi rồi mà việc này cũng không làm nổi thì không hay cho lắm.

Lòng tôi nghĩ tùy anh, lấy ra một điếu thuốc, mượn hắn cái bật lửa, sau đó vừa đi cho thêm củi vào bếp lò vừa chuyện phiếm với hắn. *sao hông châm lửa từ bếp cho đỡ phí =))*

Nói chuyện phiếm với người dẫn đường là cách mở mang kiến thức rất tốt. Tôi kể cho hắn nghe rất nhiều về cổ mộ, hắn tỏ ra khá thích thú. Hắn cũng kể cho tôi rất nhiều câu chuyện phong thổ nhân tình trong vùng lẫn những chuyện kì thú trong rừng núi, tôi say sưa nghe không biết mệt, hai người chúng tôi càng nói càng sôi nổi.

Sau đó bắt đầu nói về cuộc thám hiểm của chúng tôi. Thuận Tử cho tôi biết hắn từng làm lính biên phòng bảy năm, nhưng có bốn năm làm quân dự bị, trước khi nhập ngũ hắn vốn làm nghề hái thảo dược cho nên rất quen thuộc với vùng núi tuyết này. Bạn bè đều gọi hắn là "A lang tài", tức là đứa con của núi tuyết, cho nên chúng tôi đi theo hắn có thể tuyệt đối yên tâm. Núi non ở đây, người có thể dẫn đường không nhiều lắm, hắm cũng xem như là một trong số đó.

Trong lòng tôi bắt đầu nghi ngờ, thầm nghĩ đã vậy sao anh còn chưa lên núi đã bất tỉnh, cái này khẳng định là khoác lác rồi. Nhưng xem hắn nói trịnh trọng như vậy, cũng không cần thiết phải đập tan hứng thú của hắn, nên cũng ngồi yên mà nghe hắn nói.

Trò chuyện một hồi, chủ đề cũng ngày một đa dạng, khoảng cách giữa chúng tôi dần được thu hẹp. Đúng lúc này, Thuận Tử đột ngột hỏi tôi: "Cậu chủ Ngô ... Thực ra các cậu vào trong núi rốt cuộc là để làm gì? Cậu có thể cho tôi biết không?"

Tôi nghe thế liền ngẩn người, không biết đáp sao cho phải, bầu không khí giữa hai người chúng tôi lại chìm vào thinh lặng.

Mục đích của chúng tôi sao, tôi biết nói thế nào đây. Nói là đi tìm Vân Đỉnh thiên cung, anh có tin không? Nói là đến trộm mộ cũng không được, bảo đi du lịch càng không đúng, quả là khó mở miệng. Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng đành thở dài: "Anh quan tâm chuyện này làm gì, tôi không thể nói được."

Thuận Tử dường như cũng đoán trước câu trả lời của tôi, chỉ cười cười nói: "Không sao đâu, tôi chỉ thuận miệng hỏi thôi."

Trong lòng tôi cảm thấy không thoải mái, bởi tôi không muốn lừa hắn, đành chuyển qua đề tài khác. Tôi hỏi hắn trước kia là người hái thảo dược, tại sao lại chuyển sang làm nghề dẫn đường lên núi?

Hái thảo dược trên núi Trường Bạch cũng kiếm được kha khá, so với cái nghề dẫn đường vất vả này thì thoải mái hơn nhiều, cũng bởi lí do này mà bây giờ rất hiếm người làm nghề dẫn đường lên núi tuyết.

Thuận Tử liếc tôi một cái, đột nhiên nói ra một câu khiến tôi muốn ói máu.

Hắn nói: "Tôi không phải dẫn đường chuyên nghiệp, sau khi xuất ngũ tôi vẫn thường đi hái thảo dược, chỉ dẫn người lên núi có vài lần nhưng chưa bao giờ vào sâu đến thế này. Bình thường cũng chỉ quanh quẩn bên hồ "Cô Nương" dưới kia thôi, đây là lần đầu tiên tôi dẫn người lên đến chỗ này."

Tôi cười nói: "Đừng đùa chứ!"

"Thật đó cậu chủ Ngô. Tôi có sao nói vậy thôi, vào mùa này chẳng có người dẫn đường chuyên nghiệp nào chịu đưa các cậu vào núi tuyết đâu, nếu tôi không làm thì các cậu chỉ có nước tự mình mò mẫm đi vào." Hắn lại nhìn tôi cười cười: "Như thế thật quá nguy hiểm. Nếu không nhờ bồ tát phù hộ thì chúng ta chết cả rồi, có thể vào được đến đây mà không thiếu một ai đã là kì tích. Nhưng các cậu cũng không cần lo lắng, tuy tôi chưa từng dẫn người tới đây nhưng bản thân đã vào rất nhiều lần, rất quen thuộc với nơi này nên sẽ không sao đâu."

Vẻ mặt hắn khi nói chuyện cực kì nghiêm túc, không giống như đang nói giỡn. Trong lòng tôi chửi thầm, lại nghi hoặc hỏi: "Nơi đó nếu nguy hiểm thế sao anh còn dẫn chúng tôi đi? Anh vì chút tiền như vậy có đáng không?"

Thuận Tử nhìn tôi bằng ánh mắt sâu xa, nói: "Tiền là một phần, ngoài ra còn có nguyên nhân khác.... Là vì cha tôi, ông ấy... mất tích vào mười năm trước. Năm đó, ông ấy cũng dẫn một đám người lên núi tuyết, lộ trình so với các cậu bây giờ cũng không khác biệt lắm, nhưng cuối cùng cả đoàn người đều biến mất trên núi. Tôi chỉ nhớ loáng thoáng, trang phục của mấy người khách đến tìm cha tôi rất giống các cậu, cũng vào mùa đông, cũng là không thể không lên núi. Thế nên khi thấy các cậu, đột nhiên tôi có cảm giác mình nhất định phải theo các cậu vào trong núi. Thứ nhất tôi không muốn các cậu lại chết trong núi giống cha tôi, thứ hai, tôi có một ý nghĩ ngây thơ rằng có lẽ mục đích các cậu lên núi cũng giống nhóm người mười năm trước. Đi theo các cậu, có thể tôi sẽ biết cha tôi năm đó rốt cuộc đã gặp phải chuyện gì. Đương nhiên những điều này chỉ là suy đoán của tôi thôi." Hắn tự cười giễu chính mình: "Có khi cha tôi chỉ đơn giản là gặp tuyết lở, bị chôn vùi dưới lớp tuyết dày ở đâu đó trên núi tuyết này mà thôi."

Tôi đã hiểu ra, hỏi tiếp: "Vậy nên anh mới hỏi mục đích chúng tôi lên núi?"

Thuận Tử ngượng ngùng gật gật đầu: "Ài, cậu không biết đâu. Cái cảm giác khi biết cha mình đang an giấc nghìn thu dưới lớp tuyết này, nhưng lại không sao nhìn thấu."

Tôi không ngờ nội tâm của Thuận Tử cũng có lúc tinh tế đến vậy, không khỏi nhìn hắn với cặp mắt khác. Trước đây tôi chỉ nghĩ hắn là một hướng dẫn viên du lịch bình thường, mồm miệng láu lỉnh chút thôi.

Nhưng đám người mười năm trước đi vào núi tuyết rồi mất tích ấy cũng trang bị giống chúng tôi, chẳng lẽ họ cũng tìm đến Vân Đỉnh thiên cung? Tim tôi thắt lại, nhưng ngay lập tức lại phủ định ý nghĩ của mình. Không, không thể có chuyện đó. Trên núi Trường Bạch này, những nơi có thể khiến một người mất tích rất nhiều, không thể nào trùng hợp đến thế được. Cha hắn có lẽ đã gặp phải điều gì đó bất trắc mà tử nạn trên núi thôi.

Thuận Tử thấy tôi không nói gì, nghĩ có lẽ vừa rồi mình hỏi câu kia có phần hơi quá phận, liền nói: "Cậu chủ Ngô, tôi thấy cậu không giống những người còn lại mới nói với cậu chuyện này, mong cậu đừng nói lại cho người khác, tôi sợ bọn họ sẽ lo lắng."

Lòng tôi thầm nghĩ, tôi chắc chắn sẽ không nói ra đây là lần lầu tiên anh dẫn người tới nơi này. Chưa cần nói đám người Trần Bì A Tứ sẽ xâu xé anh như thế nào, chỉ riêng Bàn Tử có thể đã đánh chết anh luôn rồi.

Tôi gật đầu đồng ý. Lúc này, người gác ca hai là Lang Phong đã chui từ trong lều ra, ngáp dài một tiếng. Thấy hai người chúng tôi đang tán gẫu, hắn cũng hơi bất ngờ. Thuận Tử dọn dẹp lại đồ của mình, ra ngoài đi tiểu rồi vào lều ngủ. Tôi và Lang Phong không có chuyện gì để nói, bèn chào nhau một câu cho có rồi vào lều ngủ tiếp.

Giữa những tiếng ngáy o o như sấm, tôi nửa tỉnh nửa mê, mơ thấy cha của Thuận Tử mười năm về trước, chính là Thuận Tử mọc thêm râu ria, đang dẫn một đám người lên núi. Điều kì lạ chính là, trong mơ tôi cứ có cảm giác hình như mình đã gặp mấy người kia ở đâu rồi, lăn qua lăn lại, ngủ không ngon giấc.

Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, chúng tôi đã tiếp tục thuận theo sơn mạch mà leo lên.

Căn cứ vào câu hỏi của Thuận Tử hôm qua, hắn hẳn đã biết chúng tôi không phải khách leo núi ngắm cảnh bình thường. Tôi biết chúng tôi ngụy trang không khéo, ít nhất cũng chẳng có khách du lịch nào lại gấp rút lên đường như phát rồ thế. Nhưng chúng tôi cũng không cần để ý quá nhiều, dù sao hắn làm hướng dẫn viên du lịch ở núi Trường Bạch này, cũng sớm tiếp đón nhiều đám khách thần bí đủ loại. Nơi này hàng năm không một ngàn thì cũng tám trăm người lui tới, đủ loại người, từ đám săn trộm, người Triều Tiên hành hương, người hái thuốc nhập cư trái phép... Ai cũng có bí mật riêng. Chúng tôi đang làm gì, cứ để hắn tự đoán đi.

Đường trên núi càng lúc càng khó đi, nhiều đoạn đường còn bị nghiêng. Trên đỉnh đầu là núi tuyết cao vạn trượng, rất dễ sạt lở, đến lớn tiếng nói chuyện cũng không được. Tuyết trên đường đi lại quá dày, tầng tuyết này tích tụ đã mấy ngàn năm, bên dưới hầu như trống rỗng, thỉnh thoảng lại có người đột ngột sa xuống tuyết, ngập tới tận ngực, nếu không có ai giúp thì không thể tự mình bò lên. Chúng tôi chỉ còn cách cẩn thận dùng một cây nhũ băng dài, từng chút một dò từng bước chân giống như đi trong bãi mìn.

Bàn Tử bước đi nhanh nhất, cái này cũng do trước đây hắn từng có kinh nghiệm thám hiểm đất tuyết, cứ thế đi tít đằng trước. Vì chứng say núi nên đầu lưỡi chúng tôi bắt đầu ngứa ngáy, ngoại trừ Trần Bì A Tứ đột ngột đổi hướng đi, cuối cùng bốn bề chỉ còn lại tiếng thở gấp, cả thế giới lặng thinh tựa như không có sinh vật sống nào.

Qua con đường tuyết trên sườn núi, chúng tôi tới một nơi mà hai mặt đều là sườn núi lớn phủ đầy băng. Nơi này quanh năm không thấy ánh mặt trời, tuyết đóng cứng xuống mặt đất, núi càng lên lại càng dốc, không khí giá lạnh. Vào bên trong, chúng tôi rốt cuộc cũng thấy đầu rồng mà Trần Bì A Tứ nói. Đó là một vách đá dốc tạo với ngọn núi một góc nhọn sáu mươi độ, bên trên tuyết phủ trắng xóa.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên trên, từng người từng người một, dốc hết sức lực, bắt đầu dùng đến dùi băng để leo lên con dốc đứng kia.

Ngọn Tiểu Thánh này không nằm trong hệ thống mười sáu ngọn núi của dãy Trường Bạch, cho nên khi mới tới đây chúng tôi cũng không chú ý nhiều lắm, nhưng nó cũng không phải một ngọn núi vô danh. Núi này đối diện với đỉnh Đại Thánh phía đằng xa, ở giữa tạo nên một cái khe nằm phía trước núi tuyết Tam Thánh, giống như hai vệ sĩ gác cửa vậy. Cảnh tượng này được gọi là thiên binh thủ tiên môn.

Theo Tiểu phong thủy, tiên môn là hai ngọn núi hổ cứ long bàn (thế cọp chầu rồng cuộn, ý nói địa thế hiểm trở), khí thôn vạn hướng, nếu không nằm ở vùng biên giới Trung Quốc – Triều Tiên xưa nay không ngừng phân tranh lãnh thổ thì nơi này đương nhiên sẽ trở thành khu tập trung mộ táng của dòng dõi quý tộc hoàng cung. Trên đường đi tới đây, ngay cả một đứa gà mờ như tôi cũng nhìn ra hướng sơn mạch nơi này khá kì lạ, tràn ngập một thứ long khí ngút trời, cho nên chúng tôi ngày càng tin tưởng vào giả thiết có lăng mộ nằm trên núi.

Đi đường dốc không như đi trên đất bằng, thể lực tiêu hao rất nhiều. Trần Bì A Tứ bò một lúc thể lực đã cạn kiệt, rốt cuộc không đi nổi nữa, Lang Phong đành phải cõng lão ta, vì thế mọi người đi càng chậm.

Chúng tôi đi thêm chừng ba giờ nữa, rốt cuộc cũng lên được sườn dốc tuyết phủ. Lúc này tôi đã gần như mất đi thần trí, hoàn toàn dựa vào phản xạ mà đi theo Bàn Tử.

Bàn Tử là người đầu tiên tới nơi, thể lực tốt như hắn mà cũng đã tới cực hạn. Đặt chân lên mặt tuyết bên trên rồi, có vẻ thần trí hắn cũng không còn tỉnh táo, giả bộ dùng sức dẫm thành mấy dấu chân, dang hai tay ra nói với chúng tôi: "Đối với cá nhân tôi thì đây chỉ là một bước tiến nhỏ, nhưng đối với Mô Kim hiệu úy lại là một bước nhảy vọt." (Nhại câu nói của Neil Armstrong khi đi bước đầu tiên trên mặt trăng =))))) Sau đó nằm úp mặt xuống tuyết, không hề nhúc nhích.

Người tôi cứ lâng lâng, hai chân bất giác nhũn cả ra, người bắt đầu trượt xuống. Phan Tử định xốc cho tôi đứng lên nhưng lôi vài cái tôi vẫn không có sức mà đứng thẳng, chính anh cũng bị tôi kéo ngã xuống đất.

Tôi lấy cái đục băng, dùng sức bổ lên mặt tuyết, lúc này mới giữ vững được cơ thể. Những người khác cũng đều ngã xuống đất, miệng thở ra toàn khói trắng, nhìn bốn phía xung quanh.

Sườn dốc phủ tuyết này đúng là rất rộng, nhìn trái nhìn phải đều không thấy ranh giới, nếu không có Trần Bì A Tứ chỉ đường thì tuyệt đối không có cảm giác gì đặc biệt. Tuyết bao phủ mặt đất vô cùng bằng phẳng, chỉ có mấy khối đá màu đen đột ngột lộ ra trên tuyết.

Núi Tam Thánh lúc này nằm ngay bên trái chúng tôi, xem ra đã gần hơn rất nhiều so với ngày hôm qua. Trên đỉnh núi thánh là tuyết trắng bao trùm, cả khối núi đứng sừng sững giống như một con quái thú, đầu trắng xóa, thân đen tuyền, dốc hơn rất nhiều so với những ngọn núi xung quanh. Ánh nắng chiều chiếu xuống tạo nên một màu lam nhạt kì quái như sương mù bao phủ lên ngọn núi, tiên khí ẩn hiện, cảnh sắc quả thực rung động lòng người.

Diệp Thành vừa thở gấp, vừa bùi ngùi nói: "Đẹp ghê, hèn chi người ta nói chốn bồng lai tiên cảnh cũng không bằng ngắm núi Trường Bạch từ xa. Đi đường vất vả như vậy kể cũng đáng."

Ở đây toàn là người thô kệch, nhưng ai nấy đều bị cảnh sắc bốn phương trong ánh nắng chiều mê hoặc. Nhất là trên dãy núi tuyết này, cái cảm giác đứng ngay dưới thiên đỉnh càng làm cho người ta cảm khái không thôi.

Tôi vừa định lôi máy ảnh ra để chụp lại cảnh sắc nơi này thì đột nhiên Bàn Tử đập tôi một cái, chỉ sang phía bên kia.

Tôi nhìn theo hướng tay hắn chỉ, thấy Muộn Du Bình đang quỳ xuống, hướng về phía ngọn Tam Thánh phía xa xa, cung kính cúi đầu. Gương mặt hắn vốn không có cảm xúc, giờ lại mơ hồ lộ ra nét bi thương vô hạn.

—————————————————
(1) Này thì súng trường tự động số 81:

Chương 16: Hành vi tt

Trải qua hai ngày bôn ba, chúng tôi rốt cuộc đã tới sông băng nằm trong khe núi Tiểu Thánh. Trên đầu ai nấy đều bám đầy tuyết vụn, mệt nhừ tử. Nhưng vào lúc nắng chiều ngả về tây, đứng từ trên cao phóng mắt nhìn ra xa, phong cảnh xung quanh lại khiến chúng tôi say mê ngây ngất.

Nhưng hành động của Muộn Du Bình lúc này lại khiến chúng tôi kinh hãi. Chẳng ai hiểu vì sao hắn lại quỳ rạp trước núi tuyết mà hành đại lễ hết sức kính cẩn đến thế, tựa như hắn có một thứ cảm tình đặc biệt đối với ngọn núi kia vậy.

Bái lạy xong xuôi, hắn liền trở về với vẻ mặt "xong chuyện rồi cóc quan tâm gì nữa, chỉ ngủ phần tôi", trèo lên một phiến đá trần mà nhắm mắt nghỉ ngơi. Tôi không khỏi nổi lòng hiếu kì, quả thật không thể nhìn thấu trong đôi mắt đen sâu không thấy đáy của hắn rốt cuộc còn ẩn giấu những gì?

Suốt hành trình đến đây, mọi người đều hiểu rõ tính hắn, đặc biệt là mấy người chúng tôi, nên cũng không ai hỏi han gì vì đoán trước hắn sẽ chẳng trả lời đâu. Có điều, cứ xem ánh mắt của nhóm Trần Bì A Tứ thì rõ ràng họ cũng rất bực mình. Chỉ có Thuận Tử là không để bụng, có lẽ hắn tưởng Muộn Du Bình cũng là người Triều Tiên.

Mỗi người ôm một bầu tâm sự riêng, vừa ngắm phong cảnh vừa nghỉ ngơi, lát sau ai nấy đều khôi phục thể lực. Bàn Tử nhen lửa đốt lò không khói, chúng tôi quây lại đun trà sưởi ấm, đồng thời Thuận Tử cũng bắt đầu mở lớp giảng bài, hớp vài hơi rượu nóng cho lại sức rồi chỉ mấy ngọn núi tuyết xung quanh, giảng giải nguồn gốc của chúng cho chúng tôi nghe.

Đây là bổn phận làm hướng dẫn viên du lịch của hắn, thằng nhóc này cũng tận tâm với nghề dữ lắm.

Hắn kể rằng trong truyền thuyết về núi Trường Bạch, hai ngọn núi tuyết Tiểu Thánh và Đại Thánh cùng với núi Tam Thánh thần bí kia, vào thuở hồng hoang vốn chỉ là một ngọn núi tuyết. Năm ấy Đại Vũ () trị thủy, khi đi ngang qua nơi này ổng vung lưỡi đao thần bổ hai cái, mới khiến cho núi chẻ làm ba.

Chuyện là trước thời giải phóng, khi nơi đây còn chưa mở cửa, anh ta từng nghe ông nội kể lại rằng khi lần lượt leo lên ba ngọn núi tuyết này sẽ thấy phong cảnh xung quanh hoàn toàn khác nhau. Ví như, leo lên núi Tiểu Thánh sẽ nhìn thấy cả hai ngọn Tam Thánh lẫn Đại Thánh, nhưng lên núi Đại Thánh lại chỉ thấy Tam Thánh mà không thể nhìn ra núi Tiểu Thánh, kỳ lạ ghê gớm. Mà kỳ lạ nhất chính là đứng trên đỉnh Tam Thánh không những có thể nhìn rõ hai ngọn núi thánh lớn nhỏ, mà còn thấy xa xa về phía sau núi Tam Thánh có một ngọn núi tuyết còn đồ sộ hơn Tam Thánh nhiều, gọi là đỉnh Thiên Thê. Ngọn núi kia quanh năm bị mây mù che phủ, không thể nhìn rõ diện mạo thực. Tương truyền trên núi có một cái thang trời bắc thẳng lên Thiên cung, là con đường nối liền nhân gian và cõi bồng lai tiên cảnh. Vào lúc trời quang mây tạnh, có thể thấy giữa đỉnh Thiên Thê và hai tòa Đại Thánh Tiểu Thánh xuất hiện một dải hào quang y hệt cầu vồng, tựa như một nét bút thần tiên tô điểm, lộng lẫy tuyệt đẹp, cũng lạ lùng hết sức.

Bàn Tử nghe xong bèn bảo với chúng tôi: "Truyền thuyết này chắc chắn là sai bét rồi. Thiên cung rõ ràng nằm trên núi Tam Thánh, sao lại chạy đến đỉnh Thiên Thê được. Người kể lại cái truyền thuyết này đảm bảo có vấn đề về mắt."

Hoa hòa thượng ngẫm nghĩ rồi lắc đầu giải thích: "Không đâu, trước khi đến đây tôi từng nghiên cứu truyền thuyết này rồi. Tôi ngờ rằng khi xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung, tuyết trắng trên ngọn Thiên Thê và những ngọn núi xung quanh khiến ánh sáng bị khúc xạ sinh ra ảo ảnh (). Do ngọn Thiên Thê quanh năm mây mù, hơi nước lơ lửng tạo thành bức màn phản xạ, in lên hình ảnh Vân Đỉnh Thiên Cung lẩn khuất trong sương, trông cứ như thiên cung thật sự nằm trên trời vậy."

Hiện tượng ảo ảnh này phần lớn phát sinh giữa những hồ nước nằm trong sa mạc, chứ rất hiếm khi xảy ra trên núi tuyết, chỉ e cũng không phải ngẫu nhiên mà có lẽ liên quan tới việc nơi đây là ngọn nguồn của long mạch. Hiện tượng này trong phong thủy gọi là "Ảnh cung", tôi mới thấy trong sách cổ một lần, cũng không biết cụ thể có điểm gì cần lưu ý. Nơi đặt bảo huyệt thường phát sinh những chuyện kì quái, có xảy ra chuyện gì cũng không lạ.

Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng địa phương. Tôi nói tiếng Hàng Châu, đám Hoa hòa thượng nói tiếng Trường Sa, Thuận Tử nghe không hiểu gì, cũng chẳng thèm để ý. Giảng giải về phong cảnh xong, hắn đứng lên nói với chúng tôi: "Quý khách tạm thời nghỉ ngơi một lát, ăn chút gì đó, sau đấy tự do hành động, nhưng xin hãy nắm vững thời gian. Trời sắp tối rồi, ở đây cũng không có cách nào dựng lều, trời tối một cái là đường không dễ đi đâu. Chúng ta còn phải qua đêm, nên tìm chỗ tương đối bằng phẳng, tối đến dễ chừng sẽ có gió đấy." Nói rồi hắn rót trà phân phát cho chúng tôi, còn bản thân thì giữ ý, ra xa xa nghỉ ngơi.

Tôi xem đồng hồ, thấy còn hơn một tiếng nữa mặt trời mới lặn xuống núi. Thời gian nói ngắn thì chẳng ngắn, bảo dài cũng không dài, nghỉ ngơi như vậy cũng đủ rồi, có lẽ nên làm việc nghiêm chỉnh thôi.

Nhưng mà bốn bề tuyết phủ trắng xóa, không có chút dấu tích đặc biệt nào. Nếu có lăng bồi táng ở đây thì nhất định cũng đã bị tuyết chôn vùi, cửa vào hẳn phải nằm trong lớp tuyết dưới chân chúng tôi. Môi trường trên núi tuyết khác xa so với nơi đất bằng, cả đám đều không có kinh nghiệm nên chẳng biết phải hành động thế nào.

Chúng tôi đứng cả lên, vây quanh Trần Bì A Tứ, định bàn xem bước tiếp theo phải làm sao mới ổn.

Trần Bì A Tứ trải qua một phen vật lộn vất vả như vậy, còn chưa hồi phục lại. Lang Phong cầm bầu rượu đưa cho lão, bảo lão uống hai ngụm. Hoa hòa thượng giúp lão xoa bóp sau lưng cho máu dễ lưu thông, sắc mặt lão mới dần dần trở lại bình thường, thế nhưng cả người thoạt nhìn vẫn có vẻ cực kỳ uể oải. Nghe chúng tôi hỏi, lão chỉ đưa mắt liếc qua loa thế núi xung quanh rồi bảo: "Vị trí bảo huyệt nằm ngay dưới chân chúng ta. Ta cũng chưa có kế nào hay, giờ cứ xúc thử vài xẻng xem dưới mặt tuyết có gì rồi hẵng tính tiếp."

Mọi người gật đầu. Thật ra tôi cũng biết không có lựa chọn nào tốt hơn nữa, cái gọi là đổ đấu, chỉ khác những điểm râu ria chứ cơ bản cũng chỉ có thế: sau tầm long điểm huyệt chính là tham huyệt định vị. Điểm khác biệt giữa các thời đại chỉ là công cụ dùng để thăm dò huyệt, chứ quá trình gần như đều rập một khuôn. Cho nên mới nói nếu không có giây phút phấn khích khi mở quan tài thì trộm mộ thật ra là công việc buồn tẻ số một.

Tuyết mềm hơn bùn rất nhiều, xẻng thăm dò đào rất thuận lợi. Đám người Hoa hòa thượng tay chân cực kỳ lanh lợi, trên mặt tuyết rất nhanh đã có tới mười mấy hố thăm dò. Có điều, hình như bất cứ cái xẻng nào đào xuống độ sâu chừng 5, 6 mét trên sườn dốc tuyết phủ cũng đều không thể đào tiếp được nữa. Bàn Tử cứ đinh ninh vì Diệp Thành èo uột như con khỉ ốm mới thành ra thế, bèn chạy đến giúp một tay, dùng sức mạnh bạo cũng chỉ bập vào thêm một chút, mỗi lần rút ra nhìn thử đều thấy xẻng vẫn trống trơn.

Hoa hòa thượng xem xét lưỡi xẻng, phát hiện trên đầu nhọn của xẻng có bám ít tinh thể băng liền hiểu ra đầu đuôi sự việc. Bên dưới là một sông băng do mặt đất đông lạnh và băng giá tạo thành, cứng như bê tông, xẻng đâm không thủng nổi, cũng không lôi ra được thứ gì.

"Ở đây tuyết đã rơi mấy ngàn năm, tuyết đọng bị ép xuống lâu ngày hóa thành băng rồi. Anh nói xem, có khi nào lăng bồi táng cũng bị đóng cứng dưới băng rồi không?" Bàn Tử hỏi.

Chúng tôi đều gật đầu, khả năng này rất lớn. Thế nhưng xẻng Lạc Dương không thể đào vào trong băng, coi như chúng tôi biết có đồ ở bên dưới đi, cũng vẫn tìm không nổi.

Phan Tử bảo chúng tôi: "Trở ngại lớn nhất là lớp tuyết này, chúng ta có thuốc nổ không? Hồi tôi còn trong quân ngũ có nghe vài người anh em kể, lúc bọn họ ở núi Đại Hưng An, đại đội sản xuất ở nơi đó sẽ leo lên sườn núi tuyết để 'lọc máu' định kỳ. Chỉ cần đào một cái lỗ rồi đặt mìn là có thể cho nổ hết đống tuyết này, đỡ lo biết bao nhiêu. Cho nổ hết tuyết rồi thì tình hình bên dưới nhìn một cái biết ngay, việc tìm kiếm của chúng ta sẽ tiện hơn rất nhiều, cũng đỡ phải đào đạo động."

Tôi hiểu rõ anh nói gì. Mỗi lần tuyết rơi sẽ hình thành thêm một tầng tuyết, giữa các tầng này đều hở ra một khoảng, chỉ cần cho nổ một quả mìn nhỏ, cả ngọn núi sẽ rung chuyển, cả tầng tuyết dày sẽ trượt xuống, tạo thành phản ứng dây chuyền, rốt cuộc tầng này sẽ tầng khác sập theo cho đến hết.

Khu rừng trên núi Đại Hưng An có vài ngọn núi tuyết nhỏ. Để tránh tuyết đọng quá dày sinh ra tuyết lở làm tổn hại đến khu rừng, đội công binh địa phương phải thường xuyên dùng sức người xử lý sau mỗi trận tuyết lớn. Hồi đó điều kiện thiếu thốn, toàn do nhân viên tự mình trèo lên đào lỗ đặt bộc phá, ít nhiều đều có nguy hiểm, giờ thì họ toàn nã pháo cối cho tiện.

Hoa hòa thượng nắn nắn lớp tuyết: "Thuốc nổ chúng ta có, nhưng cậu nhìn lên đỉnh đầu mà xem, nổ mìn ở chỗ này có khác gì tự sát?"

Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên, phía trên là dốc tuyết vạn trượng cao ngất, trước sau kéo dài liên miên, nối liền với mạch núi Hoành Sơn như một con rồng tuyết. Chúng tôi ở dưới này, thấy mình chỉ như con sâu cái kiến, thật sự quá bé nhỏ. Phía trên chỉ cần rải xuống một nắm tuyết là mấy mạng chúng tôi yên giấc ngàn thu tại trận luôn.

Phan Tử nhìn xong cũng hơi choáng váng, có điều anh vẫn khăng khăng nói: "Núi Trường Bạch là thắng cảnh du lịch, ở đây thi thoảng cũng tiến hành "lọc tuyết", tôi thấy vấn đề không quá lớn. Nếu anh không đồng ý với phương án lọc tuyết này, thì chúng ta nên tranh thủ cuốn gói đi cho sớm chợ. Trên núi tuyết mà anh muốn tìm đồ bị vùi trong tuyết thì còn khó hơn mò kim đáy biển, Tôi nói cho anh biết, trên núi tuyết xứ Tạng nếu muốn tìm đội leo núi gặp nạn cũng phải làm vậy thôi, không có cách nào tốt hơn đâu. Cụ nhà anh đã tỉnh, cho dù xác định đúng huyệt, anh vẫn phải dùng thuốc nổ, bằng không thì đạo động cũng không tài nào đào ra được. Trái pháo này, kiểu gì anh cũng phải cho nổ thôi."

Tôi thấy không ổn, bèn phản đối: "Chuyện này quá mạo hiểm, tôi thà tốn thêm chút thời gian đào bằng xẻng còn hơn."

Phan Tử lại nói: "Cậu Ba à, chính vì không có thời gian nên chúng ta mới phải dùng thuốc nổ, chứ nếu thời gian dư dả thì đã chờ đến mùa hè mới quay lại rồi. Dù thế nào cũng phải thử một lần, ông Ba còn đang chờ chúng ta."

Hoa hòa thượng xua tay cản chúng tôi lại, chỉ chỉ Lang Phong: "Các anh đừng cãi lộn nữa. Lời của chúng ta thì tính là gì, nghe ý kiến chuyên gia cái nào."

Tôi ngớ ra mất một lúc. Suốt cả hành trình, tôi vẫn không biết Lang Phong đóng vai trò gì trong nhóm bọn họ. Nghe Hoa hòa thượng nói vậy tôi thấy thật khó tin, không lẽ hắn là chuyên gia về mặt này sao? Mấy người đều nhìn về phía Lang Phong xem hắn phản ứng thế nào.

Lang Phong thấy mọi người nhìn mình chằm chằm thì có hơi ngại ngùng, nói: "Tôi cho rằng có thể làm theo lời anh Phan. Thật ra trước khi đến tôi đã đoán trước sẽ xảy ra tình huống này nên đã chuẩn bị sơ sơ rồi. Hơn nữa tôi là dân chuyên nghiệp, có thể khống chế sức nổ của bộc phá, tiếng nổ sẽ không lớn lắm, thật ra chỉ cần tạo một chấn động rất nhỏ dưới mặt tuyết là có thể đạt được mục đích, có khi chỉ cần một dây pháo nhỏ là xong xuôi."

"Anh chắc chắn không?" Bàn Tử hỏi: "Chúng ta chỉ phá băng chứ không nổ mộ, chuyện chúng ta làm bây giờ tương đương với việc nổ pháo trong khối đậu phụ, bảo anh nổ ra một cái lỗ trong khối đậu phụ sao cho nhìn bề ngoài không thấy gì cả, đây là thao tác cực kỳ tinh vi đó."

Lang Phong gật đầu: "Hồi tôi làm thợ mỏ đã đào không dưới một vạn lỗ pháo, huyện này chưa tính là khó."

Hoa hòa thượng nhìn sang phía chúng tôi, chỉ chỉ vào Lang Phong: "Các cậu đừng thấy bình thường anh ta ít nói mà lầm, gã này là thợ mỏ thâm niên hai mươi năm đấy, mười bốn tuổi bắt đầu đào lỗ pháo, đã cho nổ san bằng không dưới hai mưoi ngọn núi mới khiến cụ nhà này để mắt đến, vào nghề chưa được một năm người ta đã phải xưng là Pháo thần. Nói đến thuốc nổ thì không ai so được với anh ta đâu."

"Cậu chính là Pháo thần?" Phan Tử đứng một bên trợn tròn hai mắt, hiển nhiên là đã từng nghe danh hiệu này.

Lang Phong có vẻ ngượng nghịu, gãi đầu gãi tai, chẳng bù cho thái độ lạnh lùng mấy hôm trước: "Chỉ là một cái biệt danh bạn trong nghề nói quá lên cho vui thôi mà."

Hoa hòa thượng bảo hắn: "Thôi đừng khiêm tốn nữa, đây chính là lúc phát huy sở trường của chú đấy." Sau đó quay lại nói với chúng tôi: "Lang Phong đã ra tay, xưa nay chưa từng thất bại, thứ gì anh ta nói nổ thành bao nhiêu mảnh thì khắc nổ ra từng ấy mảnh, tôi tuyệt đối tin tưởng. Nếu anh ta đã nói thế thì tôi nghĩ có thể thử một lần. Các anh có ý kiến gì không?"

Bàn Tử liếc liếc tôi. Hắn có kinh nghiệm thám hiểm trên đất tuyết, từng nghe nói về rất nhiều vụ tuyết lở, dĩ nhiên cũng hơi dao động, có điều hắn ở phe tôi, nhìn sang tôi là muốn tôi tỏ thái độ.

Tôi ngẫm nghĩ, thấy đám người Trần Bì A Tứ đúng là tập đoàn trộm mộ chuyên nghiệp, không như chú Ba vẫn còn tương đối truyền thống, ưa dùng những biện pháp cũ để lọt vào mộ cổ. Sự ỷ lại vào thuốc nổ của những người này đã đến mức độ chúng tôi không thể tưởng tượng nổi. Hơn nữa Hoa hòa thượng đã nói thế thì hẳn tên Lang Phong này cũng phải có năng lực tương đối.

Vì thế tôi hạ quyết tâm, gật đầu với Bàn Tử. Cứ liều đi, thật ra lúc này làm gì còn đường lui nữa, tôi không đồng ý cho nổ liệu bọn họ có chịu nghe không?

Thấy chúng tôi đồng ý rồi, Lang Phong và Diệp Thành lôi ra một cái xẻng Lạc Dương đặc biệt, bắt đầu lắp lưỡi xẻng chuyên dụng, đào vài hố thăm dò trên mặt tuyết.

Sau đó Lang Phong dùng vài thứ bột trộn ra một loại thuốc nổ, chôn thật sâu vào bên trong một số kíp nổ có sức công phá thấp. Tôi biết loại thuốc nổ này vốn được điều chế một cách đặc biệt, sức nổ đại khái chỉ bằng khoảng mười viên pháo đùng, chuyên dùng để đục lỗ phá nát phong thạch trong mộ cổ. Được Lang Phong điều chỉnh lượng thuốc lại một lần nữa, sức nổ đảm bảo càng nhỏ đi.

Dân trộm mộ công nghệ cao phần lớn đều có kiến thức tương đối về khoa học kỹ thuật, cần bao nhiêu kíp mìn sức nổ nhỏ, có thể cho nổ ở chỗ nào để tạo ra một lỗ người chui lọt, những chuyện này tôi đã biết từ lâu, có điều được thấy tận mắt thì đây vẫn là lần đầu tiên.

Thuận Tử đang quanh quẩn uống trà, nhác thấy cảnh đó liền phát điên. Hắn đã từng thấy người hành hương cắm quốc kỳ, gặp đám săn trộm thừa lúc đêm tối lén mò ra, cũng từng gặp dân vượt biên trái phép, nhưng trải qua trăm đắng nghìn cay trèo lên đây, lấy thuốc pháo ra đốt cho nổ banh núi thì đảm bảo mới thấy lần đầu. Thoắt cái hắn đã chạy đến cản Hoa hòa thượng, hét lên: "Các vị làm gì thế? Quý khách, các vị điên rồi — !"

Nói chưa dứt lời, Lang Phong ở đằng sau đã phang cho hắn một nhát cuốc chim bất tỉnh nhân sự. Thuận Tử ngã sấp xuống tuyết, được kéo sang một bên.

Tôi nhìn mà thấy gáy phát đau, bụng bảo dạ làm hướng dẫn viên du lịch cho bọn này thật đến thảm, quãng đường đi dài lê thê không nói, còn phải chịu đựng cảnh này. Có điều, nghĩ đi nghĩ lại thì cũng không còn cách nào khác. Thuận Tử có thể bao dung nhẫn nhịn cái gì, chứ tuyệt đối sẽ không dễ dàng tha thứ chuyện chúng tôi phá núi, nói cho cùng hắn còn phải dựa vào nơi này để kiếm ăn, không đánh ngất đi thì không sao tiếp tục triển khai công việc được.

Bàn Tử hỏi Hoa hòa thượng: "Sau này chúng ta biết làm gì với thằng nhãi này đây?"

Hoa hòa thượng đáp: "Tạm thời cứ mặc xác nó, chúng ta còn cần nó dẫn đường để quay về. Cứ đưa nó vào địa cung, vứt sang một bên là được. Đến lúc về nhét thêm ít tiền cho nó thì nó còn đòi hỏi gì nữa?"

Lang Phong tỏ ra cực kỳ chuyên nghiệp, gần như không để chúng tôi nhúng tay vào. Hắn tự thao tác một mình, kíp nổ được sắp xếp chỉn chu theo một loại mô hình kết cấu chịu lực. Hắn phất tay ra hiệu cho mọi người leo lên một phiến đá lộ thiên, đề phòng lát nữa phản ứng dây chuyền lại kéo chúng tôi trượt xuống cả lũ.

Tôi cứ tưởng tiếng pháo nổ phải lớn lắm, ít nhất cũng phải gây nên một cơn sóng tuyết cơ. Ai dè lúc Lang Phong nhấn một phát vào bộ kích nổ, tôi gần như không nghe thấy âm thanh gì, chỉ thấy mặt tuyết bằng phẳng lập tức rạn ra, sau đó từng mảng từng mảng lớn tuyết đóng thành khối bắt đầu cuồn cuộn trút xuống dưới sườn dốc như thác đổ, sườn núi cũng đột ngột dốc hơn hẳn, dưới chân chúng tôi thoáng cái đã trống hoang hoác.

Có điều cảnh tuyết lở cũng không kéo dài. Khi những tảng tuyết dừng lại, dưới sườn dốc tuyết phủ lộ ra một tầng băng tuyết lẫn lộn gồ ghề màu trắng vẩn đục, đây chính là mặt ngoài của sông băng kỷ đệ tứ mà sách giáo khoa thường nói.

Bàn Tử bên cạnh đang nhắm nghiền mắt, vẫn tưởng mìn chưa nổ. Tôi lay lay mấy cái hắn mới mở mắt ra, thấy thế liền kinh ngạc kêu lên: "À há, đúng là không nghe tiếng gì thật, thánh quá." Sau đó lập tức thấp thỏm lo lắng ngước nhìn trên đỉnh đầu.

Không biết là do may mắn hay do kỹ thuật của Lang Phong quá cứng tay, ngoại trừ một ít tuyết trên đầu chúng tôi trượt xuống do mất lực chống bên dưới thì hình như không vấn đề gì. Chờ thêm một lát cũng không thấy có chấn động gì lớn, chúng tôi dần dần bớt căng thẳng.

Tôi giơ ngón cái về phía Lang Phong, Phan Tử cũng vỗ vỗ vai hắn, ra dấu rằng cậu thật lợi hại.

Lang Phong ngượng nghịu mỉm cười. Nhưng khóe miệng của hắn còn chưa kịp nhếch hết lên thì bất thình lình một khối tuyết lớn đã nện trúng đầu.

Sắc mặt cả đám đều biến đổi. Bàn Tử vội vàng vẫy tay với chúng tôi, nhỏ giọng nói: "Suỵt!"

Chúng tôi vô thức im bặt, vài người lại ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy ở chỗ cao hơn đỉnh đầu chúng tôi chừng hơn một trăm mét, trên sườn dốc tuyết phủ dần dần xuất hiện một vết nứt đen không hề bắt mắt nhưng lại khiến cho tim người ta lạc nhịp, đang từ từ toác ra, vô số vết nứt nhỏ dài lan rộng trên tầng tuyết. Theo sự lan tỏa của các vết nứt kia, những khối tuyết nhỏ lăn xuống đánh vào bốn phía xung quanh chúng tôi.

Tôi lập tức lạnh toát cả người, hiểu ngay đã xảy ra chuyện gì.

Xem ra danh tiếng "Pháo thần" của Lang Phong, đến hôm nay là hết linh rồi.

————————————————————–


(1) Đi Vũ: là v vua lp ra nhà Hược coi là ci ngun ca Trung Nguyên), có công xây dng mt lot đê điu và đp nước đ kim soát lũ lt và chinh phc sông ngòi, cu nhân dân khi nn lũ lt, cùng vi cha ca mình là Cn.

(2) Gii thích mt chút v hin tượng o nh – thường thy trên sa mc, mt bin hoc trên đng tuyết. Nhng môi trường này có đc đim chung là chiết sut không khí thay đi t thp lên cao: vi sa mc thì lp không khí dưới thp nóng hơn (tc có chiết sut nh hơn) vi núi tuyết và mt bin vào mùa hè thì lp không khí trên cao m hơn. Chênh lch chiết sut gia các môi trường khiến tia sáng chiếu nghiêng b b cong v phía môi trường có chiết sut nh hơn, vi sa mc là b xung còn vi núi tuyết là b lên, to o nh thp hơn vt thc đi vi sa mc và cao hơn vt thc đi vi núi tuyết và mt bin, đây là hin tượng khúc x. Nhng tia sáng này còn phi phn x mt ln na qua tng mây/sương mù, hoc qua tng không khí thay đi chiết sut đt ngt thì mi to thành o nh trong mt người quan sát. Còn ti sao ánh sáng li b b cong v phía môi trường có chiết sut nh hơn, thì bn c hiu đơn gin là môi trường có chiết sut càng nh thì ánh sáng đi càng nhanh, trong quá trình truyn tt nhiên ánh sáng nó phi chn đường nào nhanh hơn đ đi ri.

Chương 17: Tuyết l

"Mọi người chớ nói chuyện, rắm cũng không được thả" Bàn Tử thì thào rất khẽ với chúng tôi: "Mọi người tìm xem xung quanh có khối nham thạch nhô ra hoặc khe băng nào đó không, chúng ta gặp rắc rối to rồi."

"Không thể nào" Lang Phong ngây người tại chỗ: "Tôi đã tính toán phân lượng rất chuẩn ..."

Hoa hòa thượng bịt miệng Lang Phong lại, ý bảo chuyện đó nói sau. Mọi người đều ướt đẫm mồ hôi, vừa nhìn lên đỉnh đầu, vừa rón rén đeo đám trang bị của mình lên lưng, tìm kiếm khắp xung quanh xem có chỗ nào lánh nạn được không. Tầng tuyết phía trên cũng không dày lắm, cho dù tuyết lở cũng chỉ sụp xuống một khoảng nhỏ. Nhưng chỗ chúng tôi đang đứng quá "đắc địa", cách vết nứt gãy một quãng không xa, nếu tuyết ào ào đổ xuống, chúng tôi rất dễ bị chôn vùi trong đó. Phía dưới lại là sườn dốc đứng cao chót vót, chẳng đào đâu ra chỗ để trốn.

Cách tốt nhất lúc này chính là như Bàn Tử nói, tìm một khối đá núi nổi lên mà trốn bên dưới hoặc là tìm một khe băng, nhưng những cách này đều học từ phim "Vertical limit", chẳng biết trong thực tế nó có hữu dụng hay không.

(phim "Vertical limit" )

Nơi chúng tôi đang đứng là một khối đá trần trụi bằng phẳng, tránh ở bên dưới vẫn bị tuyết quất thẳng vào mặt. Bàn Tử chỉ chỉ sang tảng đã cực lớn, hình dạng tựa như quả hạch đào bên cạnh, mặt dưới của nó tạo với đá núi một cái hốc, khá phù hợp để tránh tuyết lở.

Sườn dốc phủ tuyết ngăn cách giữa chúng tôi và khối đá kia đã biến mất, chỉ để lại một mặt sông băng trơn muốn chết. Nhưng lúc này đã không còn thời gian đổi giày trượt băng nữa rồi, chỉ còn cách gắng gượng mà đi. Bàn Tử lấy một đầu dây thừng buộc vào thắt lưng mình, đầu kia đưa cho chúng tôi rồi cắn răng dẫm lên lớp băng trơn.

Một bước, hai bước, ba bước, mỗi bước chân đều thận trọng như giẫm lên trứng mỏng, tôi hồi hộp đợi một tiếng "răng rắc" rồi lòng đỏ trứng bắn vọt ra. Thế nhưng Bàn Tử luôn khiến người ta phải nhìn mình với cặp mắt khác, chỉ vài bước sau hắn đã vững vàng leo lên tảng đá trước mặt, kéo dây thừng trên lưng, ngó lên đỉnh đầu canh chừng rồi ngoắc tay kêu chúng tôi qua.

Mấy người chúng tôi cùng kéo dây thừng, đầu tiên là Phan Tử và Muộn Du Bình, kế đến là Lang Phong cõng Trần Bì A Tứ trên lưng, tiếp theo là Diệp Thành cõng theo Thuận Tử, cuối cùng là tôi. Thấy bọn họ đều đã yên ổn đến nơi, lòng tôi cũng an tâm hơn nhiều. Lúc này phía trên đã bắt đầu có những khối tuyết to bằng trái dưa hấu nện xuống, cái khe nứt kia có vẻ không còn trụ được lâu nữa, Bàn Tử phất tay ra hiệu cho tôi nhanh chân hơn.

Tôi vỗ vỗ mặt mình, buộc đầu kia dây thừng lên lưng, sau đó dợm bước một chân xuống, giữ cho thân thể đứng vững.

Từ nhỏ tôi đã cực kém khoản giữ thăng bằng, trượt băng tập xe đều té lên té xuống đến bầm dập mình mẩy mới học được. Lúc này tôi lại càng thêm luống cuống, chỉ cảm thấy mặt băng dưới chân dường như có thể biến mất bất cứ lúc nào, bắt đầu mất tự chủ, chân cũng bất giác phát run.

Bàn Tử thấy vậy thì hiểu ngay tôi là người gặp khó khăn nhất ở đây, bèn hạ giọng: "Cậu đừng nghĩ nhiều, chỉ còn hai bước chân thôi, nhảy bừa một cái cũng qua mà."

Tôi áng chừng khoảng cách giữa tôi và Bàn Tử, quả nhiên nếu phát lực vừa đủ thì hoàn toàn có thể nhảy sang đó. Nghĩ rồi tôi nghiến răng, chùng chân xuống, vặn eo một cái rồi nhảy lên.

Thật không ngờ đúng vào lúc dồn sức để nhảy, dưới chân tôi đột nhiên thụt xuống, khối băng tôi đặt chân do vừa rồi đã bị rất nhiều người dẫm lên nên chớp mắt đã vỡ vụn. Chân tôi trượt dài trên sườn dốc, kế đó cả người cũng trượt xuống theo.

Tôi quơ quào tay chân loạn xạ nhưng trên băng không đào đâu ra chỗ mà bám víu, thoáng cái dây thừng buộc vào thắt lưng đã kéo căng, treo tôi lơ lửng trên vách băng, chợt nghe phía trên chỗ nút thắt kêu rắc một tiếng, cúi xuống nhìn thì thấy đầu nút đã lỏng dần, thân thể sắp rớt ra. Trong lòng tôi chửi thầm, con mẹ nó cái thứ hàng ngoại này chắc chắn là đồ dỏm!

Bàn Tử bị tôi kéo một phát, suýt nữa đã tuột xuống khỏi tảng đá. Cũng may Phan Tử kịp thời túm lấy lưng quần hắn, mấy người xúm lại giữ chặt nên hắn mới không bị tuột xuống. Bọn họ dùng sức giữ thật chặt dây thừng rồi kéo lên.

Nhưng mỗi lần kéo, dây thừng lại nới lỏng ra một chút. Lòng tôi nóng như lửa đốt, hai chân muốn tìm một chỗ đặt để buộc lại nút thắt nhưng băng đúng là rất trơn, mỗi lần thử đạp chân có vài giây đã tuột xuống, thân thể không làm cách nào mượn lực được.

Mắt thấy nút thắt sắp tuột, tôi đành vạn bất đắc dĩ lấy ra cái dùi băng, dùng sức bổ vào vách băng một cái rồi bám thật chắc. Sau đó chân trái dẫm mạnh, lúc này mới có chỗ để chống đỡ cơ thể, vội cúi xuống buộc lại nút thắt. Nhưng còn chưa kịp buộc xong, bỗng nghe một cơn chấn động truyền xuống từ phía trên đỉnh đầu.

Tôi ngẩng đầu lên, chỉ thấy mấy người phía trên đang nhìn tôi với ánh mắt như nhìn một đứa ngớ ngẩn. Tôi còn chưa kịp phản ứng thì nháy mắt sau, một mảng tuyết trắng xóa đã lở ra rồi rơi xuống giữa không trung, gần như che hết tầm nhìn của tôi.

Tuyết lở!

Không kêu lên sợ hãi cũng chẳng có thời gian mà kinh ngạc, trong nháy mắt ấy đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, chỉ nghe Bàn Tử ở bên cạnh hét to một tiếng: "Nắm lấy cái dùi băng! Ép sát người vào!" Sau đó bốn phía xung quanh trở nên tối đen, thân thể tôi bị níu xuống, tưởng như có mười mấy người đột ngột dồn sức bám vào quần áo tôi rồi kéo xuống thật lực, phần dây thừng buộc quanh eo đột ngột siết chặt lấy da thịt, sau đó là vô số mảnh tuyết vụn chui vào phế quản.

Sau đó tôi rơi vào một khoảng không hỗn độn, từng bộ phận trên người đều bị va đập dữ dội. Tôi không thể ngẩng đầu lên nổi, cổ họng bắt đầu bị đè nén, từ phổi truyền đến cảm giác hít thở cực kì khó khăn. Tôi cứ như bị ném vào một cái chảo rang hạt dẻ ngào đường, vô số vật thể lạnh giá bám kín lấy tôi, đập mạnh vào người tôi. Trong nháy mắt, cả mũi lẫn miệng đều cảm nhận được vị của bọt tuyết.

Lúc này tôi mới chợt nhớ ra băng là thứ vật chất lan truyền chấn động cực tốt, đặc biệt là băng dày thì tính cộng hưởng càng lớn, vừa rồi một cuốc của tôi đã nhanh chóng thúc đẩy quá trình tuyết lở.

Nghĩ đến đây tôi chỉ muốn cho mình một tát, nhưng lúc này hối hận cũng vô ích, thân thể giống như con quay, đụng vào đâu đó là lại quay tít mấy vòng. Tôi định nắm lấy cái cuốc băng nhưng cánh tay mình ở đâu tôi cũng không còn cảm giác được nữa.

Đúng vào lúc đầu óc mơ hồ, không biết phải làm sao, đột nhiên tôi cảm thấy hình như có ai đó đang kéo dây thừng lên, sau đó thân thể tôi cũng nhích dần lên từng chút một.

Trong lòng tôi cả kinh, thì ra là đám Bàn Tử ở đầu kia đang kéo mình lên. Tôi lại nhen nhóm một tia hi vọng, dây thừng còn có tác dụng chứng tỏ lượng tuyết lở xuống không quá dày, lực kéo của họ vẫn còn có thể truyền đến đây.

Tôi vội dùng sức gạt đám tuyết bám xung quanh ra, chủ động lách người lên. Sau vài lần xiêu xiêu vẹo vẹo mượn sức kéo của dây thừng, một tiếng động lớn đột ngột vang lên bên tai. Trước mắt tôi sáng bừng, thân thể đã nhoài ra khỏi tuyết.

Bàn Tử và mọi người đang tránh trong một cái hốc bên dưới tảng nham thạch, tuyết chảy xuống theo tảng đá tạo thành một dòng thác trước mặt họ. Tất cả đều bình an vô sự, Bàn Tử và Lang Phong đang kéo dây thừng, thấy tôi được kéo lên bèn hét to một tiếng: "Không sao chứ?"

Tôi há miệng thở hổn hển, gật gật đầu, lúc này dòng thác tuyết ngợp trời kín đất vẫn đổ thẳng xuống đầu tôi. Tôi gắng sức đội tuyết mà kéo dây thừng hướng về phía bọn họ, nhưng lực đẩy của dòng tuyết quá lớn, tôi căn bản không đứng lên nổi, dùng cả hai tay cũng không thể di chuyển. Bàn Tử đành phải kéo tôi, chờ cho tuyết chảy qua hết.

Tuyết lở nhanh mà dừng cũng nhanh, chưa đến nửa phút, dòng tuyết đã chảy qua người tôi, chỉ để lại vô số mảnh tuyết vụn. Nhìn xuống thì thấy khe núi dưới chân đã mù mịt sương trắng, nghĩ mà không khỏi rùng mình, giờ mà rơi xuống đó coi như đi tong cái mạng.

Tôi được kéo vào hốc dưới tảng đá, vài người ở đó còn chưa hết sợ hãi, giờ vẫn đang thở dốc. Bàn Tử vỗ vai tôi nói: "Nhóc này xem như lớn mạng, may mà đây chỉ là trận lở tuyết vớ vẩn, bằng không thì giờ này không chỉ mình cậu mà cả tôi chắc cũng bị kéo xuống theo."

Tôi cũng không biết nét mặt mình trông như thế nào. Mũ leo núi đã rơi mất, hai lỗ tai đông cứng đỏ ửng, không nghe rõ hắn nói gì, đành phải vỗ vỗ hắn rồi quay đầu nhìn sông băng bên ngoài.

Tuyết trên khắp sườn núi gần như đã trút hết xuống khe sâu bên dưới, một con sông băng dốc đứng khổng lồ lộ ra trước mắt chúng tôi, thi thoảng còn có những mảng tuyết vụn từ trên lăn xuống, nhắc cho chúng tôi biết có nguy cơ vẫn còn đợt tuyết lở thứ hai.

Mặt trên sông băng đều là những tầng tuyết dày, qua hàng ngàn năm chịu áp lực nén cho tuyết dần dần biến thành băng, chính là thứ chúng ta thường gọi là "băng trọng lực". Loại băng này hình thành tự nhiên trên những vùng núi cao, bao quanh cả một dãy núi lớn, trên núi tuyết thông thường đều có. Do bị vây giữa núi và tuyết nên băng không quá dày, phía trên tầng băng còn có một lượng lớn tuyết vụn.

Ngoại trừ Bàn Tử, những người còn lại trong đám chúng tôi đều chưa được nhìn thấy sông băng ngoài đời thật bao giờ. Trong khe núi tuyết, chứng kiến một khối băng lớn lộ ra dưới ánh nắng chiều trông như một bức tượng điêu khắc khổng lồ do thế lực siêu nhiên tạo ra quả thực khiến người ta rung động, làm chúng tôi đều ngắm đến ngây người.

Diệp Thành đứng một bên lẩm bẩm nói: "Quả pháo của anh Lang thật ra cũng không nổ vô ích."

Ngắm nhìn một lát, mọi người dần dần quay về với thực tại. Hoa hòa thượng bật mấy cái đèn pin lên, chiếu vào trong băng để tìm kiếm dấu vết lăng bồi táng. Bên trong là một mớ hỗn độn, sâu không thấy đáy. Sông băng trên núi tuyết bình thường chỉ dày từ mười đến hai mươi mét, riêng sông băng này có vẻ lại dày đến khác thường.

Bàn Tử mắt tinh như cú, đúng lúc này lại đột ngột kêu một tiếng, hình như đã phát hiện ra thứ gì đó, bèn cầm đèn pin của Hoa hòa thượng chiếu xuống.

Chúng tôi căng mắt nhìn theo ánh đèn trên tay hắn, trong ánh sáng mỏng manh đó tôi thấy nơi Bàn Tử rọi đèn pin vào nằm sâu trong lòng sông băng, giữa một màu xanh nhờ nhờ u ám, tựa như có một cái bóng cực lớn thoắt ẩn thoắt hiện, chiếm gần một nửa khối băng, hình dạng giống như một đứa trẻ sơ sinh có cái đầu lớn đang cuộn mình.

Chương 18: Thai Côn Luân

Tà tà bóng ngả về tây, chỉ còn chút nắng vương mây mỏng mềm. Khối băng dần chuyển màu đen, bên trong cái bóng càng thêm mơ hồ.

Hình dạng của cái bóng kia hết sức kỳ quái, chẳng biết xếp vào loại gì, giống như thai nhi động vật chết cóng, đầu to dị thường, thân lại còn mọc gai dài, nhìn ghê chết đi được.

Diệp Thành há hốc miệng hỏi tôi: "Chết tiệt, lúc đi không bái Bồ Tát, quả nhiên đụng ngay phải thứ tà ma này. Đây là thứ quái quỷ gì vậy?"

Tôi và Bàn Tử đều lắc đầu, chúng tôi cũng chưa thấy nó bao giờ cả. Xem kích thước thì thứ này lớn cỡ một cái lầu nhỏ năm tầng, vậy mà có thể đông cứng trong lòng sông băng, nếu là lăng bồi táng thì xây dựng kiểu gì? Không lẽ nó lại là sinh vật thời tiền sử?

Theo truyền thuyết, vùng núi Trường Bạch này mấy chục vạn năm về trước vẫn còn là đại dương mênh mông, nhờ núi lửa phun trào mới nổi lên từ giữa lòng biển, vật này lớn như vậy, không lẽ là xác một sinh vật biển khổng lồ thời đó?

Nghĩ lại cũng không phải, khi sông băng cổ hình thành thì núi đã ở đó rồi, nếu có thi thể thì đã sớm hóa thạch.

Tuy đã trải qua một trận tuyết lở kinh thiên động địa, nhưng thật ra tuyết lở như vậy chỉ có thể gọi là tuyết đọng lâu ngày sạt xuống, khí thế không quá hào hùng mà trôi qua cũng nhanh. Tuy lúc đó mọi người vẫn còn sợ hãi nhưng bây giờ đều đã khôi phục tinh thần, cho nên khi nhìn thấy cái bóng trong băng thì lòng hiếu kì lập tức nổi lên.

Chúng tôi chống nhũ băng làm điểm tựa để đứng vững, người buộc dây thừng, chân đeo giày trượt, leo xuống quan sát kĩ càng bóng đen quỷ dị đông cứng giữa lòng sông băng, nhưng nhìn đi nhìn lại cũng không thấy cửa vào đâu cả.

Lúc này Trần Bì A Tứ cũng đã khôi phục ý thức, Hoa hòa thượng và Diệp Thành dìu lão bước xuống lòng sông, chúng tôi cẩn thận đỡ lão tiến lại gần.

Trần Bì A Tứ phản ứng vẫn còn chậm chạp, khẽ dụi dụi mắt, ngồi xổm xuống nhìn chằm chằm vào cái bóng trong băng kia một hồi lâu rồi đột nhiên hừ một tiếng. "Cái bóng này ... Chẳng lẽ là 'Thai Côn Luân'?" nhưng rồi nhanh chóng lắc đầu.

"'Thai Côn Luân' là cái gì?" Chúng tôi chưa nghe nói đến bao giờ, thấy lão có vẻ phấn khích như thế thì không hiểu mô tê gì cả.

"'Thai Côn Luân' là một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ, chỉ có ở đầu nguồn long mạch, hay trong dân gian thường nói là nơi hội tụ linh khí của đất trời. Trong lòng nham thạch, sông băng hay cây cổ thụ thường tự sinh ra một vật kì quái mang hình dạng trẻ con, cái này trong sách cổ gọi là "địa sinh thai". Theo truyền thuyết, qua hàng vạn năm biến hóa, một số "địa sinh thai" sẽ thành tinh, như Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký là một ví dụ." Hoa Hòa Thượng giải thích cho chúng tôi: "Tôi còn nhớ trong một quyển bút kí thời Đường có nói, vào những năm cuối thời Tây Hán có truyền thuyết rằng dưới đáy hồ băng lớn trên núi Côn Luân, người Tạng trong vùng đã phát hiện ra một băng thai khổng lồ, to như trái núi, là một bé gái sơ sinh đã có đầy đủ ngũ quan, trông rất sinh động, vì thế "địa sinh thai" còn được gọi là "Thai Côn Luân". Sau này người ta còn xây một ngôi miếu trên rốn đứa bé gái kia, tên là Côn Luân đồng tử miếu. Trong phong thủy, "Thai Côn Luân" là bảo huyệt trời định, không giống những huyệt vị phong thủy mà con người tìm ra. Không ai có thể chủ động tìm được long mạch có thể sinh ra "Thai Côn Luân", mà chỉ có cách chờ cho 'Thai Côn Luân' bắt đầu hình thành, được người nào đó tình cờ phát hiện, kế đến là đào thai ra rồi xây dựng lăng mộ trong đó. Thứ bảo huyệt như thế chỉ có thể gặp mà không thể cầu, truyền thuyết nói rằng chỉ có người liên hệ được với trời mới đủ tư cách. Trong lịch sử chỉ ghi lại duy nhất một người được táng tại 'Thai Côn Luân', đó chính là Hoàng Đế."

(Hoàng Đế ở đây là Hiên Viên Hoàng Đế, được coi là thủy tổ của người Hán, là một người cụ thể chứ không phải một danh từ chỉ chung các ông vua. Chữ Hoàng trong Hoàng Đế là 黃 (màu vàng) không phải 皇 (vua))

"Còn có chuyện tà môn như vậy sao?" Bàn Tử ngồi xổm xuống, nhìn cái bóng dáng kia. "Có điều, "Thai Côn Luân" này trông không giống thai người."

Trần Bì A Tứ hình như cũng không thể khẳng định, gật đầu nói: "Ta cũng đoán Thai Côn Luân là vị trí thần định, cũng là thần vật sinh ra từ đất. Nếu đây đúng là Thai Côn Luân thì lăng bồi táng kia đương nhiên sẽ được xây cất bên trong, nhưng nếu là thế ..." Trần Bì A Tứ nhìn đỉnh Tam Thánh phía xa xa, ánh mắt hiện lên nét nghi hoặc tột cùng.

Tôi biết điều lão ta đang băn khoăn, bèn tiếp lời: "Nơi này là bảo huyệt trời sinh 'Thai Côn Luân', nhưng cũng chỉ có một lăng mộ bồi táng. Nếu vậy thì Vân Đỉnh thiên cung trên núi Tam Thánh kia là mộ chính, không biết phong thủy còn tốt đến độ nào? Dù sao đi chăng nữa cũng không thể thua kém 'Thai Côn Luân'."

"Phải, làm gì có nơi nào phong thủy tuyệt hơn 'Thai Côn Luân' nữa. 'Thai Côn Luân' là nơi linh khí của cả mặt đất hội tụ, nếu có nơi nào đó tốt hơn thì chỉ có một khả năng." Trần Bì A Tứ nghi hoặc, rồi chuyển giọng giận dữ: "Thiên cung kia quả thực được xây ở trên trời!"

Nét mặt của Trần Bì A Tứ khi nói ra những lời này rất mực nghiêm túc, rõ ràng không phải nói đùa, tôi nghe chỉ thấy toàn thân phát lạnh. Bàn Tử kêu lên: "Làm gì có chuyện đó!"

"Đúng là không thể, cho nên nơi này xuất hiện 'Thai Côn Luân', chắc chắn là có vấn đề. Chẳng lẽ hướng sông thế núi đã bị hắn sửa lại? Nhưng Uông Tàng Hải sao có thể thần thông đến thế?" Trần Bì A Tứ lại nhìn thế núi bốn phía xung quanh.

"Không, không nên nghĩ như vậy." Tôi đột nhiên nảy ra ý tưởng, bèn hỏi: "Có khi nào cái bào thai này là giả? Do con người tạo ra? Một loại thủ pháp tượng trưng, rất hay gặp trong kiến trúc các ngôi mộ cổ. Cũng như thành của Võ Tắc Thiên có hình dạng gần giống với âm hộ phụ nữ (1), nói không chừng cái bóng kia chỉ là bóng của lăng bồi táng thôi."

Ý nghĩ này tự dưng nảy sinh trong đầu, bởi vì tôi làm nghề buôn đồ cổ, công việc hàng ngày chính là phân biệt thật giả. Lúc chọn mua đồ, cảm giác đầu tiên của tôi luôn là: đây chắc là đồ giả. Thế nên khi nghe Trần Bì A Tứ nói bằng giọng gay gắt như thế, suy nghĩ đầu tiên của tôi cũng là: hay nó là đồ giả? Cái này coi như là bệnh nghề nghiệp rồi.

Với lại, đông cứng cửa vào lăng mộ trong lòng đất, lại xây thành hình dạng trẻ con như vậy hoàn toàn giống với tính cách ưa đột phá (*) của Uông Tàng Hải.

(*) Nguyên văn: Bất kinh tử bất hưu (不惊死不休) xuất phát từ câu "Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu" nghĩa đen là "câu chữ không kinh người thì đến chết cũng không ngừng" là một danh ngôn của TQ nói lên thái độ trân trọng của những bậc trí thức thời xưa đối với việc sáng tác. Suy rộng ra thì bất kinh tử bất hưu nghĩa là không làm được chuyện kinh người thì đến chết vẫn không ngừng)

Trần Bì A Tứ tập trung tinh thần ngắm nghía sơn mạch xung quanh, căn bản không thèm nghe tôi nói. Tôi quay đầu nhìn sang Muộn Du Bình, vẻ mặt hắn cũng tràn đầy nghi hoặc, nhìn chằm chằm cái bóng kia bằng ánh mắt phức tạp nhưng cũng không lên tiếng. Được cái Hoa hòa thượng rất tán thành cách suy nghĩ của tôi (xem ra hắn cũng là dân buôn đồ cổ tuyến đầu nên mắc bệnh nghề nghiệp giống tôi). Hắn nói: "Cậu nói cũng có lý, tôi thấy 'bóng thai' kia còn mơ hồ phân chia thành các bộ phận, chắc chắn không phải là thứ đơn giản, dường như chiều cao cũng không đồng nhất, hơn nữa xung quanh còn có gai nhọn, không thể nói rõ là thứ gì, cũng có thể nó được con người xây dựng nên."

Trong lòng tôi bỗng nổi lên một cảm giác kì lạ: Uông Tàng Hải xây lăng mộ thành hình dạng thai nhi, chẳng lẽ ổng hi vọng lăng mộ này cũng sẽ thành tinh giống 'Thai Côn Luân' hay sao?

Nếu đúng như thế thì quả là ngoài sức tưởng tượng.

Bàn Tử nói: "Suy đoán nhiều mà làm gì, nếu không đào nó lên thì đoán già đoán non cũng vô ích. Có thời gian rảnh rỗi ngồi đoán thà nghĩ cách xuống đó còn hơn."

"Nếu đào xuống rồi mới phát hiện ra nó không phải lăng bồi táng, mà là thực sự là một khối băng khổng lồ thì ...." Diệp Thành đã hơi run, răng va lập cập :"...Thì biết làm sao?"

Bàn Tử vỗ về hắn: "Vậy anh cứ ở lại trên này, chúng tôi xuống kiểm tra, nếu an toàn sẽ gọi anh xuống."

Tôi cũng nói: "Nếu kia thực sự là băng thai thì đúng là kì tích của tạo hóa, có thể tận mắt ngắm một lần cũng đáng giá."

Hoa hòa thượng vỗ vai Diệp Thành: "Chú nhát gan quá, nên học hỏi thêm các đại ca đi... Vấn đề lúc này không phải là xuống hay không xuống mà là làm thế nào để xuống?" Hắn ước lượng độ dày của lớp băng, nói: "Nếu dùng cuốc chim thì có đào bạt mạng trong nửa tháng cũng chưa chắc đã xuống đến nơi."

Chúng tôi là thổ phu tử chứ không phải băng phu tử, tác nghiệp trên băng hoàn toàn không giống với mặt đất bình thường, phải chú ý đến rất nhiều thứ, bình thường tài nghệ có tốt đến mấy cũng chưa chắc được việc.

Bàn Tử nhìn chằm chằm cái bóng khổng lồ dưới đáy sông băng kia, khoát tay nói với chúng tôi. "Chuyện này có gì khó chứ? Cứ để Bàn Tử ta ra tay."

Tôi trông nét mặt hắn hình như đã phát hiện ra điều gì, trong lòng cũng sinh tò mò. Bàn Tử vẫn là kiểu người tích cực tiên phong trong đoàn, rất ít khi đưa ra ý kiến về mặt chuyên môn nhưng một khi đã phát biểu thì luôn nói trúng điểm then chốt, cho thấy tâm tư người này thực ra khá là tinh tế. Khi còn ở dưới đáy biển, tôi đã cảm nhận sâu sắc điều này, đây hẳn là lý do hắn cực kì hám của nhưng vẫn có thể biến nguy thành an hết lần này đến lần khác. Nhưng với kiểu người như Bàn Tử, khi nói chuyện phải có chiêu. Hắn thuộc dạng cứng đầu, bình thường khích hắn còn công hiệu hơn là nịnh nọt hắn. Vì thế tôi nói: "Anh thì có biện pháp quái gì?"

Quả nhiên hắn tỏ vẻ khó chịu, đáp: "Nói vớ vẩn, thế sinh viên như cậu thì có biện pháp chắc? Tôi đã từng lên núi Côn Luân, nhiều sông băng trên đó còn dày hơn chỗ này, tất nhiên kinh nghiệm phong phú hơn cậu gấp vạn."

Tôi cười nói: "Vậy anh nói tôi nghe thử xem."

Bàn Tử hầm hừ với chúng tôi rồi cũng chịu nói, người dẫn đường của hắn trước đây có kể cho hắn nghe khá nhiều câu chuyện về băng. Độ cao so với mực nước biển của núi Côn Luân hơn nơi này rất nhiều, là sông băng trên núi cao đích thực, nơi đó hình thành những khe băng cực lớn do nhiệt độ thấp và địa thế núi vận động thường xuyên tạo ra những vết rạn nứt. Đôi khi trong khe băng lại phát hiện những di hài kỳ quái thời xưa, thậm chí có người còn phát hiện có nhà cửa bị chôn vùi sâu dưới lòng sông băng, nhưng đã sụp xuống cả, chỉ còn lại ít tàn tích.

Bàn Tử lúc ấy có hỏi trong môi trường băng giá như thế, vì sao các di tích cổ đại này lại không thể bảo tồn? Người dẫn đường của hắn liền đáp, đưa một tòa kiến trúc hoàn chỉnh đông cứng trong băng là chuyện không khả thi, đặc biệt là phòng ốc bằng gỗ gặp phải băng vỡ hay tuyết lở thì chắc chắn sẽ sụp trước tiên.

Tòa kiến trúc trong lòng sông băng dưới chân chúng tôi đang đứng bây giờ hiển nhiên được xây dựng trên vách núi. Cái bóng đen dưới đó trông rất hoàn chỉnh, hình dáng cực kì giống một đứa bé, chứng tỏ nó không có dấu hiệu bị sụp xuống, bởi vì với kiểu kiến trúc lầu gác thế này, một khi sụp xuống sẽ không thể giữ được hình dạng đó. Cho nên trừ phi vùi trong sông băng không phải lăng bồi táng mà là một khối đá, bằng không lăng bồi táng đóng băng trong lòng sông này nhất định không phải do tuyết lở mà do con người tạo nên.

Giả thiết của Bàn Tử vô cùng hoàn chỉnh, tôi gật đầu đồng ý với hắn, nhưng những người kia lại chưa hiểu ra ý nghĩa của nó. Phan Tử hỏi lại hắn: "Vậy thì sao?"

Bàn Tử xua tay nói: "Nếu như không có tuyết lở, lăng mộ kia lại được xây dựng cách đây hơn 900 năm, thì theo lý thuyết lớp băng tích tụ trong 900 năm không thể dày đến vậy. Cho nên mới nói lớp băng này chắc chắn là do con người tạo ra, dưới chân chúng ta là một lớp tường băng nhân tạo cực dày. Tường băng này lại không thể đè trực tiếp lên công trình, mà chắc chắn phải có một cái vòm, hình thành nên một khung băng tự nhiên bắc trên sườn dốc để bảo vệ những kiến trúc bên dưới. Tương tự như những nấm mộ giả bằng băng khác, băng này cũng không dày như chúng ta tưởng. Cậu xem, băng chỗ này rất trong, đây cũng là một bằng chứng."

Bàn Tử nói xong, mọi người cùng ồ lên, ai nấy đều nhìn hắn với cặp mắt ngưỡng mộ, đồng thời cũng tự nhiên có cảm giác dưới chân mình bất ổn hơn rất nhiều.

Bàn Tử còn thù tôi vừa rồi coi thường hắn, lại biết tôi học kiến trúc, liền hỏi tôi giả thiết của hắn có vững không.

Tôi gật gật đầu, về lý thuyết hắn giải thích thông suốt, hơn nữa còn có tính khả thi cao. Kĩ thuật dùng băng làm khung cho nhà cửa, trên thế giới đã xuất hiện từ rất sớm. Thời Tam quốc, Tào Tháo một đêm xây thành chính là dùng băng cộng thêm rơm rạ, người Eskimo cũng sớm biết dùng băng để xây nhà ở cho mình. Gần đây nhất ở Đan Mạch hình như còn xuất hiện kiến trúc bằng băng hiện đại, cho thấy trong kiến trúc học thì độ cứng của băng tuyệt đối không thành vấn đề.

Tuy nhiên Tào Tháo xây thành trong một đêm là ở đồng bằng, còn đây là xây dựng một khung băng lớn trên vách đá dựng đứng, thực sự khả thi sao? Tôi vẫn chưa hoàn toàn đồng tình, dù sao thời gian cũng cách đây hơn 1000 năm, Uông Tàng Hải dù có tài năng vượt trội hơn con người thời đó rất nhiều nhưng cũng không thể đạt đến trình độ này.

Bàn Tử thấy tôi đồng ý với hắn, lập tức đắc ý, hất tóc: "Chuyện, Bàn gia ta chính là nhân tài."

Diệp Thành hỏi tôi: "Cậu chủ Ngô, liệu có thể dựa vào kiến trúc học để tính ra độ dày của khung băng không?"

Kiến thức thời đại học của tôi phần lớn là chữ thầy trả thầy cả rồi, cơ mà trọng lượng của một đơn vị thể tích băng thì vẫn nhớ. Tôi lẩm nhẩm trong bụng, dùng mấy công thức tính toán ra một con số, bèn trả lời: "Nếu những lời Bàn Tử nói là đúng, giả sử dùng cọc gỗ để chống đỡ kết cấu thì tầng băng dưới chân chúng ta không thể dày quá mười mét, bằng không trọng lượng bản thân khối băng quá lớn sẽ tự sụp xuống, có chống bằng giời."

"Mười mét." Mọi người nhìn nhau, Phan Tử bèn nói: "Bố khỉ, vậy cũng quá sức rồi. Mặt băng chỗ này không giống những nơi khác, cứng rắn hơn nhiều, chúng ta lại không có thiết bị chuyên dụng. Vừa nãy tôi với Lang Phong dùng xẻng ra sức gõ thử mấy cái nhũ băng, mới gõ vài cái tay đã tê rần mà chỉ gõ ra được mấy cái vệt trăng trắng. Muốn xuyên thủng mười mét băng này chỉ e phải tốn kha khá thời gian, có khi một tuần vẫn chưa xong."

Băng trọng lực không giống như băng đóng trên mặt sông bình thường. Băng trên mặt sông hình thành từ nước sông, lẫn nhiều tạp chất, hơn nữa bên trong lại chứa bọt khí, mà nhiệt độ trong lòng sông cũng không quá thấp. Nhưng băng trọng lực là do tuyết tích tụ ngàn năm chồng chất hết tầng này đến tầng khác nén xuống, không những ít tạp chất mà nhiệt độ lớp băng bên dưới tầng tuyết có thể xuống dưới -50 độ. Dưới nhiệt độ và độ tinh khiết như thế, băng sẽ có mật độ và độ cứng vô cùng đáng sợ.

Bàn Tử nói: "Chẳng phải chúng ta có thuốc nổ sao? Chúng ta cứ trèo lên nấp dưới tảng đá kia rồi đào một cái lỗ pháo là được."

Hoa hòa thượng và tôi lập tức lắc đầu. Tôi nhớ vừa mình rồi suýt nữa đã chết trong đống tuyết, nổi giận với hắn: "Anh đúng là đồ não cá vàng, vừa rồi còn chưa nếm đủ sao? Còn nữa, nếu sông băng này rỗng ruột, một vụ nổ dù nhỏ đến đâu cũng có thể khiến khung băng nứt toác ra – nếu giả thiết của anh là chính xác thì không thể cân nhắc phương án dùng lực phá hoại quá lớn để mở đường. Nếu đào đến nơi quan trọng có khi cả xẻng băng cũng không dùng được, làm không tốt sẽ gây ra phản ứng dây chuyền."

Bàn Tử vốn cực kì ác cảm với những lý luận khoa học, nghe thế liền làu bàu: "Cậu là đồ mọt sách xa rời thực tế. Xẻng băng cũng không được dùng thì biết làm sao? Chẳng lẽ xúc bằng thìa? Cậu đừng ỷ mình là sinh viên mà đứng ở đây diễu võ giương oai, cố tình làm khó chúng tôi."

Tôi nói tôi còn sốt ruột hơn anh, nhưng sự thật là sự thật, nếu ai không tin thì cứ đi mà thử.

Một vấn đề vừa nghĩ thông suốt lại phát sinh vấn đề khác, trong thoáng chốc bầu không khí đã trầm xuống, mọi người không ai nói lời nào, tập trung nghĩ cách giải quyết. Đang lúc do dự chưa quyết, đột nhiên Muộn Du Bình cầm cái lò không khói mà Thuận Tử dùng để pha trà bước lại gần chúng tôi, thả xuống bên cạnh. Bếp lò nóng bỏng lập tức phản ứng với mặt băng lạnh buốt, phát ra tiếng xèo xèo. Hắn quay sang hỏi tôi: "Như thế đã được chưa?"

Tôi thấy vậy, trong lòng thầm nghĩ thôi chuẩn rồi. Tiên sư nó, trời lạnh não cũng đóng băng, sao mình lại không nghĩ ra cách này chứ, dùng lửa có nhanh hơn không.

Nhiệt độ và độ cứng của băng có liên quan trực tiếp với nhau, nhiệt độ càng tăng thì độ cứng càng giảm. Một khi lớp tường băng mặt ngoài bắt đầu biến giòn, phản ứng dây chuyền khi xẻng xúc đập vào băng sẽ giảm bớt. Chúng tôi có thể bước từng bước một, đầu tiên hơ nóng bề mặt băng để giảm bớt độ cứng, sau đó phá vỡ cả khối, lộ ra tâm băng sâu hơn lạnh hơn ở bên dưới. Rồi lại tiếp tục dùng lò nung nóng, cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến khi thông xuống đáy mới thôi.

Thực tiễn chính là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, chúng tôi lập tức thử nghiệm cách này. Mọi người đều lấy bếp lò của mình ra, đốt lên xong đặt xuống mặt băng, một phút sau dùng xẻng xúc băng lên. Quả nhiên đúng như trong sách nói, khối băng nóng lên sẽ hóa giòn và vỡ ra từng mảnh.

Nhưng do nhiệt độ không khí quá thấp, làm như vậy cũng rất chậm, chúng tôi thay phiên nhau làm thử suốt 3 tiếng đồng hồ, cho đến khi trời đã tối đen mới đào được một cái hố rộng chừng nửa mét, sâu cỡ bảy, tám mét trong băng. Màu sắc tầng băng bên dưới biến đổi rõ rệt, độ tinh khiết của băng tăng lên rất nhiều. Lúc này có thể khẳng định Bàn Tử đã nói đúng phân nửa, băng này chắc chắn không phải do tự nhiên hình thành.

Bàn Tử lưng buộc dây thừng, hai chân xoải ra chống vào thành giếng băng, cuối cùng dùng lò không khói hơ nóng mặt băng dưới đáy hố, sau đó lấy búa ngắn đập mạnh một cái, đang định nện thêm cái nữa thì không ngờ đã nghe "rắc" một tiếng, khung băng nứt ra một cái khe. Trong chốc lát chúng tôi cảm giác được không khí bên ngoài tràn vào khe nứt kia tạo ra một luồng gió, khiến nhiệt độ đột nhiên hạ xuống rõ rệt.

Bàn Tử lại đập thêm một búa, phá tan khối băng dưới đáy, vụn băng rơi xuống ào ào, quả nhiên xuất hiện một cái cửa động, bên dưới trống không!

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngay cả Bàn Tử cũng tự thấy kinh ngạc, kêu lên một tiếng: "Tôi đã đoán thì chỉ có chuẩn!"

Chúng tôi kéo hắn lên, mọi người xúm lại xung quanh cửa động, tranh nhau cầm đèn pin rọi vào bên trong.

Bên trong giếng băng này là một khoảng không rộng lớn tối tăm, cả khung băng giống như một cái bát trong suốt úp ngược trên vách đá, dọc theo vách đá là vô số cột gỗ chống băng dựng thẳng đứng lên, đan xen với nhau, hình thành một kết cấu giống như giàn giáo, chống đỡ 'bát băng' bên ngoài. Thứ này chính là gai mọc trên người cái 'bóng thai' mà Hoa hòa thượng đã nói. Bên dưới vách đá là một vực sâu tối đen như hũ nút, nhìn không thấy đáy.

Ở độ sâu hơn một trăm mét so với vách đá, chúng tôi đã thấy được chân tướng của cái bóng thai màu đen kia. Đó là một hang núi hình bào thai rất lớn, cũng không biết do con người tu tạo hay hình thành tự nhiên. Miệng hang ước chừng rộng cỡ một cái bể bơi tiêu chuẩn, thoạt nhìn rất giống một đứa trẻ sơ sinh khổng lồ màu đen.

Chúng tôi nhìn mà sợ đến ngây người, ai nấy gần như không thốt nên lời. Bàn Tử mắt tinh như cú, cầm đèn pin của tôi chiếu vào một chỗ, nói: "Xem này!"

Theo hướng hắn chỉ, chúng tôi nheo mắt lại cẩn thận quan sát, lúc này mới thấy trong hang núi kia vậy mà lại xây một tòa cung điện hoành diêm phi lương nguy nga tráng lệ, có một phần kiến trúc còn nhô ra khỏi miệng động, dùng cột gỗ chống vào vách đá, giống như tòa lâu đài treo lơ lửng giữa trời. Nhưng phần lớn kiến trúc được xây bên trong hang động, không thể nhìn rõ toàn cảnh.

Do nơi này quanh năm giá lạnh, nơi nơi đều tích tụ băng tuyết, phần kiến trúc lộ ra ở miệng hang kia nhìn từ bên trên trông cứ như phủ một lớp bụi dày, không quá nổi bật nên nhìn lướt qua cũng không dễ mà phát hiện.

Đây chắc là linh cung của lăng bồi táng, cũng chính là long lâu bảo điện mà Mô Kim hiệu úy thường nhắc đến, là phần 'lăng' trong 'lăng mộ', mà mộ của chủ nhân nó hẳn là nằm sâu trong lòng núi dưới linh cung kia.

Tôi không khỏi cảm khái, cứ ngỡ nơi này nhiều nhất cũng chỉ có một lối kín đáo dẫn vào địa cung, không ngờ Vạn Nô vương lại phô trương cỡ này, lăng bồi táng mà cũng thiết kế linh cung hoành tráng đến vậy. Nếu Vân Đỉnh thiên cung kia không bị bao phủ dưới lớp tuyết dày thì cảnh tượng sẽ còn nguy nga tráng lệ đến nhường nào? Thực sự không tài nào tưởng tượng nổi, trí tuệ của cổ nhân thật khiến cho người ta kinh sợ.

Bàn Tử là người đầu tiên có phản ứng, hắn phá lên cười, kế đó những người khác cũng đều mỉm cười, mọi người cùng nhau vỗ tay ăn mừng. Tôi huých mông với Bàn Tử, suýt chút nữa đã trượt xuống khỏi mặt băng.

Hoa hòa thượng vội vàng ngăn chúng tôi lại. Hắn chỉ chỉ sườn tuyết trên đầu, ý nói coi chừng tuyết lở thêm lần nữa. Mà chúng tôi lại đang đứng trên mặt băng, có mà trốn đằng giời.

Lúc này chúng tôi mới cố nén kích động trong lòng, cố giữ trật tự, nhưng trên mặt ai cũng lộ ra nét vui sướng đến phát cuồng, không sao kiềm chế nổi.

Bây giờ ngẫm lại, kẻ trộm mộ, cho dù là trộm mộ lâu năm đi chăng nữa thì cũng chẳng mấy ai đào được loại mộ cao cấp như hoàng lăng. Nếu có thể tiến vào hoàng lăng một lần mà an toàn trở ra thì chẳng cần quan tâm trong lăng có những vật báu gì, bản thân chuyện này đã đủ chứng minh anh vĩ đại thế nào. Chưa tính đến chuyện anh có thể khoác lác thổi phồng với người ta bao nhiêu năm sau, thì tâm thái của chính anh cũng không còn như xưa nữa, loại hấp dẫn này dẫu là ai cũng không thể kháng cự nổi. Mà ngay cả một kẻ vốn không coi mình là dân trộm mộ như tôi cũng dâng lên cảm giác kích thích mãnh liệt, quả thực đã sốt ruột đến mức không chờ thêm được nữa, chỉ muốn xuống đó ngay lập tức xem sao.

Hoa hòa thượng tự vỗ mặt mình cho trấn tĩnh lại, sau đó quay sang hỏi Trần Bì A Tứ xem chúng ta nên xuống đó ngay bây giờ hay để đến ngày mai.

Trần Bì A Tứ âm trầm liếc qua chúng tôi rồi hỏi: "Ngày mai mới xuống? Các ngươi liệu có nhịn nổi không?"

—————————————————

(1) Thành của Võ Tắc Thiên là một cách gọi khác của thành Lạc Dương, do Võ Tắc Thiên đặc biệt yêu thích đô thành này, sau khi lên ngôi đã cho dời đô từ Trường An sang Lạc Dương và sống gần hết đời mình ở đây. Bản đồ thành Lạc Dương (tự xem và cảm nhận...)

Chương 19: Thai động linh cung

Chúng tôi chỉnh đốn lại trang bị, dập tắt lò không khói, xếp gọn cuốc xẻng lại. Mọi người hành động rất ăn ý, tốc độ cực nhanh, sau khi thu dọn ổn thỏa thì cả đám tập trung lại xung quanh miệng hố vừa đào.

Đây là biểu hiện điển hình của những người cùng chung chí hướng, thật ra nó cho thấy ban đầu ai nấy đều rất ấu trĩ. Dù thu xếp nhanh đến mấy cũng chưa chắc đã xuống sớm hơn, bởi vì chưa ai từng đặt chân vào hoàng lăng, dù thế nào cũng phải trải qua một quá trình tìm hiểu, chỉ là lúc ấy cảm thấy không thể để người khác vào trước.

Thế nên mới có một cảnh hết sức buồn cười, đó là sau khi vây kín quanh miệng hố băng, mọi người đều không biết phải làm gì nữa. Giống như có một đám bạn bàn bạc nửa ngày trời xem nên đi đâu chơi, quyết định rồi mới phát hiện ra cả lũ đều mù đường như nhau. Mọi người quay sang nhìn nhau, ai nấy đều ngơ ngác.

Tôi nhìn vào trong động, âm thầm phân tích. Mọi chuyện đều ổn, chỉ có một vấn đề chí mạng đó là cái hố băng chúng tôi phá ra nằm ngay trên miệng vực, cách thai động nơi đặt linh cung khoảng hơn một trăm mét bề dọc và hơn hai mươi mét bề ngang. Chúng tôi mặc dù có đủ dây thừng nhưng vẫn không tài nào vượt qua hai mươi mét bề ngang này – có đu dây cũng không đu nổi.

Ở phía sau, Trần Bì A Tứ nhìn bộ dạng chúng tôi, cười lạnh một tiếng: "Đúng là một đám không có tiền đồ.", nói rồi đứng lên khiến chúng tôi đều tránh qua một bên.

Tôi cười thầm trong bụng, lão già Trần Bì A Tứ này vẫn không bỏ được tính kẻ cả bề trên. Từ trước đến giờ chúng tôi vẫn răm rắp làm theo lời lão, nhưng vừa rồi Bàn Tử lại trổ tài khiến lão không tránh khỏi khó chịu trong lòng, lúc này thấy chúng tôi lâm vào cảnh này mới không nhịn được mà nói ra mấy lời chê bai để vãn hồi vị thế của mình, đây cũng là tâm lý chung của rất nhiều người già.

Chúng tôi dẹp đường cho lão, Hoa hòa thượng tự cười giễu, nói: "Lão gia, cũng tại chúng tôi phấn khởi quá thôi, cả đời chưa ai gặp trận thế lớn như vậy. Ngài nói cái đấu này ... phải đổ như thế nào đây?"

Trần Bì A Tứ nhờ Diệp Thành đỡ mình ngồi xổm xuống, nhìn vào trong lòng động, nói:" Trăm khoanh vẫn quanh một đốm (ý là dù bề ngoài thay đổi đến đâu thì bản chất vẫn giữ nguyên như cũ), trước hết vẫn phải cẩn thận. Đầu tiên chúng ta cần một người leo lên những cột trụ gỗ chống đỡ khung băng kia, rồi từ cột trụ đó leo lên phía trên sơn động, sau đó thả dây thừng xuống đỉnh mái ngói của tòa kiến trúc kia."

Chúng tôi nhìn về phía những cột trụ gỗ chống đỡ hành lang bám đầy băng kia. Mỗi cây cột này dày chừng 100 mét, chắc chắn không thể chỉ là một thân cây gỗ thô, nhất định phải gồm nhiều cây gỗ được nối lại với nhau, như vậy kết cấu chịu lực không thành vấn đề, nhưng là không biết có chịu nổi sức kéo hay không, nếu không thì xong đời. Nếu một cây cột trụ đổ xuống, trong quá trình rơi tất nhiên sẽ động đến những cột trụ khác, đến lúc đó cả khung băng cũng có thể sụp xuống, phương pháp này vẫn là vô cùng mạo hiểm.

Nhưng lúc đó ai nấy đều nôn nóng nghĩ cách leo xuống nên cũng không cân nhắc nhiều đến chuyện này, vả lại cũng không còn cách nào tốt hơn.

Ở đây người thích hợp để xuống nhất chỉ có Phan Tử, những người khác thân thủ hay trọng lượng đều không phù hợp, cho nên Phan Tử đành xuống đầu tiên.

Chúng tôi buộc dây thừng lên lưng anh, thắt hình cánh bướm, trên người mang theo một ít trang bị gọn nhẹ. Phan Tử trông có vẻ hăng hái, Trần Bì A Tứ cho anh uống một ngụm rượu để trấn định tinh thần, nói: "Đừng có phấn khích quá, mục tiêu của chúng ta không phải nơi này, đi xuống thì đốt pháo hiệu báo cho ta."

Phan Tử gật đầu, hít sâu một hơi rồi cẩn thận leo xuống hố băng, sau đó dùng công phu Phi hổ trảo tử bám vào một cây cột trụ, sau đó đu dây y như bộ đội đặc công, rồi bò lên thân một cây cột trụ khác.

Vừa giẫm lên một bước, cây cột gỗ đã phát ra tiếng răng rắc như tiếng băng nứt vỡ khiến người ta thót tim. Chúng tôi lập tức nín thở, Phan Tử cũng tái mặt, không dám nhúc nhích, chỉ sợ cây cột gãy vụn.

Nhưng may mắn thay, đợi khoảng mười phút thì tiếng gãy trên cột trụ gỗ chấm dứt, bốn bề lại trở về với tĩnh lặng, thế chịu lực lại một lần nữa cân bằng.

Tôi nghĩ lại thì thấy có lẽ là mình thần hồn nát thần tính thôi, khung băng nặng nề như vậy, những cột trụ này chắc chắn phải chịu áp lực cực kì lớn, chúng tôi so ra cũng chỉ như con kiến thôi, có nhằm nhò gì đâu.

Vài người thở phào, bị dọa một trận như vậy, chúng tôi đều tỉnh cả người. Cơn kích động ban nãy cũng dần lắng xuống.

Phan Tử tiếp tục tiến về phía trước, càng đi càng cẩn thận, giống như đang nhảy một điệu vũ khoan thai. Tim chúng tôi cũng hồi hộp đập theo từng bước chân của anh, vất vả hồi lâu cuối cùng anh cũng đi tới cây cột trụ cuối cùng chống vào vách núi đá, khoảng một trăm mét về phía dưới chính là hang núi.

Chúng tôi chiếu đèn pin xuống dưới cho anh, kế đó Phan Tử bẻ năm, sáu cây gậy huỳnh quanh, thả từng cái một xuống bên dưới.

Trong bóng đêm, mấy vệt sáng rơi thẳng xuống dưới, có vệt mất hút dưới vực sâu như sao băng, có vệt rơi được hơn mười mét thì đập vào mái ngói, nảy lên vài cái rồi dừng lại. Chất hóa học bên trong gậy huỳnh quang do va chạm mạnh mà sinh ra phản ứng, ánh sáng càng lúc càng lan rộng, mơ hồ chiếu sáng cảnh vật bên trong khung băng.

Tiếp đó, Phan Tử quăng một đầu dây thừng xuống mái ngói bên dưới, sau đó nhanh chóng trượt xuống.

Thấy Phan Tử vững vàng đứng trên mái ngói, chúng tôi mới thả lỏng được đôi chút. Phan Tử ra hiệu cho chúng tôi, ý là quy trình này an toàn.

Chúng tôi lại bắt đầu nổi cơn hưng phấn. Người thứ hai đi xuống chính là Hoa hòa thượng, thế rồi chúng tôi lần lượt bắt chước theo họ, từng người từng người một lần lượt an toàn hạ xuống mái ngói.

Một trăm mét đi cầu thăng bằng rồi lại thêm một trăm mét leo dây thừng chẳng phải chuyện chơi. Khi đến nơi tôi gần như đứng không vững, phải nhờ Phan Tử đỡ thì tôi mới trụ vững nổi trên mái ngói lưu ly. Cảm giác lạnh buốt khi bước đi trên cây cột gỗ khiến chân tôi mất tự chủ, bắt đầu nhũn ra.

Bảy chiếc đèn pin chiếu ra xung quanh, phát hiện vòm băng bên trong vách đá tạo thành một góc khoảng 30 độ so với phương thẳng đứng. Hang núi rất sâu, cung điện nằm trọn trong lòng núi, nhìn không thấy tận cùng bên trong, đỉnh núi và đỉnh linh cung tựa hồ khít lại với nhau. Mái ngói chúng tôi đang đứng chính là gác mái của "đại điện", đầu mái cong lên đúng là triêu phượng long đầu, hai bên chái là mỏ diều hâu trấn trạch, ngói vàng cột son rất có khí khái hoàng tộc. Chúng tôi mấy người xiêu xiêu vẹo vẹo đứng phía trên, cảm giác giống như Châu Tinh Trì quyết đấu trên nóc Tử cấm thành.

Bàn Tử muốn dỡ một miếng ngói ra xem, nhưng phát hiện mái ngói với xà nhà đã đóng băng, dính chặt vào nhau, gỡ thế nào cũng không ra, đành phải bỏ cuộc. Chúng tôi bước từng bước thận trọng, bám vào mái cong hình đầu rồng, dùng dây thừng hạ xuống cửa hiên của linh cung nằm bên ngoài cửa chính.

Cửa hiên ở đây cũng giống như đài hiến tế, nền gác mái được rải đá phiến bằng phẳng, quanh năm lạnh giá khiến cho đá rất giòn, chân dẫm lên mặt băng cũng gây ra chấn động, bắt cứ lúc nào cũng có thể vỡ. Nơi này hẳn là điểm cuối cùng của sạn đạo dẫn sang vách núi, bây giờ sạn đạo đã bị phá hủy, một bên là vực thẳm sâu vạn trượng tối đen, hai bên trái phải lại là một dãy mấy cái đỉnh đồng phủ đầy băng, bên trong là thứ gì đó màu đen, có lẽ là tro tàn từ thời xưa.

Các khí cụ bằng đồng cùng với kiểu cách của cung điện thì rõ ràng là mang phong thái thời Hán, xem ra thời đó Uông Tàng Hải tới nhận thi công công trình này, về mặt thiết kế vẫn không thể vượt khỏi những hạn chế của thời đại và dân tộc của mình. Hoặc cũng có thể lúc đó sức mạnh quốc gia của Đông Hạ chỉ là đi cướp đoạt vài vùng đất sát biên giới của người Hán mà chắp vá thành.

Bên kia chính là cổng linh điện, trước cửa dựng một bia đá không chữ đặt trên mai rùa, đằng sau tấm bia đá là cổng bạch ngọc của cung điện. Cổng rất lớn, cao khoảng ba thân người, rộng bằng hai người. Trên cửa đá khắc hình rất nhiều người mặt chim đang nhảy múa giữa những đám mây, không biết nên gọi là gì, trên cửa gắn một cái đầu hổ bằng đồng thau. Trục và khe cửa đều đổ đầy nước, hai cánh cửa hiện giờ đã đóng băng lại thành một khối chắc chắn.

Đứng ở chỗ này nhìn lên khung băng chỉ thấy một tầng ánh sáng mong manh chiếu xuống, tầm mắt tôi như bị bao phủ trong sương mù, nhìn mọi thứ đều cổ xưa hơn rất nhiều, cảm giác này thật khó diễn tả thành lời.

Hoa hòa thượng chụp vài bức ảnh, chúng tôi nhân cơ hội nghỉ ngơi, ngắm nghía xung quanh. Diệp Thành dạo quanh một vòng, nhìn xuống vách núi bên dưới mà cảm khái nói: "Mẹ kiếp, tôi thật không hiểu vì sao Vạn Nô hoàng đế lại xây lăng tẩm ở cái chốn khỉ ho cò gáy này, xây dưới đồng bằng không tốt hơn sao? Cái này đúng là làm khổ người ta."

Tôi nói: "Cách nghĩ của hoàng đế cơ bản đều không giống với dân thường, có lẽ điều này liên hệ mật thiết với tôn giáo của họ. Anh xem ở Tây Tạng có rất nhiều miếu thờ, tất cả đều được xây ở những nơi người bình thường không thể đặt chân đến mục đích chính là muốn gần hơn với thần linh, cái này người phàm tục chúng ta không hiểu được đâu."

Bàn Tử lắc đầu tỏ ý không đồng tình: "Tôi cảm thấy nguyên nhân hắn xây lăng mộ trong này thực chất rất đơn giản, chính là không muốn người khác leo lên, bên trong hoàng lăng này khẳng định có đồ tốt. Lão khốn Vạn Nô hoàng đế này khi sống vơ vét của cải, chết rồi vẫn không muốn chia cho người khác, lần này chúng ta phải dạy bảo hắn cho nghiêm chỉnh mới được" Nói rồi cùng Lang Phong lấy xà beng ra nạy cửa điện.

Tôi nghe mà buồn cười, cái tên Bàn Tử này, nếu hắn mà làm hoàng đế, không biết sẽ xây lăng mộ của mình ở chỗ nào nữa.

Phía sau cửa ngọc thạch không phải là đá thông thường. Dùng xà beng nạy một lúc băng ở hai bên trục cửa mới hơi nứt ra, chúng tôi lấy cái đục đập nát mặt băng bên trên cánh cửa, cửa mới tạm nhích ra được một khe hở. Một luồng khí đen phun ra, chúng tôi liền nhanh chân né thoát. Hoa hòat nói không sao đâu, đây là nước sơn chống ẩm phết lên phía sau cánh cổng, bây giờ đều đã đông cứng lại thành dạng bụi phấn rồi.

Cửa điện xuất hiện một kẽ hở, không thấy động tĩnh gì, hình như trục bản lề của cánh cửa đã bị hỏng. Chiếu đèn pin vào bên trong, linh điện trống trải không nhìn thấy gì cả, bên trong tối tăm đến mức có thể hấp thụ hoàn toàn ánh sáng.

Diệp Thành sốt ruột muốn vào nhưng bị Bàn Tử ngăn lại, hắn quay đầu hỏi Muộn du bình: "Tiểu Ca, trước hết cậu hãy nhìn thử xem nơi này có thể có cơ quan kỳ xảo gì hay không?"

Muộn Du Bình sờ sờ cánh cửa, rồi lại nhìn phù điêu trên cửa, nhìn nửa ngày mới lắc đầu, tỏ ý không chắc chắn: "Các người đi theo tôi, đừng nói gì cả."

Người này chỉ nói một câu là đầy đủ ý tứ, chúng tôi cũng ngay lập tức hiểu ra. Tôi và Bàn Tử mạnh mẽ gật đầu, mọi người đều lấy ra vật gì đó để phòng thân.

Muộn Du Bình nghiêng mình, sải bước tới trước cánh cửa, đi vào đầu tiên. Chúng tôi theo sát phía sau hắn, lướt qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc thấp thỏm hòa mình vào bóng đêm, một cảm giác cực kì dị thường đột nhiên kéo tới, bủa vây lấy tôi.

Tôi đột nhiên thầm nghĩ, gần một ngàn năm qua, chúng tôi có thể là nhóm người đầu tiên đặt chân đến nơi này. Ngẫm lại thì suốt một ngàn năm ấy, ai mà biết trong cái cung điện lánh xa tầm mắt con người này đã xảy ra những chuyện gì?

Chương 20: Đại điện linh cung

Đại điện linh cung là phần chính của lăng mộ được xây dựng trên mặt đất, quy mô lớn nhất. Khi tiến vào, thứ đập vào mắt đầu tiên chính là hai hàng trụ đá lớn ở hai bên lối đi dẫn vào linh cung, mỗi cột trụ cách nhau khoảng năm mét. Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu tôi là bức tranh người ta dùng 'phi lai tiễn' để nâng quan quách, như thế hẳn là những đồ vật ở đây đều dùng cách này, từng chút từng chút một đưa từ vách núi sang đây, cách thức mà cho đến giờ chúng tôi vẫn nghĩ là không khả thi.

Cột đá khuất mình trong bóng tối, có thể mơ hồ nhìn thấy một đăng nô (1) to lớn màu đen, mặt phía sau tối như hũ nút, không hiểu vì sao chiếu đèn pin vào lại không thấy ánh sáng phản xạ, giống như nơi đó là một khoảng không trống rỗng, cũng chẳng nhìn thấy vật bồi táng nào.

Bàn Tử đốt hỏa chiết tử, muốn đi châm thử cái đăng nô kia. Tôi can hắn, nói tòa kiến trúc này còn đứng sừng sững ở đây mà chưa bị sập, một phần quan trọng là do nhiệt độ nơi này rất thấp. Nếu châm nhiều đăng nô sẽ kiến băng bám trên mái ngói này tan ra, có thể sẽ sụp xuống, tốt nhất không nên thắp đèn.

Chúng tôi chỉ có thể dựa vào ánh đèn pin mà lần mò trong bóng tối, có lẽ do bị hoàn cảnh tác động nên ai nấy lặng thinh không nói câu nào, cứ như sợ đánh thức thứ gì đó trong linh cung này vậy. Bốn phía tĩnh mịch đến rợn người, trong không khí chỉ còn lại tiếng bước chân của chúng tôi hòa với tiếng hít thở nặng nề.

Diệp Thành là người ít trải đời nhất trong cả đám, mới đi được vài bước đã nhịn không nổi, nói: "Cái không khí im lặng chết tiệt này làm người tôi phát run, càng im lặng tôi càng thấy sợ, mọi người nói gì đi, đừng có như lũ ăn trộm vậy chứ."

Còn chưa nói dứt lời, Muộn Du Bình đã ra dấu im lặng, khiến hắn câm bặt. Bàn Tử thì thầm với Diệp Thành: "Con mẹ nó, anh đừng có ý kiến ý cò, chúng ta không phải đang đi ăn trộm thì là gì? Vị tiểu ca này tai thính lắm đấy, cậu cứ lảm nhảm như thế rồi chúng ta dẫm phải cơ quan lúc nào không biết, lúc đấy anh có chịu trách nhiệm nổi không?"

Diệp Thành nghe nói nơi này có thể có cơ quan, luống cuống bụm miệng lại, lo lắng ngó nghiêng xung quanh sợ có ám khí bay tới.

Hoa hòa thượng thấy vậy bèn nói: "Cũng đừng lo lắng thái quá, đây là nơi hiến tế, nước Đông Hạ xưa có lẽ dùng nơi này để tế lễ hàng năm, khả năng có cơ quan không lớn. Hơn nữa nơi này cũng đã có tuổi, không cần lo lắng."

"Nói bậy." Bàn Tử vừa nghe đã muốn đốp lại Hoa hòa thượng.

Tôi vỗ vỗ hắn, bảo hắn đừng nhiều chuyện, vừa rồi còn nhắc người khác đừng nói, bây giờ chính mình lại không định yên mồm.

Khung băng bên ngoài dày đến thế, một khi đóng chặt lại sẽ rất khó để mở ra, sạn đạo bên ngoài cũng đã sớm bị thiêu rụi, chứng tỏ sau khi phong bế linh cung đã không còn ai tính đến chuyện trở về. Hoa hòa thượng không phải không biết, chỉ là chuyện này nói ra chỉ khiến mọi người thêm hoang mang không cần thiết.

Chúng tôi tiếp tục tiến về phía trước, đi thêm chưa nổi năm phút đã tới chính giữa đại điện linh cung. Phía trước hiện ra một đài ngọc, xung quanh có mấy pho tượng đầu người mình chim rất lớn bằng đồng. Mấy pho tượng này, không ra người mà cũng chẳng ra phật, trông như một cây cột vặn vẹo mọc đầy địa y, không ai biết đó là thứ gì, nhìn qua chỉ thấy vô cùng quỷ dị.

Bàn Tử bèn hỏi Hoa Hòa Thượng: "Này! Đây là cái khỉ gì vậy? Linh điện chẳng phải là nơi đặt tượng ngồi của chủ mộ sao? Chẳng lẽ chủ nhân ngôi mộ là cái thứ quái đản này? Đây... không phải là một con vắt sao?"

Hoa hòa thượng nói: "Cái này có thể là một biến thể của 'Trường sinh thiên' trong tôn giáo nước Đông Hạ, là chủ thần của bọn họ."

"Thần gì mà bựa thế." Bàn Tử lầm bầm nói: "Nhìn chả khác cái chày gỗ giặt quần áo là mấy."

Tôi lại đập cho Bàn Tử một cái, bảo hắn đừng có ăn nói thất đức thế. Chúng ta còn đang ở trong lãnh địa của nó, không sợ báo ứng nhãn tiền sao.

Nhưng tôi biết cái đồ đằng màu đen quái dị này không phải là 'Trường sinh thiên', tuy không biết nhiều về tôn giáo Tát Mãn nhưng tôi biết 'Trường sinh thiên' không có hình dạng. 'Trường sinh thiên' đại diện cho một thứ năng lực vô hạn, có mặt ở khắp nơi, một kiểu sùng bái vũ trụ. Hoa hòa thượng nói thế, hoặc là muốn trấn an Bàn Tử, hoặc là đang che dấu nỗi lo lắng của chính mình.

Cảnh vật nơi này khiến người ta nảy sinh cảm giác căng thẳng khó hiểu, ngoại trừ Trần Bì A Tứ và Muộn Du Bình kia là vẫn giữ cái bản mặt vô cảm đến phát ghét, còn lại những người khác ít nhiều đều có những biểu hiện khác thường.

Nhưng nếu như linh điện không phải là điện thờ thần thì bức tượng đó hẳn là chủ nhân ngôi mộ. Chẳng lẽ đúng như lời Bàn Tử nói, hoàng tộc Đông Hạ có hình dạng này sao? Không thể nào, đây căn bản không phải hình dạng con người, nhìn qua lại thấy giống tượng tà thần trong tôn giáo thờ vật ngoài biển. Tôi đã có lần xem một cuộc triển lãm ở Thượng Hải, thần tài ở đó có hình dạng của miếng cơm cháy, giống như một con động vật nhuyễn thể khổng lồ vậy.

Tôi đột nhiên nhớ ra bên trong con cá đồng kia có ghi: Hoàng tộc Đông Hạ đều là quái vật chui ra từ lòng đất, chẳng lẽ chính là thứ này? Không phải chứ, thứ này chỉ có thể gọi là yêu nghiệt, tôi tin người Đông Hạ không dở hơi đến mức tôn miếng cơm cháy này làm hoàng đế.

Nếu có thể xem hết những điều ghi lại trong hai con cá đồng kia thì tốt rồi. Tôi thầm nhủ, nếu thế sẽ không cần đoán mò vất vả nữa, không biết bao giờ mới có cơ hội này.

Đang lúc mải mê suy nghĩ, Phan Tử bên cạnh gọi chúng tôi: "Mọi người lại đây mà xem."

Chúng tôi quay đầu lại, thấy Phan Tử đã leo lên một pho tượng đồng, cẩn thận lấy thứ gì đó từ trong miệng pho tượng nhân diện điểu kia.

Phan Tử cũng là thành phần chuyên gây rắc rối, tôi lo lắng nói: "Cẩn thận có bẫy."

Phan Tử gật gật đầu, ra tay vô cùng cẩn thận, nhanh chóng lôi ra một con khỉ đồng mạ vàng mặt này hung tợn, trên người còn khắc vô số những hoa văn kì lạ, giống như tiểu quỷ xăm mình.

Chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên, trước giờ chưa từng gặp vật thờ được thiết kế như vậy. Phan Tử nhảy xuống, mang qua chỗ chúng tôi, vài người lập tức vây lại xem xét. Nhìn tới nhìn lui cũng chỉ phát hiện thứ này hóa ra là thanh đồng, nhưng mặt khác lại cảm thấy ngạc nhiên không sao giải thích được

Trong khảo cổ, chuyện như thế là bình thường, bởi vì trong mộ táng một mặt là lĩnh vực thần bí với những nguyên tắc chặt chẽ, một mặt lại thuộc sở hữu của cá nhân chủ mộ, trong rất nhiều ngôi mộ đã xuất hiện những vật bồi táng không thể lí giải. Những vật tuân theo quy tắc anh có thể tập hợp và sắp xếp lại, dần dần tiếp cận sự thật, nhưng những vật mang tính cá nhân thì chỉ có thể phỏng đoán. Có rất nhiều thứ trong lịch sử chỉ xuất hiện một lần, ngoại trừ chủ nhân ngôi mộ thì chẳng còn ai biết ý đồ của nó là gì.

Hoa hòa thượng kiểm tra một lượt bốn pho tượng đồng khác, cũng phát hiện những vật y như thế. Hắn đoán nếu như cái chày gỗ kia là chủ thần thật thì bốn pho tượng này chắc là thú canh gác của chủ thần. Cái này có thể liên quan chặt chẽ với truyện thần thoại của vùng này, chúng ta không sống ở triều đại kia nên không tài nào hiểu hết bối cảnh thực tế của nó. Nhưng điều khiến hắn khó hiểu nhất chính là tại sao lại có vật liệu thanh đồng ở đây, từ thời nhà Minh trở đi đồ sắt đã phát triển cực thịnh rồi mà.

Ngắm đi ngắm lại đồ đằng cũng không có phát hiện gì thêm, chúng tôi lại vòng ra phía sau, nhưng chỉ thấy bóng tối bao trùm, không biết sâu đến đâu nữa.

Lúc này, điều khiến tôi cảm thấy kì quái chính là bên trong đại điện linh cung, bình thường khi hiến tế đều dùng cự đỉnh, trường minh vãng sinh chúc, thiết noãn các, bảo sàng, bảo tọa và bài vị nhưng ở nơi này tuyệt đối không thấy, thật là kì lạ. Nhưng lí do to hơn hình thức, nước Đông Hạ vốn biệt lập trong chốn thâm sâu cùng cốc của núi Trường Bạch, cũng không biết họ sinh hoạt ra sao, không chừng trong tập tục của người Nữ Chân vốn không có mấy thứ này.

Bàn Tử đã bắt đầu phát cáu, mục đích hắn tới nơi này là tìm mấy món hời, vất vả trèo xuống đến đây mà lại không thấy món minh khí nào mang đi được, làm sao không bực bội chứ. Hắn liền hỏi mọi người có thể để hắn vòng ra phía sau đăng nô kia, nhìn xem trong bóng tối phía sau còn có thứ gì nữa không.

Muộn Du Bình khoát tay, ý nói không được. Hắn lấy một cây gậy huỳnh quang ném về phía bên kia, vẽ lên một vệt sáng xanh lục. Nhưng khi rơi vào khoảng tối phía sau đăng nô, vệt sáng nhoáng cái đã biến mất giống như rơi vào một bịch bông đen thui.

Bàn Tử thấy thế thì líu lưỡi, khẽ thì thào: "Sao lại thế này?"

Muộn Du Bình khẽ lắc đầu ý nói không biết.

Tôi bèn nói: "Lúc ở bên ngoài, chúng ta đều thấy đại điện này không lớn lắm, thế mà ánh đèn pin của chúng ta đều không phản chiếu lại, chứng tỏ tường của đại điện này được sơn chất hấp thụ ánh sáng. Anh cứ thử đi một mình xem, tôi dám cá là một đi không trở lại, thế nên tốt nhất anh đừng có manh động."

Bàn Tử nói: "Vậy các cậu cứ buộc dây thừng lên lưng tôi, nếu tìm được đồ tốt sẽ chia cho các cậu một phần, theo lệ thường là khoảng mười phần trăm, sao hả?"

Tôi đến phát điên vì cái tính này của Bàn Tử, giận dữ nói: "Anh muốn lên cơn thì đợi chúng tôi ra ngoài hết đã, đừng có làm liên lụy đến mọi người."

Phan Tử cũng góp lời: "Con mẹ nó, anh vội cái khỉ gì, bây giờ anh buộc dây thừng đi vào đó, đến lúc kéo ra chỉ còn mỗi cái chân, anh nói lúc đó chúng tôi nên vào tìm anh hay là mặc xác anh? Anh xem đội ngũ của Trần lão gia người ta đồng lòng thế nào, anh cũng nên yên phận chút đi, đừng có làm ông Ba nhà tôi mất mặt."

Bàn Tử thở dài đánh thượt, thất vọng nói: "Được lắm, các người cậy đông, tôi cãi không lại, Bàn gia đây đành nghe theo sắp xếp của tổ chức là được chứ gì. Một khi chưa nắm rõ tình hình địch phía trước, tuyệt đối sẽ không phản bội tập thể."

"Nắm rõ rồi cũng không được phản bội, con mẹ nó anh mới đi đến đây đã muốn chôm chỉa, tiến vào địa cung rồi thì tính sao đây? Sức anh liệu mang vác được bao nhiêu?" Tôi trợn mắt nói.

Bàn Tử đành cười trừ, giơ tay tỏ vẻ đầu hàng. Tôi biết rõ tính hắn, bây giờ có nói gì cũng vô dụng. Không biết làm sao để giữ chân hắn, tôi đành tự nhắc mình phải để mắt đến hắn, tránh cho hắn gặp rắc rối.

Tiếp tục hướng vào sâu bên trong, chúng tôi đã thấy điểm cuối đại điện, ở đó có một cánh cửa đá ghép lại từ bốn phiến cẩm thạch. Trục cửa đắp ngọc lưu li đốt thành hình bách túc bàn long, cạnh cửa là bức phù điêu Nhạc vũ bách hí đồ, trên cửa trạm trổ hình hai đứa trẻ đứng gác, phía sau lại không có phiến đá chặn, cửa chỉ dùng lính gác để trang trí. Sau khi cạy mở cánh cửa, chúng tôi phát hiện đằng sau nó là hành lang thông đến hậu điện linh cung, tối đen như mực.

Bàn Tử nhìn hai con rồng trên cửa, tinh thần lập tức hào hứng trở lại, hai mắt sáng bừng, nói với chúng tôi: "Tôi từng thấy loại cửa này ở một phiên đấu giá. Cái này gọi là Bàn long trục lưu ly xuyên, một phiến cửa mà giá lên tới 200 triệu đô la Hồng Kông rồi, ái chà, cánh cửa này xem ra cũng không nặng lắm nhỉ..."

Tôi biết trong đầu hắn nghĩ gì, bèn hắt cho một gáo nước lạnh: "Anh tỉnh lại đi, đó là người ta hét giá thôi. Bây giờ trong các giao dịch đồ cổ bằng tiền, thứ gì có giá vượt quá 2000 vạn đã là giá trên trời, cửa này nhiều lắm cũng chỉ có giá 40 vạn thôi."

"Không thể nào." Bàn Tử không tin được kêu lên, "40 vạn mà chém lên thành 200 triệu? Có chuyện quá đáng như vậy sao?"

Tôi thầm nghĩ hai con cá trong túi mình đều trị giá 2000 vạn đây, nhưng bán ra có ma nó thèm mua. Bây giờ mấy mánh khóe bán đấu giá ai mà chẳng biết, thằng nào cũng muốn ba năm không mở cửa, mở một cái là ăn cả đời, vớ được con gà chịu bỏ ra 200 triệu để mua một cánh cửa thì cả quãng đời còn lại chỉ lo ăn chơi nhảy múa cho hết số đó thôi.

Thế giới quan của Bàn Tử thế là đã bị tôi phá hủy phũ phàng, làm hắn chỉ còn biết đần mặt ra nhìn cánh cửa. Chúng tôi mặc kệ hắn, tiến sâu vào hành lang, hướng về phía hậu điện.

Hậu điện thông thường chính là cổng vào địa cung, bình thường đều đặt một cỗ quan quách mang tính trang trí, đốt nến trường sinh quanh năm không tắt, hoặc là đặt một lượng lớn tế phẩm, do người giữ lăng định kỳ thay đổi. Đông Hạ là một nước nhỏ nằm ẩn dật nơi biên cảnh, lúc bấy giờ luôn ở vào tình trạng chiến tranh nên đoán chừng cũng không có nhiều đồ tốt, có điều lối vào địa cung thường đặt trong đó nên chúng tôi nhất định phải vào xem.

Tiến sâu vào hành lang, hai bên trái phải và trên đỉnh đầu phủ kín những bức bích họa, trên mặt bích họa giăng lên một tầng băng, trông mờ mờ ảo ảo. Từ sau khi chứng kiến bức bích họa hai lớp trong khe nứt kia, tôi cảm thấy khá hứng thú đối với hình thức ghi chuyện này, bèn bật đèn pin lên ngắm nghía.

Vừa nhìn thoáng qua đã lạnh người, chỉ thấy trên những bức bích họa này hầu như đều vẽ hình Bách túc long vần vũ trong mây, cuộn mình có, bay lên cũng có, phủ kín cả bức tường, thoạt nhìn giống như một bầy rết.

Bích họa chia làm mấy phần, có bức vẽ rất nhiều binh sĩ mặc áo da cừu, hướng lên Bách túc long trên trời mà lễ bái.

Bức tranh đầu tiên còn vẽ hai con bách túc long đang quấn lấy nhau, không biết chúng nó đang mây mưa hay là đánh lộn nữa.

Trên mỗi bức bích họa, Bách túc long đương nhiên là chủ thể, những nhân vật xung quanh đều hết sức nhỏ bé, cũng hết sức nhún nhường, rõ ràng lòng sùng bái của người Đông Hạ đối với loại rồng lai rết này còn mãnh liệt hơn lòng sùng bái của người Hán đối với Bàn long.

Diệp Thành lấy máy ảnh ra, chụp lại toàn bộ bích họa. Những bức hình này có thể sẽ dùng đến khi bán minh khí, bởi vì Đông Hạ là đất nước còn chưa được công nhận, nếu có ảnh chụp lăng mộ thì có thể hét giá lên vài lần.

"Mọi người nói xem người được chôn trong lăng bồi táng này là ai? Là vợ của Vạn Nô vương hay là thủ hạ, sao lại vẽ loại bích họa này?" Diệp Thành vừa chụp tanh tách vừa hỏi.

Tôi cũng không biết, trong lòng cũng hiểu là có điểm bất thường.

Thông thường chủ nhân lăng bồi táng có hai loại, một là con nối dõi hoặc họ hàng thân thiết, hai là cận thần được sủng ái. Con nối dõi hay người thân vào bích họa sẽ được miêu tả bằng những cảnh tượng sinh hoạt bình thường, còn với cận thần thì là cảnh tượng trên triều đình, ví dụ như quan văn trị thủy, quan võ cầm quân. Bích họa này lại vẽ nhiều hình rồng thần như vậy, nếu đặt ở lăng chính cũng coi như bình thường, nhưng đặt ở chỗ này thật không thích hợp. Hơn nữa... Bên trong bích họa không tìm thấy hình ảnh chủ nhân lăng mộ đâu cả.

Cho dù lấy rồng làm chủ thể, những bức họa này đều chú trọng làm nổi bật sự uy nghiêm của rồng thì trong những kẻ đang thành kính dập đầu kia lẽ ra phải có một người đứng đầu. Do đây là lăng bồi táng nên người đứng đầu tất phải là Vạn Nô vương, mà chủ nhân lăng mộ này phải đứng hầu bên trái hoặc bên phải Vạn Nô vương mới đúng. Nhưng trong bích họa, theo cách ăn mặc thì người trong đó đều là nô lệ hoặc binh lính, không có người đứng đầu.

Bích họa này đặt trong hoàng lăng quả thực không hợp với lẽ thường, không tuân theo tam quy ngũ thường trong bích họa, nói cách khác bích họa này đặt ở đây có cũng như không.

Bàn Tử đột ngột hỏi: "Hay là bích họa này cũng có hai lớp?"

Tôi sờ thử một cái, thấy bích họa có vài chỗ đã tróc ra nhưng bên dưới cũng không phát hiện có gì đặc biệt, bèn lắc đầu nói không phải. Đằng sau bức bích họa bên trong khe núi lửa kia chắc chắn có một câu chuyện, bằng không ở một nơi như thế sao lại có hai lớp bích họa, thực sự không tài nào hiểu nổi.

Tôi vừa đi vừa suy nghĩ miên man, đi khoảng hơn hai trăm mét thì bích họa đột nhiên kết thúc, thì ra đã đến cuối hành lang, lối ra hậu điện đã ở ngay trước mắt.

Lối ra không có cửa chắn ngang, nhưng ở chính giữa lại bày một cái đế đèn chân hạc bằng thanh đồng, cao chừng nửa thân người, tạo hình kì lạ, mặt ngoài bao phủ một lớp băng mỏng màu trắng, khiến cho màu sắc thoạt nhìn hơi đen.

Chúng tôi ra khỏi hành lang, bước vào hậu điện. Bàn Tử châm một ngòi pháo lạnh để quan sát xung quanh, phát hiện kết cấu của hậu điện cơ bản là giống đại điện, nhưng nhỏ hơn nhiều. Chúng tôi có thể trực tiếp nhìn đến tường điện ở bốn phía, trên tường vẫn là những bích họa Bách túc long bay đầy trời, màu sắc trước đó chắc là đỏ tươi nhưng bây giờ đã đông lạnh thành màu xám tro.

Trong hậu điện trống rỗng, không có vật bồi táng nào, không cần phải tìm bởi vừa nhìn cái là biết. Giữa phòng là ba khối giường đá màu đen khắc hình Bàn long, bên trên chạm trổ kín hoa văn hình mây, đã bị đóng băng đến rạn nứt.

Cái này gọi là đình quan đài, quan quách sau khi đưa vào sẽ được đặt tạm lên đó. Ở đây có ba cái đình quan đài, hiển nhiên lúc nhập liệm không thể chỉ có một cỗ quan tài, vợ con của người bồi táng hẳn cũng được chôn cùng lúc với hắn.

Chôn cùng người bồi táng, nghe qua thì thấy vô cùng bất hạnh, nhưng vào thời ấy cũng không còn cách nào khác.

Mặt đất phía sau ba cái giường đá gồ lên một phiến đá hình chữ nhật cực lớn, trên phiến đá chạm khắc hai con quái điểu mặt người vờn quanh, chính giữa phiến đá chạm nổi Thái cực Bát quái đồ. Đây là tảng đá phong mộ, cửa vào địa cung hiển nhiên nằm dưới phiến đá này.

Trừ mấy thứ này ra, hậu điện chẳng gì nữa, trống trải quá mức.

Bàn Tử nhìn một vòng rồi nói: "Lão già Vạn Nô đúng là keo kiệt quá đáng, xây cho thuộc hạ cái nhà mà còn tiếc tiền mua đồ đạc, thế này ai mà chịu nổi. Chắc chắn đồ tốt lão ta đã độc chiếm hết rồi."

Hoa hòa thượng gạt đi: "Đừng nói bậy, có thể xây một lăng mộ lớn chừng này mà lại đi tiếc mấy món tế phẩm sao? Tiên sư nó, chuyện này chắc chắn phải có nguyên nhân đặc biệt."

Tôi cũng có cảm giác chuyện này không hề đơn giản. Tình hình bên trong hậu điện có cái gì đó không hợp lý, dù chỉ là một nước nhỏ nằm sát biên giới, như chúng tôi đã đoán từ trước là thực lực quốc gia không đủ, nhưng gì thì gì thuyền hỏng cũng còn ba phần đinh; không có vàng bạc thì chí ít cũng phải có vài món đồ đồng chứ.

Lại tìm một vòng, bốn phía đều không có đường thông đến nơi khác. Cho đến khi lại gần phiến đá phong mộ kia, Bàn Tử vung tay, dùng sức nhấc thử, thấy không chút xê dịch mới gọi người khác tới giúp.

Đề phòng bên dưới phiến đá có cạm bẫy cát độc nước độc gì đó, Muộn Du Bình cẩn thận kiểm tra mặt đất lát gạch xanh bên cạnh phiến đá phong mộ một lượt, thấy không có vấn đề gì, Lang Phong mới đặt Thuận Tử lên một cái đình quan đài bên cạnh rồi hợp sức với Hoa hòa thượng và Diệp Thành vần phiến đá qua một bên.

Mấy người vạm vỡ khí lực quả thực không đùa, chỉ nghe uỳnh một tiếng, phiến đá đã nhích được một đoạn. Bọn họ tiếp tục dùng sức, từ từ đẩy tảng đá dẹp qua một bên.

Chúng tôi nhìn xuống phía dưới phiến đá, ai nấy đều lắp bắp kinh hãi, nơi đó không có bất kì dấu vết nào của một đạo động bí mật (không có tảng đá lấp cửa mộ) mà chỉ thấy toàn là gạch xanh giống hệt nền đất cạnh đó. Chỉ có một điểm khác là phiến đá đặt ở chỗ này đã mấy trăm năm, in lên nền đất một vết hình chữ nhật, lấy chân rờ lên sẽ thấy hơi lõm vào, thì ra gạch xanh bên dưới phiến đá đã bị lún xuống mấy li.

"Sao lại thế này?" Phan Tử nghi hoặc hỏi: "Phiến đá phong mộ này là giả, đặt đó chỉ để trang trí thôi à?"

"Không phải, đây là bước cơ bản nhất trong mai táng, muốn đùa gì cũng không đùa cái này được, cửa vào nhất định ở ngay đây." Hoa hòa thượng nói.

"Hay là nó nằm ngay phía dưới tầng gạch xanh này?" Diệp Thành hỏi

Tôi nhíu mày, gạch này không có nước thép lỏng lấp kín các khe, nhìn qua hình như có vấn đề, nhưng muốn đưa ra kết luận cụ thể thì tôi lại không biết phải nói thế nào.

Bàn Tử nói: "Mặc kệ nó. Dù sao ở đây cũng chẳng còn ai khác, khó khăn lắm mới đổ được một cái hoàng lăng, cứ phá gạch ra là biết ngay thôi."

Diệp Thành lập tức phụ họa, mà thật ra tôi cũng nghĩ như vậy. Hiện giờ mấy người chúng tôi đã không còn gọi là trộm mộ nữa, mà rõ ràng là cướp mộ. Trộm mộ còn sợ kinh động dân cư xung quanh, sợ gặp phải cảnh sát tuần tra, nhưng bây giờ cục cảnh sát gần đây nhất cũng đã cách xa hơn tám trăm dặm, chúng tôi căn bản chẳng còn sợ quái gì nữa.

Chúng tôi đều cảm thấy adrenalin trong máu bắt đầu dâng cao. Thời điểm đào bới và mở cửa địa cung luôn khiến người ta hưng phấn, có đôi khi mở nắp quan tài cũng không hồi hộp đến thế, điều này dù là ai cũng không thể phủ nhận.

Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, dùng hai ngón tay dài dị thường của mình kẹp lấy một viên gạch, dùng sức rút mạnh, cứ thế rút dần đám gạch trên mặt đất lên. Diệp Thành với Hoa hòa thượng thấy thế thì há mồm trợn mắt, miệng không sao khép lại được.

Bàn Tử có vẻ rất đắc ý, bày ra vẻ mặt: Thấy chưa? Xem người anh em của ta có lợi hại không? Muộn Du Bình lại chẳng thèm nể mặt hắn, từ đầu đến cuối không liếc hắn lấy nửa cái. Có một cái lỗ hổng thì dễ rồi, chúng tôi đều tiến lên trợ giúp, dùng cuốc chim đào gạch lên.

Điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là những lớp gạch bên dưới vẫn không hề có vết tích được gắn bằng thép lỏng mà hoàn toàn là kết cấu đan xen lẫn nhau, thành ra cũng không khó đào.

Dự cảm mơ hồ của tôi lại nặng nề thêm một chút, bởi vì lối vào địa cung thường là bộ phận kiên cố nhất, năm đó lão Tôn mặt rỗ (*) đào mộ của Từ Hi, nếu không nhờ thuốc nổ thì ngay cả lớp gạch ngoài cùng của địa cung cũng chẳng phá nổi. Nơi này lại có thể thoải mái dỡ từng viên gạch ra thì thật bất thường, hay là bên dưới có thứ gì quái đản chăng?

(*) Tức Tôn Điện Anh, tướng dưới quyền Tưởng Giới Thạch, người ra lệnh đào lăng Từ Hi, ai đọc Lư Châu kí sự thì đều biết ông này rồi đó.

Nhưng không thấy Muộn Du Bình nói gì, bình thường nếu có vấn đề chắc chắn hắn sẽ phát hiện ra ngay. Nếu hắn không nói lời nào, tôi cũng không có tư cách gì mà ý kiến.

Không mất nhiều thời gian, chúng tôi đã đào ra được một cái hố to, khi lớp gạch cuối cùng bị dỡ ra thì chỉ đếm được có bảy lớp. Đại khái do độ cao của kiến trúc này là cố định, nếu không muốn mái điện chạm vào đỉnh động thì chỉ có cách xây nền móng mỏng đi. Bên dưới cái hố lộ ra một khối màu đen, hình như cùng loại với tảng đá phủ kín hoa văn mai rùa.

"Đây có phải tảng đá chắn cửa mộ không?" Diệp Thành phấn khởi kêu lên.

"Không phải." Hoa hòa thượng gõ gõ mấy tiếng lên phiến đá, gạt hết mấy viên gạch xung quanh ra, dưới lớp gạch hiện ra một con rùa hai đầu bằng đá đen, to cỡ cái bàn bát tiên, hoa văn trên mai rùa nhìn kĩ thì ra là gương mặt một phụ nữ.

"Chuyện quái quỷ gì đây?" Mọi người đều cảm thấy khó hiểu, đây rõ ràng là lối vào địa cung, không hiểu sao lại chôn một con rùa đá.

"Tại sao không thấy cửa mộ?" Phan Tử ban nãy vừa gắng sức, giờ vẫn còn phì phò thở dốc.

"Dịch nó ra rồi tính sau! Xem bên dưới con rùa này có cái gì." Hoa hòa thượng cũng bó tay, bắt đầu chỉ huy lộn xộn.

Thực ra không cần dịch chuyển cũng biết bên dưới con rùa chắc chắn chẳng có gì cả. Tôi đã thoáng thấy đá núi màu đen bên dưới con rùa, chúng tôi đã đào đến tận đáy động rồi.

Vài người lúng túng nhảy xuống hố, tính nâng con rùa đá lên. Nhưng mới khom lưng xuống, Bàn Tử bỗng kêu một tiếng, hình như đã phát hiện ra có gì không ổn.

Tôi ngó xuống thì thấy cái xẻng công binh Bàn Tử đang đeo trên lưng không hiểu vì sao lại dính chặt vào mai rùa, Bàn Tử ra sức kéo, nhưng vừa buông tay ra thì cái xẻng lại bị hút vào.

Tôi thấy ngờ ngợ, chẳng lẽ con rùa này khắc từ một khối nam châm sao?

Mấy người khác cũng vây lại xem, ai nấy đều thấy lạ. Bàn Tử lấy một đồng tiền xu thả lên lưng rùa, "keng" một tiếng, đồng xu dính chặt vào. Hắn lẩm bẩm: "Mẹ nó, đùa nhau đấy à. Sao lại có nam châm lớn như thế, chủ nhân cái mộ này làm nghề thu mua đồng nát chắc?"

Trần Bì A Tứ ngồi một bên nghỉ ngơi, thấy chúng tôi phát hiện ra thứ gì, cứ nghĩ đó là lối vào, bèn hỏi han tình hình, Hoa hòa thượng mới báo cáo lại mọi chuyện cho lão.

Còn chưa nói xong, sắc mặt Trần Bì A Tứ đã biến đổi, lão vội kêu Diệp Thành đỡ mình xuống, đến gần con rùa kia. Lão lấy từ trong túi ra một cái kim chỉ bắc, vừa liếc qua một cái đã xanh mặt, giận dữ đập cái kim chỉ bắc kia xuống, lạnh lùng nói: "Không xong, chúng ta đã bị lừa! Lăng bồi táng này chính là một cái bẫy, chúng ta trúng kế rồi!"

—————————————————–

(1) Đăng nô: là loại đèn có hình người đội bát dầu, tùy kiểu đăng nô mà hình người chỉ là tượng gốm hay là thi thể người thật bị nhúng sáp tránh hư thối rồi rót dầu vào châm lửa đốt như một cây nến thật. Đây là hình đăng nô thông thường:

Chương 21: Đánh cờ

Nhìn sắc mặt Trần Bì A Tứ, tôi bất giác cảm thấy không ổn. Lão già này suốt đoạn đường tới đây vẫn giữ im lặng, gặp thời điểm mấu chốt mới nói mấy câu, cho tới bây giờ vẫn chưa một lần tỏ vẻ tức giận, nhưng lúc này, rõ ràng lão đang nổi trận lôi đình.

Hoa hòa thượng nhận ra điều này, cũng trở nên căng thẳng, hỏi: "Lão gia, sao lại thế này?"

Sắc mặt Trần Bì A Tứ cực kì khó coi, nói: "Long mạch nơi này đã bị người ta thay đổi, Tam đầu long này là giả, chúng ta phán đoán sai phương hướng của đầu rồng rồi."

Bụng tôi quặn lên một cái, vội lấy la bàn của chính mình ra xem, quả nhiên dù quay hướng nào kim vẫn chỉ về phía con rùa đá đen kia, rõ ràng là thứ cổ quái này có từ tính rất mạnh.

Tôi lập tức hiểu ra ý của Trần Bì A Tứ: muốn xem phong thủy chính xác, phương hướng là yếu tố rất quan trọng. Suốt dọc đường tới đây, Trần Bì A Tứ đều dựa vào la bàn này cùng với la bàn tưởng tượng trong đầu mình mà xác định phương hướng và hướng đi tới long mạch. Nhưng nơi này lại chôn một vật điêu khắc bằng nam châm, kích cỡ lớn như vậy, lúc chúng tôi đến ngọn núi này, hướng của la bàn chắn chắn đã bị ảnh hưởng, Trần Bì A Tứ lúc đó căn cứ vào hướng la bàn để phán đoán hướng của long mạch là hoàn toàn sai lầm.

Kết cấu Tam đầu long được suy đoán dựa trên một tiền đề sai lầm, vậy nên chắc chắn nó cũng là giả.

Nói cách khác, nơi này căn bản chẳng phải là đầu rồng gì hết. Cái gì mà 'Thai Côn Luân', cái gì mà khung băng khổng lồ bên ngoài cũng không căn cứ trên lí luận nào cả. Tất cả đều là dối trá. Chính tâm lí ám thị đã dẫn đường cho chúng tôi đi vào cái bẫy này.

(Tâm lí ám thị: hướng những suy nghĩ, hành động của người khác theo ý muốn của mình bằng các thủ thuật tâm lí)

Uông Tàng Hải chắc chắn đã nghĩ tới chuyện người đời sau có thể tìm tới nơi này, tất nhiên với hiểu biết tương đối về thuật phong thủy cho nên đã sớm có chuẩn bị. Khi chúng tôi còn chưa tiến vào lăng mộ, còn chưa kịp đề cao cảnh giác thì đã sớm rơi vào bẫy của ông ta rồi.

Tôi đột nhiên cảm thấy hụt hẫng. 'Thai Côn Luân', khung băng, những thiết kế xảo diệu như vậy hóa ra chỉ là một cái bẫy, Uông Tàng Hải quả nhiên có hiểu biết sâu sắc về giới trộm mộ.

Trước giờ tôi luôn cười nhạo vị kiến trúc sư luôn sùng bái phong thủy này. Phong thủy chẳng những không mang lại phúc lành cho chủ mộ mà ngược lại, lại là thứ dẫn đường cho đám trộm mộ đến kiếm lợi. Nhưng chúng tôi lại phạm phải sai lầm y như thế, rơi vào cái bẫy của một người bày ra từ thời thiên cổ.

Hiện giờ chúng tôi đang đánh cờ với một người đã chết mấy trăm năm trước, kết quả là vừa vào ván chúng tôi đã bị chiếu tướng. Thật là khởi đầu đầy bất lợi.

Bàn Tử và Phan Tử vẫn chưa hiểu chuyện, tôi lại phải giải thích cho bọn họ một lượt. Bàn Tử bán tín bán nghi, nói: "Không thể nào. Thời đó làm sao chế ra cục nam châm to như vậy được?"

Tôi thở dài nói: "Con rùa đá này chắc được điêu khắc từ đá nhiễm từ tính. Thứ này có giá trị không hề tầm thường, thế mà Uông Tàng Hải lại dùng nó để áp mộ. Xem ra để bảo vệ Vân Đỉnh thiên cung, lão Uông kia quyết đem hết tài trí ra dùng."

"Tôi đếch tin. Không thể nào!" Bàn Tử vẫn không chịu tin, "Nơi này xây dựng hoành tráng như vậy..."

Nói đến đây, hắn dường như cũng cảm thấy linh cung này được xây dựng theo kiểu cách rất chính thống, nhưng bên trong không hề thấy những vật phẩm bắt buộc phải có trong linh cung. Kỳ thật chúng tôi đã sớm nhận ra sự thiếu sót này, nhưng không ai ngờ rằng cả tòa linh cung này chỉ là một cái bẫy, cơ bản là Uông Tàng Hải chế tác quá xuất sắc.

Trần Bì A Tứ xanh mặt, không nói lời nào, chỉ trừng trừng nhìn vào con rùa đá kia, ánh mắt cực kì đáng sợ.

Tôi và đám người Hoa hòa thượng tụ tập lại bàn bạc, lần này coi như xong đời. Lương thực của chúng tôi chắc chắn không đủ để chuyển hướng đi về phía đỉnh Tam Thánh, bây giờ e là sẽ phải quay về sơn thôn tiếp tế lương thực. Đi một chuyến rồi quay về, xem như hoàn toàn uổng công, hơn nữa vài người trong đoàn bị thương khá nặng, có khi về thôn rồi còn phải mất thời gian nghỉ ngơi thêm nữa, trong khoảng thời gian chưa thể xuất phát này, đám người của A Ninh cho dù vừa đi vừa bò thì cũng tới nơi rồi.

Bây giờ còn không biết chú Ba sắp xếp như thế là có mục đích gì, nhưng đứng ở góc độ nào mà nói, chúng tôi đều đang ở thế bất lợi.

Nghĩ đến đây, mọi người không khỏi cáu kỉnh. Chuyện này thực ra không ai phải chịu trách nhiệm nhưng mọi người đều đang vào lúc suy sụp, có người đứng ra nhận trách nhiệm sẽ tốt hơn, bằng không bực tức không có chỗ xả, đành chỉ biết bực bội trong lòng. Những người khác sắc mặt cũng khó coi, nhưng bây giờ cũng chẳng có cách nào.

Bàn Tử thấy chúng tôi có vẻ đã nhụt chí, bèn nói: "Thôi đi. Chúng ta mau quay trở lại, chỉ là đi lầm đường thôi mà, cứ quay ra ngoài rồi lại tiếp tục lên đường. Nhóm của A Ninh chỉ có vài người, không thể nào khuân hết của cải ra được, chúng ta mau chân một chút, có khi vẫn kiếm được nhiều đồ tốt."

Tôi thấy trong đầu hắn chỉ nghĩ đến tiền, bỗng nhiên lửa giận đùng đùng bốc lên, liền cười lạnh, lắc đầu nói anh thì biết cái quái gì, chú Ba tôi gần như hi sinh hết chuyện làm ăn của mình để níu chân đám người của A Ninh, thế mà chúng ta chậm một bước, nếu trở về rồi mới quay lại, không biết còn thua bọn họ bao nhiêu xa, mà chú Ba cũng lành ít dữ nhiều. Tiên sư nhà anh, đầu chỉ biết nghĩ đến minh khí, chẳng quan tâm đến cái gì khác, đừng có lắm lời nữa.

Bàn Tử nghe thế cũng không dễ chịu gì, mở miệng tính vặc lại tôi thì bị Diệp Thành can: "Bình tĩnh bình tĩnh, bây giờ không phải lúc cãi nhau."

Không khí lập tức trở nên gượng gạo, Bàn Tử đẩy Diệp Thành ra, chửi thề một tiếng, đi qua một bên hút thuốc. Hoa hòa thượng khoát tay áo nói: "Chuyến này đi thật uổng công, mọi người đều vất vả. Bây giờ phải nghĩ ra biện pháp cứu vãn tình hình, chúng ta cùng bình tĩnh lại, nghĩ cách giải quyết được không?"

Bàn Tử nói: "Cái gì mà cứu vãn tình hình? Tôi thấy chẳng sao cả. Ở đây có cục nam châm lớn cỡ này, ai mà chẳng xui xẻo. Các người có dám chắc đám người A Ninh kia không bị lừa không? Nói không chừng bọn họ phán đoán phương hướng cũng sai hết cả, giờ có khi đã bị lính biên phòng găm đạn chi chít như tổ ong. Chúng ta cứ thử tìm kiếm quanh đây thêm một lần, cái gì mang được thì cứ mang hết đi, sau đó trở ra thật nhanh, xuống dưới chân núi sắp xếp trang bị rồi quay lại, đừng lãng phí thời gian ngồi đây nữa. Nếu đã trúng bẫy rồi thì cũng đành đối mặt với sự thật thôi."

Tôi biết thực ra Bàn Tử nói rất đúng. Có thể cho đến cuối cùng chúng tôi vẫn phải quay về rồi mới đi tiếp được như lời hắn nói, nhưng vào lúc này giọng điệu của hắn có hơi khó nghe.

Phan Tử lập tức lắc đầu: "Nói dễ nghe nhỉ? Anh bảo quay về theo đường cũ, thế anh có nắm chắc đường về không? Dù anh có nhận ra đường cũ nhưng chúng ta đã đi suốt từ sáng đến tối, anh khỏe như vâm không biết mệt nhưng chúng tôi thì không chịu được, dù có muốn quay lại thì cũng phải đợi đến sáng mai. Điều cậu Ba lo lắng là có lý, nếu cứ kéo dài thời gian như vậy, những sắp xếp của ông Ba toàn bộ đều uổng phí."

Bàn Tử nghe xong lập tức nổi điên: "Ông Ba, ông Ba, ông Ba cái shit. Mẹ kiếp, mấy người ngay đến lão ất ơ kia nghĩ gì cũng không biết, còn nói cái khỉ gì. Bàn gia ta sao lại phải quan tâm đến việc nhà các người chứ, ông đến đây là để kiếm đồ minh khí cơ mà. Mặc xác mấy người, ông tự mình đi tìm, các người cứ bám theo lão già kia sớm muộn cũng chết cho mà xem."

Bàn Tử nói xong liền tóm lấy cái túi của mình, bật đèn pin lên, quay ra phía hành lang. Nhưng mới đi được hai ba bước, Muộn Du Bình đã chặn trước mặt, không cho hắn đi tiếp.

Bàn Tử đối với Muộn Du Bình cũng có vài phần kiêng dè, không dám nổi điên với hắn, nhưng vẫn đanh giọng hất hàm nói: "Cậu muốn gì, con mẹ nó đừng có ngăn cản Bàn gia ta phát tài."

Muộn Du Bình nói: "Anh không thấy kì lạ sao? Từ khi chúng ta đến đây, dường như tâm tính ai cũng trở nên nóng nảy, ngay cả Ngô Tà cũng nổi giận."

Muộn Du Bình vừa nói một câu, Bàn Tử liền ngẩn người. Hắn lập tức quay lại nhìn tôi, tất cả mọi người mặt đều biến sắc, bụng dạ tôi cũng thấy chộn rộn.

Phải rồi, tiên sư nó chứ, vừa rồi đúng là lửa giận đột nhiên bột phát, không có lý do gì cả. Đang yên đang lành, tôi không hiểu vì sao trong lòng lại nảy sinh cảm giác cáu kỉnh i. Bàn Tử vốn là kiểu người như thế, cái giọng điệu này của hắn tôi vốn đã nghe quen rồi, không hiểu sao tự dưng lại nổi giận, đây đâu phải tính cách của tôi chứ.

Nếu là tôi lúc bình thường, dù có người nói không lọt tai cũng không độp lại hắn ở chỗ này, hơn nữa, vừa nãy Bàn Tử phản ứng cũng hơi quá.

Không lẽ mình thực sự đã bị không khí xung quanh ảnh hưởng? Tôi ngoảnh đầu nhìn khắp bốn phía cũng chỉ thấy một màu tối đen, đèn pin chiếu vào, cả không gian tối tăm chỉ có đèn pin của chúng tôi là sáng, những chỗ khác đen đặc một màu giống như một màn sương mù vây lấy chúng tôi ở bên trong, cực kì bí bách. Nhưng áp lực thì áp lực. tôi cảm thấy đây không phải nguyên nhân của cơn giận dữ không rõ ngọn nguồn này.

"Sao lại thế này? Hình như vừa nãy đúng hơi bất thường, tự nhiên lại phát hỏa." Bàn Tử dường như cũng ngộ ra, quay ra hỏi lại Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình nhìn chúng tôi nói: "Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng tôi thấy ở đây không đơn giản chỉ có một khối nam châm này đâu. Bây giờ nhất định phải bình tĩnh, các người vừa rồi cãi nhau thật vô bổ, nếu nơi này là cái bẫy..." Hắn dừng lại một chút: "Uông Tàng Hải bỏ ra bao nhiêu tinh lực để bài trí nơi này, nếu là để dụ chúng ta đi vào, tôi nghĩ chúng ta chưa chắc đã trở ra được."

Cơn bực bội lại một lần nữa trào lên trong bụng tôi, vừa nghĩ tới lời Muộn Du Bình nói, tôi cố kiềm lửa giận xuống, hỏi: "Vậy bây giờ phải làm sao?"

Muộn Du Bình không nói lời nào, chỉ nhìn thoáng qua Trần Bì A Tứ, lão cũng nhìn hắn một cái, nói: " Nếu đã vào đây rồi, chúng ta chỉ còn cách dò dẫm từng bước. Bây giờ kết luận có thể hay không thể thoát ra ngoài vẫn còn quá sớm, nhưng dù gì chúng ta cũng phải phá hủy con rùa này đi, sau đó tìm kiếm trong này xem còn thứ nào tương tự nữa không, bằng không chúng ta quay lại mấy lần thì kết quả cũng giống nhau."

Mọi người đều trợn mắt nhìn về phía con rùa đá kia, hiển nhiên xưa nay chưa bao giờ căm ghét loài rùa như lúc này.

Nhưng nam châm to có đập nát thì cũng chỉ biến thành nam châm nhỏ mà thôi, vẫn ảnh hưởng đến hướng của la bàn. Muốn loại bỏ hoàn toàn từ tính, chỉ có cách dùng lửa đốt.

Chúng tôi lấy ra ít nhiên liệu trong lò không khói, tưới lên mình rùa đá, sau đó Bàn Tử đốt một điếu thuốc, rít mạnh một hơi rồi quẳng vào đó, lửa liền bốc lên. Nhiên liệu trong lò không khói tỏa ra nhiệt lượng cực lớn, chúng tôi lập tức cảm thấy một luồng khí nóng hầm hập xông tới.

Hoa hòa thượng lấy la bàn ra, xem cây kim bên trong chuyển động.

Rùa đá bị đốt đã nhanh chóng đỏ rực lên, ngay cả gạch bốn xung quanh cũng bị nung thành màu đỏ, chúng tôi cũng nhân cơ hội mà túm lại gần đám lửa sưởi ấm.

Nơi này không có một mẩu gỗ để mà cháy, dùng nhiên liệu với độ tinh khiết cao để đốt nên chẳng mấy chốc đã xong. Cơ bản chỉ mất thời gian đốt nửa điếu thuốc, bên dưới chỉ còn lại gạch bị nung nóng bỏng cùng con rùa đá đỏ rực.

"Thế nào rồi?" Tôi hỏi Hoa hòa thượng, vừa ngó vào thì thấy kim la bàn đã không còn chỉ vào con rùa kia nữa, từ tính đã bị triệt tiêu. Hắn lại cầm la bàn đi xung quanh vài vòng, tìm xem có còn nam châm nào khác trong lòng đất, một lát sau mới gật đầu xác nhận.

Nơi này không nên nán lại lâu. Nếu đúng là cái bẫy, chúng tôi chẳng có gì mà phải lưu luyến. Vài người thu dọn trang bị, tôi ngẫm lại lời nói của Muộn Du Bình: có thể thả cho chúng ta đi vào, chưa chắc đã có thể trở ra, trong lòng nảy sinh dự cảm mơ hồ. Phải chăng sau khi chúng tôi đi vào hậu điện này, bên ngoài đã có thứ gì biến đổi? Có biến cố bất ngờ nào đó đang chờ chúng tôi chăng?

Trong đầu tôi hiện lên mấy hình ảnh không hay ho cho lắm nhưng ngay lập tức bị gạt đi. Bây giờ cũng chỉ là phỏng đoán, không cần phải tự dọa mình, cứ đi đến đâu hay đến đó.

Tuy nhiên linh cảm của tôi trong những hoàn cảnh xui xẻo lại vô cùng chuẩn xác. Đúng vào lúc chúng tôi chuẩn bị tiến vào hành lang một lần nữa, đột nhiên không biết từ xó xỉnh nào trong hậu điện liên tục truyền đến âm thanh "rắc rắc" "rắc rắc" rất giòn, hết sức chói tai. Mọi người đều nghe thấy, lập tức dừng chân, quay đầu lại nhìn.

Âm thanh vẫn không ngừng lại mà cứ tiếp tục kéo dài. Tôi nghe một lát, phát hiện nguồn âm là từ cái hố vừa bị đốt cháy truyền tới.

Trong lòng chúng tôi đều thắc mắc không hiểu thứ âm thanh kì quái này là gì, cẩn thận quay trở về. Nhìn qua chỉ thấy con rùa dưới đáy hố đã nứt ra theo vô số những vết rạn nhỏ, đồng thời một làn khói đen kì quái men theo khe nứt nhẹ nhàng lan ra, tốc độ rất nhanh, nháy mắt đã lan rộng một khoảng không, giống như một động vật nhuyễn thể thật lớn chui ra từ trong cơ thể con rùa.

Sau đó, làn khói đen cùng với bóng tối phía trên hòa trộn với nhau, không ngừng chuyển động, hình dạng giống như đồ đằng màu đen chúng tôi đã thấy bên ngoài đại điện.

"Đây là ... Trường sinh thiên!" Bàn Tử tái mặt hét lớn.

"Đừng có dọa người." Hoa hòa thượng nạt. "Có thể con rùa này rỗng ruột, nóng nở ra, lạnh thì co vào, vừa nãy bị đốt nên nứt tung ra, thiêu cháy khét thứ gì đó bên trong thôi."

Bàn Tử biến sắc: "Rỗng ruột à? Thế khói đen kia có độc hay không?"

"Chắc là không đâu. Cái này trước tiên......." Hoa hòa thượng còn chưa nói hết thì Muộn Du Bình đã làm dấu im lặng, bảo chúng tôi không được lên tiếng.

Tôi nhìn động tác của hắn mà rớt mồ hôi lạnh, vội bịt miệng lại chờ đợi, mọi người cũng đều im lặng, nín thở nhìn bốn phía, muốn biết chuyện gì đã xảy ra.

Tôi quay đầu ngó xung quanh, nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch vì hồi hộp nhưng bốn bề lại chẳng có gì khác thường. Tuy nhiên để ý nghe kĩ mới phát hiện, trong hậu điện hết sức yên tĩnh này, ngoại trừ tiếng nứt toác của rùa đá ra, còn có một âm thanh lao xao rất nhỏ, không biết là từ đâu truyền tới.

Tôi nghe nửa ngày cũng không biết đó là tiếng gì, ngay cả hướng phát ra âm thanh đó cũng không xác định được,cứ như âm thanh này trực tiếp đi thẳng tới đại não của tôi vậy. Linh cung này nằm trong khung băng, không thể có gió thổi tới, cho nên đây chắc chắn không phải tiếng gió.

Khói đen bên trên mỗi lúc càng thêm dày đặc, cái âm thanh lao xao này cũng dần trở nên dày hơn, rất nhanh, từ bốn phương tám hướng đều truyền tới âm thanh này, khiến toàn thân ngứa ngáy khó chịu.

Muộn Du Bình sắc mặt càng lúc càng khó coi, căng tai ra nghe, nhìn đám khói đen tích trên đỉnh đầu lẩm bẩm: "Trong khói có thứ gì đó!"

Hoa Hòa Thượng nghe âm thanh lao xao kia, rồi lại nhìn con rùa đá, hình như cũng nhận ra được điều gì. Sắc mặt hắn lập tức thay đổi. "Khói này là trùng hương ngọc? Bên trong con rùa này có trùng hương ngọc! Uông Tàng Hải muốn lấy mạng chúng ta."

"Trùng hương ngọc là cái gì vậy?" Tôi thắc mắc.

Không ai thèm trả lời nhưng tôi hiểu mình sẽ nhanh chóng biết được nó là cái gì. Muộn Du Bình chỉ vào Thuận Tử đang nằm trên quan sàng bên cạnh, ý bảo Lang Phong cõng hắn lên, sau đó chỉ tay về phía hành lang: "Chạy! Không cần quay đầu lại! Mặc kệ cái gì rớt vào người cũng không được ngừng, cứ chạy cho tới khi thoát ra ngoài. Nhanh lên!"

Chương 22: Bạo động

Tôi vừa nhìn sắc mặt Muộn Du Bình đã biết hắn tuyệt đối không nói chơi. Khi đụng phải huyết thi trong Lỗ vương cung hắn cũng chưa lộ ra vẻ mặt ấy, chuyện lần này chắc chắc cực kì nghiêm trọng.

Nhưng lúc này tôi không tiện hỏi hắn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ ừm một tiếng rồi co cẳng chạy trốn cùng những người khác.

Tôi cứ ngỡ mình đã quán triệt chỉ thị của Muộn Du Bình rất rất triệt để rồi, nào ngờ vừa quay đầu lại đã thấy đám Diệp Thành và Bàn Tử chạy tót vào hành lang từ đời nào. Tôi thầm rủa một tiếng đồ vô lương tâm, rồi cũng tức tốc đuổi theo.

Chạy dọc hành lang, đâm đầu qua cửa ngọc thạch vào đến đại điện rồi nhưng cái âm thanh "lao xao" kia không những không ngớt đi mà trái lại còn rõ ràng hơn. Lúc này đã có thể cảm giác rõ ràng âm thanh vọng đến từ bốn phương tám hướng trên nóc điện, giống như tiếng vô số bước chân cọ xát vào xà ngang nơi đỉnh đầu, nghe mà nổi hết da gà.

Nhưng ngẩng đầu nhìn về phía trước, tôi chỉ thấy bóng đen trải dài vô tận như một cái chăn kín mít, chẳng nhìn thấy gì, càng không biết âm thanh kia là do thứ gì phát ra. Chúng tôi bị bóng tối cùng với nỗi bất an bao phủ cứ như ngồi trên bàn chông, hận không thể thoát khỏi chỗ này ngay lập tức, cho nên mới bắt đầu đã chạy bạt mạng.

Chắc mọi người đều hiểu cảm giác gặp phải thứ mình sợ hãi trong bóng tối, nếu chỉ chạy trốn một mình thì chạy được một đoạn không xa sẽ dừng lại. Nhưng nếu cả một đám người cùng chạy thì càng chạy sẽ càng hăng, trí tưởng tượng cùng với nỗi sợ bị bỏ rơi sẽ không cho phép anh dừng lại.

Tuy nhiên tốc độ chạy của mỗi người chung quy vẫn không giống nhau. Diệp Thành đã bị dọa cho sợ mất mật, chạy còn nhanh hơn cả thỏ. Bàn Tử cũng nhanh không kém, hai người đó chuồn lẹ nhất, thoáng cái đã lao ra ngoài, chúng tôi đuổi theo muốn hụt hơi. Vả lại trong bóng đêm chỉ nhìn bóng lưng rất khó nhận ra ai với ai, vậy nên khoảng cách rất nhanh đã bị kéo giãn. Tôi ở phía sau gắng gượng đuổi theo, chỉ biết dựa vào điểm sáng nhỏ nhoi của đèn pin mà xác định phương hướng.

Cũng không biết chạy được bao lâu, sức lực gần như đã cạn, chân bất giác chậm lại. Tôi nhìn mấy điểm sáng đèn pin phía trước thấy cũng từ từ chậm lại, xem chừng đã sắp đến đích nên tôi cũng thả lỏng ít nhiều. Trong lòng chợt cảm thấy may mắn vì thể lực của tôi bây giờ đã khá hơn nhiều so với trước kia, bằng không chắc chắn đã lạc khỏi đoàn rồi.

Chạy tới nơi xem xét thì thấy mấy người phía trước đều đã dừng chân, tay chống gối, miệng há ra thở hổn hển, nhưng không thấy tăm hơi cửa đá đâu cả, trước mắt vẫn là một mảng đen thui.

Tôi hỏi đã xảy ra chuyện gì vậy, sao không chạy tiếp?

Diệp Thành thở không ra hơi, mặt nổi đầy gân xanh, bắt đầu rủa xả: "Không ổn..... Không ổn tí nào. Vừa nãy tôi có để ý đại điện rộng khoảng năm trăm bước, mà một bước chạy của tôi dài một mét, dùng tốc độ chạy đua 100m như vừa rồi chỉ mất hai phút là ra. Nhưng tôi khẳng định đã chạy hơn hai phút rất rất nhiều rồi, ít nhất cũng phải đến cái cửa ngọc kia chứ. Nhưng trước mắt lại hoàn toàn trống trải, chắc chắn là có vấn đề!"

Bàn Tử nói: "Hay là cậu đếm nhầm? Có người nào mỗi bước đều dài chính xác một mét đâu."

Diệp Thành đắc ý cười thành tiếng: "Tuyệt đối không thể sai. Mỗi bước của tôi dài đúng một mét, sai số dưới một phân, nếu cậu không tin chúng ta có thể đánh cược. Trên đường trở ra tôi nghĩ mình đã chạy đến nghìn mét rồi, chắc chắn có vấn đề."

Mấy người phía sau cũng dồn lên, thấy chúng tôi không chạy nữa thì đều giảm tốc độ, đến gần chúng tôi thì ngừng lại. Mấy người đó lưng đều đeo trang bị nặng và quần áo dày, chạy tới nơi đều mệt lử, thở hổn hển, gần như sắp khuỵu. Hoa hòa thượng há miệng thở dốc, vừa thở vừa nói: "Sao lại dừng ở đây, chạy nhanh lên, chạy một mạch ra ngoài rồi nghỉ sau."

Diệp Thành nói một lượt về tình hình hiện tại, Hoa hòa thượng cũng biến sắc, lau mồ hôi trên đầu: "Chuyện quái quỷ gì đây, lúc đi vào chúng ta đâu có rẽ ngang rẽ dọc, sao lại không thấy đường ra chứ?"

Tôi nhớ lại đường vào đây, thầm nghĩ chắc chắn mình đã trúng kế rồi, tất nhiên đó là một loại thủ đoạn chúng tôi không hiểu rõ. Tôi liền nói: "Tiểu ca nói không sai tí nào, Uông Tàng Hải quả nhiên không muốn thả chúng ta ra ngoài."

"Vậy biết làm sao bây giờ?" Bàn Tử hỏi. "Hay chúng ta đổi hướng, chạy về phía bên trái đi."

Tôi ngoảnh đầu ngó bốn vòng quanh: "Đừng, nếu đường cũ đã không về được thì chắc chắn có chạy về bất cứ hướng nào cũng vĩnh viễn không chạm đến bờ. Khỏi cần uổng phí sức lực."

Diệp Thành hoảng sợ nói: "Khốn nạn, chẳng lẽ chúng ta sẽ bị vây ở đây đến chết hay sao?"

Ngày trước ở trong ngôi mộ dưới đáy biển tôi đã lĩnh giáo sự lợi hại của mấy thứ cơ quan này, nhưng cũng mò ra được chút mánh, không đến nỗi bị nhốt đến chết như lời Diệp Thành nói. Chúng tôi có đông người, chắc chắn sẽ tìm được cách thoát thân, chỉ cần tập trung trí tuệ tập thể lại thì không thành vấn đề. Suy cho cùng Uông Tàng Hải cũng chỉ có thể tác động trong phạm vi năng lực của bản thân ông ta, mà cơ quan dù tinh vi đến đâu chắc chắn cũng sẽ có sơ hở. Chỉ e Uông Tàng Hải vốn không có ý vây hãm chúng tôi ở đây, âm thanh quái dị trên đỉnh đầu mới là thứ chúng tôi phải lo lắng.

Vừa ngẩng đầu nhìn lên, tiếng 'lao xao' lại dồn dập vang lên khiến người ta nổi da gà, sợ đến mất mật. Diệp Thành lấy đèn pin quét tới quét lui, phía trên vẫn một mảnh mịt mùng, chỉ mơ hồ nhìn thấy hoa văn rực rỡ trên xà nhà, thật là muốn bức con người ta phát điên.

Hoa hòa thượng nói: "Đứng nguyên một chỗ cũng không phải cách hay, chúng ta nên chia làm bốn nhóm chạy theo hai hướng, như vậy chung quy vẫn có một nhóm thoát ra ngoài, không đến mức ôm nhau chết chùm."

Bàn Tử hét to: "Anh nhìn cho kĩ đi, người còn chưa tới đủ. Chúng ta chỉ có vài người thế này làm sao chia thành bốn nhóm được?"

Mọi người nghe vậy vội ngó sang xung quanh đếm số đèn pin, đếm xong cả đám muốn đờ ra. Muộn Du Bình, Trần Bì A Tứ, Lang Phong cõng theo Thuận Tử và cả Phan Tử nữa cũng chưa tới. Mẹ kiếp! Một nửa quân số đã mất dạng, tôi cứ nghĩ họ đều ở ngay gần chúng tôi chứ!

Vừa rồi cả đám chạy lung tung cả, không ai để ý bọn họ tụt lại phía sau lúc nào, bây giờ quay lại nhìn bốn phía không bói ra một đốm sáng, căn bản không thể lần theo vết tích bọn họ để lại. Chẳng lẽ trong khi chạy chúng tôi đã gặp một ngã rẽ rồi chạy vào giữa cái vùng tối tăm này? Vậy thì nguy rồi, ở vào tình cảnh này mà phân tán nhau ra thì không khác chi tự sát.

Tôi vuốt vuốt hai hàng lông mày, cẩn thận nhớ lại chi tiết tình cảnh vừa rồi. Chúng tôi không phải là những người chạy cuối cùng, Phan Tử xưa nay luôn đi sau tất cả để giám sát hành động của mọi người, đây là thói quen hình thành trong thời gian đi lính. Trần Bì A Tứ tuổi tác đã cao, sớm bị tụt lại phía sau. Lang Phong lưng phải cõng thêm người, hành động bất tiện, cũng không chạy nhanh được. Mà Muộn Du Bình đúng là chuyên gia mất tích bất thình lình, khi gặp chuyện bất ngờ hắn vẫn quen bọc hậu, sau đó đột ngột mất tích là chuyện hết sức bình thường.

Những người này đều ở phía sau chúng tôi, lúc họ mất tích chắc chắn cũng không cách chúng tôi bao xa, vừa rồi cả đám chạy như phát cuồng cho nên mới không hề phát giác.

Đám người Hoa Hòa Thượng lập tức như rắn mất đầu, không biết phải làm sao. Bàn Tử hắng giọng rống to một tiếng: "Lão Phan! Các người đâu cả rồi?"

Hắn vừa cất giọng, đột nhiên từ đâu truyền đến một âm thanh hết sức rõ ràng. Âm thanh này không thể xác định phương hướng nhưng vang vọng như sấm, chỉ nghe tiếng Lang Phong hét lớn: "Chết tiệt! Hòa thượng, mau tắt đèn pin đi! Nhìn lên đỉnh đầu kìa."

Chương 23: Tường xuyến tử

"Tắt đèn pin?" Tôi nghe đã thấy mù mờ. Đã mất nhiều người như vậy còn tắt đèn pin, nếu lại mất thêm thì biết làm sao? Đây chẳng phải là tự đâm đầu đi tìm xui xẻo à. Tôi vội nhìn sang Hoa hòa thượng, dầu sao cũng là người từng trải nhất, để xem hắn phản ứng thế nào.

Hoa hòa thượng cũng căng thẳng muốn chết, thấy tôi nhìn về phía hắn bèn hỏi lại tôi: "Có tắt hay không đây?"

Bàn Tử tắt đèn pin nói: "Cứ nghe lời hắn, tắt thử xem sao."

Tôi lập tức tắt đèn pin, mấy người Hoa hòa thượng cũng lục tục tắt đi, trong nháy mắt bốn bề lại chìm vào màn đêm đen đặc. Chúng tôi vội vàng ngẩng đầu lên nhìn nóc điện nhưng nơi đó vẫn bao phủ trong một màu tối đen như cũ, chẳng thấy gì cả. Bàn Tử đang định chửi thề thì phía trên bất chợt sáng lên, chúng tôi lập tức nhìn thấy vô số đốm sáng nhỏ màu xanh lục tụ tập chi chít trên đỉnh đầu, thoạt nhìn tựa như một bầu trời đầy sao.

"Là Ngũ thập tinh đồ."

Tôi nghe giọng nói của Hoa hòa thượng cất lên bên cạnh, lại ngẩng đầu lên nhìn thì quả nhiên thấy những đốm sáng xanh lục kia sắp xếp thành hình dáng tựa như một bức Ngũ thập tinh đồ, nhưng cũng không được chính xác cho lắm bởi vì những đốm sáng màu xanh kia lại đang di động không ngừng.

"Chuyến này ta phát tài to rồi, bao nhiêu dạ minh châu thế kia." Bàn Tử kinh ngạc thốt lên.

"Không phải, dạ minh châu đâu có nhỏ cỡ đó." Tôi bắt đầu đổ mồ hôi lạnh. "Tụi nó di động, hẳn là côn trùng!"

"Côn trùng? Côn trùng gì?" Bàn Tử bắt đầu lo lắng, đại khái là nhớ đến đám bọ ăn xác: "Đom đóm à?"

"Không phải, đom đóm sáng nhấp nháy cơ. Tôi cũng không....." còn chưa nói hết câu, tôi đột nhiên cảm thấy trong cổ ngứa ngáy giống như có vật gì chui vào làm lọan. Vội vàng đưa tay lên sờ thì đụng phải con gì đó, tôi thuận tay bóp cho một phát nát bét.

Lúc đó cảm giác ở bàn tay cho tôi biết có gì không ổn: Đây là côn trùng chân khớp, hơn nữa hình như còn mọc rất nhiều chi. Tôi vội nhón tay vào trong cổ áo nhặt thứ kia ra, vừa bật đèn pin lên xem đã hết hồn, vội quẳng nó xuống đất.

Đó là một con trùng dài cỡ một bàn tay, trông cực kì giống rết. Đầu và đuôi nó mọc râu rất dài, thân dài và mảnh, chia làm chín đốt, trên lưng mỗi đốt đều có một chấm màu lục. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất của con trùng này so với rết là chân nó siêu dài, dài ngang ngửa với thân luôn, đã thế lại nhiều vô số kể, trông cứ như một đám lông rậm mọc hai bên thân vậy.

Tôi biết loại trùng này tên là 'Du diên', có nơi gọi là 'Tường xuyến tử' hay là 'Hà tiêu', cực kì tà môn. Thuở nhỏ cái gì tôi cũng dám nghịch, riêng nó là không dám đụng đến, cứ có cảm giác thứ này làm cho người ta chỉ cần nhìn thôi đã đủ khó chịu. Quê tôi người ta truyền miệng nhau rằng thứ này chỉ cần bò lên người là da thịt những nơi nó bò qua sẽ thối rữa hết. Đáng sợ nhất chính là thứ này thích chui vào lỗ tai người, giờ vừa nhìn thấy nó cả người tôi đã ngứa ran.

'Tường xuyến tử' này cũng được nhắc đến trong Liêu trai, con lớn nhất có thể dài đến ba mét, hơn nữa cũng như loài nhện loài rết, con vật này có yêu tính rất nặng.

Tôi nhìn con trùng mà toàn thân phát ớn, đột nhiên lại thấy trên đầu ngưa ngứa, sờ thử thì ra lại thêm một con nữa mới nhảy dù từ trên trần xuống.

Tôi gào ầm lên, luống cuống phủi nó đi rồi trùm cái mũ liền với bộ đồ leo núi đang mặc lên đầu. Thử chiếu đèn pin xuống mặt đất, tổ sư nó, không biết từ lúc nào trên mặt đất đã có vài con đang bò lổm ngổm, thế mà đám trùng bám trên trần vẫn không ngớt nhảy dù xuống.

Người đứng bên dưới không ai không dính trấu, Hoa hòa thượng phản ứng không được nhanh nhẹn như tôi, hắn nhảy dựng lên, không ngừng phủi thứ gì đó trong cổ áo ra nhưng vô ích. Vật kia cứ thấy khe hở là chui, nhanh chóng lách vào bên trong quần áo hắn. Thêm vào đó, không hiểu vì sao đám trùng trên mặt đất cũng thi nhau đâm đầu về phía chúng tôi, nương theo giày mà leo lên.

Bàn Tử lôi chậu rửa mặt ra úp lên đầu, tay kia cầm xẻng công binh không ngừng đập đập. Tôi thấy Diệp Thành hai tay ôm đầu bèn vội vàng chạy đến giúp, vừa giật tay hắn ra đã thấy trong lỗ tai hắn có vài con chui vào rồi.

Một số con 'Tường xuyến tử' cũng có kịch độc như loài rết, thậm chí còn độc hơn rết, thà bị bọ cạp dạo chơi đầy người còn hơn bị cái thứ này xâu xé. Tôi nghiêng đầu hắn qua một bên, vỗ vỗ vài cái để đập cho đám trùng rơi ra.

Chúng tôi cứ vừa phủi vừa chạy nhưng đâu đâu cũng là 'Tường xuyến tử' rơi rụng như mưa, đúng lúc cả đám sắp phát điên đến nơi thì bỗng nghe 'bùng' một tiếng, xa xa một ngọn đăng nô sáng rực lên, không biết là do ai châm.

Tôi chưa hết bực mình vì không biết giờ này ai còn nhã hứng mà đi đốt đèn, không ngờ 'Tường xuyến tử' trên mặt đất đã rục rịch phản ứng, chúng bắt đầu bò về phía cái đăng nô kia.

Xa xa truyền đến tiếng của Thuận Tử: "Mấy vị mau đốt lửa lên! Thứ trùng này chuyên môn tìm chỗ ấm áp mà đẻ trứng, đừng để các vị trở thành vật thể ấm nhất ở đây."

Hóa ra là tên nhóc Thuận Tử , tôi thầm nghĩ, xem ra hắn đã tỉnh lại rồi.

Tôi và Bàn Tử nghe thế bèn bò ngay đến cái đăng nô bên cạnh, thứ này khắc từ đá tảng, tạo hình một người đang cõng một cái chậu trên lưng, trong chậu có bấc đèn. Đăng nô này cao hơn đầu người, tôi leo lên xem thì thấy dầu trong chậu trải qua hàng vạn năm đã đông cứng thành xà phòng, bên trong nhung nhúc những trùng.

Tôi cầm lấy bật lửa, châm vào bấc đèn. Ngọn lửa ban đầu rất nhỏ, nhưng chờ cho dầu vạn năm bên trong từ từ nóng chảy thì ngọn lửa cũng dần bùng lên. 'Tường xuyến tử' bên trong chậu vừa thấy ngọn lửa đã không chút do dự mà vây kín lấy nó. Mấy con 'tường xuyến tử' luẩn quẩn trong chậu, chẳng mấy chốc mà bị đốt cho tơi bời hoa lá.

Tôi bật đèn pin, chiếu lên trần kiểm tra. Bức tranh rực rỡ trên xà nhà đã biến đổi, có lẽ hoa văn vừa rồi là do đám trùng kia xếp hình mà ra. Lúc này lại thêm một ngọn đăng nô nữa được châm lên, ánh lửa xuyên qua màn đêm, trở nên đặc biệt u ám. Tuy tôi vẫn không nhìn rõ người đứng cạnh nó là ai nhưng cũng lờ mờ nhận ra họ đang ở đâu, xem ra nơi này cũng không tối tăm đến độ ánh sáng không xuyên qua nổi, chẳng qua ánh sáng của chúng tôi không đủ mạnh mà thôi.

Trên đầu tôi vẫn còn vài con trùng lạc đàn rơi xuống, nhưng hầu hết tụi nó đã tập trung về phía đăng nô. Mấy người chúng tôi lấy tay che đầu, chạy về phía ánh đèn, chạy được vài bước thì gặp Lang Phong và Thuận Tử. Lang Phong ngã sóng xoài trên mặt đất, thân thể không ngừng run rẩy, Thuận Tử bên cạnh vừa xoa gáy, vừa phủi phủi đám trùng trên người hắn xuống.

Tôi chạy lại, hỏi Lang Phong làm sao vậy. Thuận Tử đáp: "Xong rồi, 'Tường xuyến tử' đã chui vào đầu, chui quá sâu nên không lấy ra được."

Bàn Tử a một tiếng, bất giác đưa tay lên móc móc lỗ tai, lẩm bẩm: "May mà ráy tai mình nhiều."

Tôi hỏi Thuận Tử: "Còn cứu được không?"

Thuận Tử lắc đầu nói: "Không biết. Trong thôn chúng tôi, một khi đã dính vào con tuyết mao tử này thì sống chết phó mặc số trời rồi."

(Tuyết mao tử là tên khác của con rết đó thôi)

Tôi vạch mi mắt Lang Phong ra xem, thấy tròng mắt hắn đã không còn tri giác, thật là quá sức chịu đựng. Nhưng thật ra đây lại là chuyện tốt, bởi kẻ này là thủ hạ của Trần Bì A Tứ, đến khi trở mặt – mà cái này chỉ là chuyện sớm muộn – chắc chắc sẽ rất khó đối phó. Bây giờ hắn mắc nạn, xem ra chúng tôi sẽ nắm chắc thêm một phần thắng. *khóc 1 dòng sông cho 4 chữ Thiên chân vô tà...*

Phan Tử đứng đằng xa gọi lớn, chờ cho cả đám tập hợp lại, tôi liên nói với Thuận Tử: "Mọi chuyện cứ gác lại đó, chờ mọi người tập hợp đông đủ rồi tính sau, đầu anh không sao chứ."

Thuận Tử gật đầu, buồn bực nói: "Sao tự dưng tôi lại bất tỉnh nhỉ? Tôi vẫn còn nhớ – mấy người muốn phá núi mà. Đây là chỗ nào vậy?"

Tôi còn chưa kịp phản ứng, Bàn Tử đã cướp lời: "Cậu hồ đồ thật rồi, ban đầu chúng tôi chỉ muốn đốt pháo ăn mừng, không ngờ gặp tuyết lở, cậu bị một tảng đá rơi xuống đập trúng đầu nên hôn mê liền. Còn chúng tôi bị tuyết vùi rồi cuốn tới nơi này, hình như là một tòa miếu, cũng không rõ chuyện gì đang xảy ra nữa."

Thuận Tử ngẫm nghĩ một lúc, nói: "Đầu óc tôi trống trơn chẳng nhớ gì nữa, nhưng sao các anh lại dám nổ pháo trên đỉnh núi tuyết chứ, làm bậy quá đáng... Không được, các người trở về phải thanh toán thêm tiền cho tôi, vụ giao dịch này quá bất lợi."

Bàn Tử còn muốn nói tiếp, nhưng tôi sợ hắn lại huyên thuyên đến tận đâu đâu cũng không biết chừng, liền vỗ vai hắn: "Đừng cà kê nữa ông tướng, chuyện để đó nói sau, bây giờ thì nhanh chân lên."

Nói rồi tôi và Bàn Tử hợp sức đỡ Lang Phong dậy, muốn đỡ hắn đến chỗ Phan Tử. Thế nhưng Lang Phong khá đô con, hai người chúng tôi phải dùng hết sức lực mới đỡ hắn ngồi thẳng lên được.

Lang Phong run rẩy, không thể giữ thẳng cổ nữa, đầu ngoẹo qua một bên. Đúng lúc tôi đang tìm cách dìu hắn đứng lên thì Bàn Tử đột nhiên nhíu mày. Tôi nhìn theo ánh mắt hắn, phát hiện sau gáy Lang Phong có một vết bầm tím, rõ ràng là bị ai đánh, tuy vết bầm này không nổi bật lắm nhưng nhìn kỹ là phát hiện ra ngay.

Bụng tôi khẽ thót một cái, dấu vết này chứng tỏ Lang Phong không trúng độc mà bị người ta đánh cho hôn mê. Tôi liếc mắt thấy ba lô của Lang Phong đang đeo trên lưng Thuận Tử, vừa định hỏi hắn đã xảy ra chuyện gì thì Bàn Tử thở dài một tiếng, ý bảo tôi đừng có hỏi. *Thuận Tử trông hiền lành vậy mà cũng nguy hiểm quá, đúng là chả tin được bố con thằng nào x.x*

Tôi nhìn vào mắt Bàn Tử, không hiểu hắn đang mưu tính chuyện gì, đành phải liếc trả một cái rồi đỡ Lang Phong lên, gắng sức giữ chặt hắn trên vai rồi dìu hắn về phía Phan Tử.

Đi qua một quãng tối om, chúng tôi cũng đến chỗ Phan Tử ở ngay trước mặt một cây đăng nô. Trần Bì A Tứ và Phan Tử đều đứng đợi ở đó, riêng Muộn Du Bình vẫn không thấy mặt mũi đâu. Tôi hỏi Phan Tử: "Tiểu ca đâu rồi?"

Phan Tử nói: "Tưởng hắn ở chỗ các cậu chứ? Tôi không thấy hắn đâu cả."

Tôi nhìn quanh bốn phía, ngoại trừ ánh sáng từ hai ngọn đăng nô do chúng tôi, Phan Tử và Thuận Tử đốt lên thì không còn ngọn đăng nô thứ tư nữa. Nhìn ra phía xa chỉ thấy hai đốm sáng mông lung đứng đó, ánh lửa âm u không hề có sức sống.

Theo lí mà nói, trong hoàn cảnh này khi nghe tiếng kêu của Thuận Tử thì ai cũng sẽ thắp sáng đăng nô phía trên, bằng không chắc chắn sẽ bị Tường xuyến tử xâu xé. Hắn không đốt đèn lên, lẽ nào trước khi nghe tiếng Thuận Tử đã trúng độc mà mất đi tri giác giống Lang Phong rồi?

Không thể nào, người hắn cứ như cây nhang muỗi, côn trùng thấy hắn là tránh xa mới phải.

Bàn Tử hét to một tiếng giữa màn đêm bao phủ bốn bề, tiếng kêu vọng đi vọng lại, quanh quẩn trong linh cung trống trải này một hồi lâu nhưng vẫn không nghe tiếng ai trả lời, tựa như Muộn Du Bình chưa hề đặt chân vào đây vậy. Đợi đến khi yên ắng trở lại cũng không nghe thấy bất kì tiếng hít thở hay bước chân nào.

Trong lòng tôi hiểu rõ, với thân thủ của Muộn Du Bình, không thứ gì có thể khống chế hắn mà không gây ra tiếng động. Nếu hắn lặng lẽ biến mất thì chắc chắn phải có lí do đặc biệt, hoặc là đã phát hiện ra điều gì nên tự mình tách nhóm. Bây giờ dù chúng tôi có quỳ xuống dập đầu thì hắn cũng sẽ không xuất hiện.

Phan Tử và Bàn Tử lại gọi thêm vài tiếng, đến khi chắc chắn không có tiếng đáp lại mớibật đèn pin chuẩn bị đi tìm. Tôi bèn ngăn bọn họ lại: "Lúc này nhất thiết không thể phân tán, chúng ta trước hết phải xử lí tốt người bị thương, sau đó đi cùng nhau."

Mọi người thấy cũng đúng, bèn vây lấy Lang Phong. Trần Bì A Tứ kiểm tra sơ qua tình trạng thương tích của Lang Phong, dựa vào tính cách cáo già của lão, tôi thấy lão gần như ngay lập tức phát hiện vết thương sau gáy Lang Phong. Thế nhưng lão không hề tỏ ra kinh ngạc mà chỉ liếc tôi một cái, không biết là có ý gì.

Tôi bỗng nhiên cảm thấy có gì đó không ổn. Vừa rồi người dìu Lang Phong trở về là tôi và Bàn Tử. Dựa theo logic thông thường thì Trần Bì A Tứ sẽ không nghi ngờ người dẫn đường tạm thời tìm được trong thôn là Thuận Tử, mà sẽ rất dễ đi đến kết luận kẻ đánh bị thương Lang Phong là một trong hai người tôi hoặc Bàn Tử, cũng có thể là cả hai.

Sau này lão sẽ dùng kế sách gì đối phó với chúng tôi thì thật khó mà nói trước, đây đúng là tự dí nòng súng vào đầu mình mà.

Lại nói, Thuận Tử là lính xuất ngũ, dù gì cũng là quân biên phòng tuyến đầu chính quy, nếu muốn đánh bất tỉnh Lang Phong cũng không phải chuyện khó khăn gì. Có thể hắn còn e dè chúng tôi – suy cho cùng thì chúng tôi thân phận bất minh, lại rõ ràng không phải người tốt – thế nên hắn tạm thời giả ngu để qua mặt chúng tôi. Nhưng tôi cũng không thể vạch trần hắn được, hoàn cảnh lúc này rất phức tạp, thêm bạn bớt thù vẫn hơn.

Lúc ấy đáng ra không nên thuê một tay lính xuất ngũ làm dẫn đường, tôi thầm nhủ. Trong lòng cảm thấy mọi chuyện cứ rối tinh lên như mớ bòng bong, không biết nên xử lí sao cho phải.

Thuận Tử đứng bên cạnh lật ngược Lang Phong lại, sau đó lấy từ trong túi ra hai cây tăm, vạch lỗ tai Lang Phong lên rồi gảy 'Tường xuyến tử' trong tai hắn ra ngoài. Tường xuyến tử vừa rơi xuống đất, Bàn Tử lập tức dẫm cho một cú nát bét.

Thuận Tử nói với chúng tôi, loại trùng này bọn họ gọi là 'tuyết mao', là vị thuốc Đông y cực kì hiếm gặp. Loại trùng này bình thường chỉ xuất hiện bên dưới ranh giới tuyết, phía trên ranh giới tuyết thì chưa gặp phải bao giờ, không hiểu vì sao chỗ này lại tập trung nhiều như vậy, trong đầu Lang Phong đã có mầm mống trùng, e rằng sẽ không duy trì được lâu.

Nói vậy là chúng thông qua lỗ tai để chui vào đại não đẻ trứng. Tôi nắn nắm hàm dưới của Lang Phong, phát hiện nó đã sưng tấy, chắc chắn Tường xuyến tử đã cắn một cái bên trong lỗ tai khiến hắn trúng độc. Tuy không nghiêm trọng như lời Thuận Tử nói, nhưng đám sâu này rốt cuộc từ đâu mà đến, thực sự khiến người ta cảm thấy khó hiểu.

Bàn Tử nhìn lên đỉnh đầu, nói: "Chắc chắn chúng nó trốn trong lớp mái ngói trên nóc nhà rồi, chỉ chờ Trùng hương ngọc bị đốt là thức tỉnh, con mẹ nó chiêu này thật đúng là độc địa. Nhưng lão già họ Uông kia chẳng lẽ đã đoán trước cả chuyện chúng ta sẽ đốt con rùa từ tính sao?"

Tôi thầm nhủ trong bụng, cái đó là đương nhiên. Nếu đã đem chôn rùa từ tính bên dưới tảng đá phong mộ, tất nhiên là muốn đám trộm mộ phát hiện ra, sau đó phá hủy nó. Dù đốt hay là đập nát có lẽ đều làm cho Trùng hương ngọc bốc hơi, đánh thức đám du diên ngủ đông trong mái ngói cung điện. Nhưng nếu có kẻ vẫn giữ sự tôn kính đối với linh cung này mà không phá hủy nó thì con rùa từ tính ở đây có thể vĩnh viễn bảo vệ Vân Đỉnh thiên cung được an toàn.

Hoa hòa thượng có mang theo ít thuốc men, liền lấy ra tiêm vào chân Lang Phong một mũi, nói là tạm thời có thể giữ được mạng hắn. Tiêm xong chúng tôi cởi áo khoác ngoài của Lang Phong ra, giũ sạch đám trùng đang cuộn tròn trên đó, tiêu diệt sạch sẽ. Phan Tử nói với Trần Bì A Tứ: "Tứ gia, độc tính của loài trùng này rất lợi hại. Tốt nhất chúng ta nên nhanh chóng rời khỏi đây, nếu không lát có thêm người bị cắn thì e rằng thuốc này không đủ."

Trần Bì A Tứ nhìn quanh bốn phía, nhíu mày. Diệp Thành thở dài, kể cho Phan Tử nghe đầu đuôi chuyện chúng tôi phát hiện ra mình bị vây khốn. Phan Tử nghe xong cũng cảm thấy vô cùng nghi hoặc: "Anh dám chắc chúng ta không rẽ nhầm vào đâu chứ?"

Diệp Thành đang định mở miệng thì Thuận Tử bỗng 'Hử?' một tiếng, nói "Thật kì quái!" Tôi quay sang nhìn, thì ra ánh lửa từ chiếc đăng nô hắn đốt lên lúc nãy đã biến mất trong bóng tối phía xa.

Dầu thắp trong đăng nô đã mấy trăm năm không dùng, đến giờ vẫn còn đốt được đã phải cảm tạ trời đất rồi. Tôi nói chuyện này không có gì là bất thường cả, nhưng hắn vẫn cau mày, lại đập tôi mấy cái rồi chỉ cho tôi xem.

Tôi bắt đầu bực bội, đúng lúc này lại chứng kiến ngọn lửa trong đăng nô thứ hai do tôi châm lên bắt đầu lay động, tựa như có người nào đó đi qua bên cạnh kéo theo một luồng gió khiến lửa chập chờn vậy.

Trong đại điện vốn kín gió, nếu không có thứ gì đó lướt qua bên cạnh, tuyệt đối sẽ không xảy ra chuyện này.

Tôi còn tưởng Muộn Du Bình trở về, muốn gọi hắn một tiếng nhưng Bàn Tử lại bịt kín miệng tôi. Tôi thấy ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa mơ hồ in bóng một người, chắc chắn không phải Muộn Du Bình bởi vì cái bóng này rất cao lớn.

Tôi cảm thấy không ổn, nhưng cái bóng kia quá sức mơ hồ, ngay cả đường nét cũng nhìn không rõ lắm. Trần Bì A Tứ nhìn đăm đăm một hồi, đột nhiên đưa tay len bắn ra một viên đạn sắt bay xẹt qua vị trí phía trên ngọn lửa của đăng nô đầu tiên. Luồng gió mạnh lướt qua làm lửa bùng cháy, không gian chớp mắt sáng bừng, chúng tôi lập tức nhìn thấy một bóng người có cái cổ dài khác thường đang đứng cạnh đăng nô.

Chương 24: Bách túc long thần

Viên đạn sắt của Trần Bì A Tứ vừa bay qua, ngọn lửa chập chờn trong nháy mắt lại trở nên u ám. Bóng người kia mơ hồ trở lại, loáng cái đã không còn thấy rõ. Viên đạn sắt không biết rốt cuộc đập phải chỗ nào, phát ra một tiếng giòn giã rồi lăn xuống mặt đất, tiếng va đập vang vọng giữa linh cung trống trải làm người ta nghe mà gai ốc nổi đầy mình.

Trong tích tắc ánh lửa bùng lên kia, mọi người đều bị cái bóng kia dọa cho nhảy dựng. Thuận Tử lại càng hoảng sợ, khẽ kêu lên kinh hãi: "Cái thứ quái quỷ gì thế này?!"

Hoa hòa thượng lập tức bưng miệng cậu ta lại không cho nói tiếp, vài người đã vô thức chạm tay lên chuôi dao.

Trần Bì A Tứ khoát tay bảo chúng tôi đừng căng thẳng như thế, sau đó liếc mắt sai phái Hoa hòa thượng. Người kia lập tức nhảy lên đăng nô kế bên, đưa một tay đập cho lửa tắt ngóm.

Tôi không thể không bội phục sự tỉnh táo của Trần Bì A Tứ. Trong hoàn cảnh quái gở thế này, người ta thường không nghĩ đến chuyện tắt nguồn sáng cạnh mình mà đều mong nơi mình đứng càng sáng càng tốt; nhưng thật ra trong tình huống này, giấu mình vào bóng tối mới là an toàn nhất.

Đăng nô vừa tắt, trong nháy mắt bốn bề lại chìm vào bóng đêm. Màn đêm dày đặc như sương mù thoáng cái đã bủa vây lấy chúng tôi, đăng nô phía bên kia dường như càng thêm sáng tỏ.

Chúng tôi cũng lần lượt tắt hết đèn pin của mình đi, ai nấy đều nín thở theo dõi cái bóng phía bên kia. Bóng tối vây quanh lập tức kích thích thần kinh của tôi, khiến tôi nhanh chóng cảm nhận được trái tim mình đang đập vô cùng dữ dội.

Cái bóng kia rõ ràng là của một người, thân hình phần lớn hòa vào bóng đêm. Thứ gây cho người ta cảm giác dị dạng là cái cổ dài đến kì quái của hắn, kèm thêm thứ gì đó mà người ta không thể nói rõ là gai hay là xúc tu, thoạt nhìn không giống con người, mà cứ như... cứ như loài chim.

Tôi vô thức rùng mình ớn lạnh, tim đập thình thịch. Ngoại trừ Muộn Du Bình, những người khác đều ở quanh đây. Cái bóng này nhìn qua cũng biết nhất định không phải Muộn Du Bình, lẽ nào trong đây còn có ai khác?

Vậy hắn là hạng người gì? Vì sao lại xuất hiện trong linh cung trên đỉnh núi tuyết này? Chẳng lẽ trận tuyết lở ban nãy đã làm lính biên phòng chú ý, còn người nọ là quân giải phóng đi tiền trạm?

Cũng không phải. Chưa nói trận tuyết lở xảy ra tít trong khe núi, nếu thật sự bị phát hiện, muốn chạy tới nơi bét nhất cũng mất một ngày, làm gì mà nhanh dữ thế.

Tôi đột nhiên lại nghĩ, linh cung này là cái bẫy do Uông Tàng Hải sắp đặt. Đã là bẫy, dĩ nhiên phải hiểm ác vạn phần. Kẻ đạp trúng bẫy tuyệt đối không thể tưởng tượng được chờ đợi hắn trong cạm bẫy là thứ gì, mà cái bóng này, phải chăng chính là quái vật Uông Tàng Hải bố trí sẵn từ khi đặt bẫy?

Chúng tôi không dám thở mạnh, nhìn chòng chọc vào cái bóng kia, hòng suy luận ra điều gì từ hình dạng và động tác của nó. Ít nhất cũng phải để cho chúng tôi biết thứ này rốt cuộc là người hay là 'thứ gì đó' chứ.

Nhưng thật kỳ lạ, cái bóng kia vẫn cứ đứng trân trân ra đó y như một bức tượng đất, đến lắc cũng không thèm lắc lấy một cái, dường như không phải vật sống.

Đợi được một lát, thấy hai bên vẫn chẳng có động tĩnh gì, Bàn Tử bắt đầu sốt ruột, bèn nói nhỏ: "Không phải chứ, là vật sống ắt phải cử động. Thứ này vẫn không hề nhúc nhích, hay là chúng ta hoa mắt rồi, thực ra nó chỉ là bóng của mấy cái đăng nô khắc trên cột thôi?"

Diệp Thành đáp: "Nói nhảm, đăng nô không phải đều đứng một bên sao? Làm sao nó mọc chân chạy sang bên này được?"

Bàn Tử thì thào: "Chẳng phải có linh khí đất trời thì đàn tỳ bà cũng thành tinh sao (*)? Không chừng mấy cái đăng nô bằng đá trong này đã thành tinh cả rồi, có thể tự do đi lại."

(*) Trong Tây du ký có "tỳ bà tinh" nhưng thực chất nó không phải cây tỳ bà thành tinh, mà là con bọ cạp tinh ở trong động Tỳ Bà nên gọi tỳ bà tinh. Chi tiết này không rõ là tác giả cố tình, hay nhầm lẫn thật.

Tôi nghe hắn nói mà cả người phát ớn, lúc này cũng không dư hơi đi đánh giá lời Bàn Tử nói là đúng hay sai nữa. Mới vài tháng trước đây đến cả bánh tông tôi còn không tin là thật, mà đến giờ số bánh tông tôi nhìn thấy đã ngồi kín hai sới mạt chược được rồi, giờ hỏi có yêu quái hay không, tôi thật chẳng dám đoán. Nhưng Bàn Tử nói đăng nô bằng đá kia thành tinh, tôi phần nhiều vẫn cảm thấy đây là một câu nói đùa. Bàn Tử càng vào lúc nguy hiểm thì lời nói lại càng không đáng tin, điều này cũng liên quan mật thiết với tính cách của hắn.

Nhưng có một điều Bàn Tử nói không sai: chỉ cần là vật sống thì nhất định sẽ phải cử động. Cứ coi như nó chỉ là một cái bánh tông đi thì cũng không thể đứng trơ ra đó như tảng đá, vậy mà cái bóng này vẫn đứng im không nhúc nhích, thật là quái gở.

Bất kể nó là thứ gì, chúng tôi cũng không thể giằng dai ở chỗ này mãi. Tuy nhìn không thấy nhưng tôi biết rõ bốn phía trong này lổm ngổm bò đầy "Tường xuyến tử", nếu lại có người bị cắn, tuy không nguy đến tính mạng nhưng trên núi tuyết thiếu thốn y phục thuốc men, đây cũng là chuyện nguy hiểm chết người.

Chúng tôi thì thào chụm lại bàn tính, mấy người kia cơ bản cũng nghĩ giống tôi. Bàn Tử hạ giọng cực kỳ thấp, nói: "Vậy ta cũng đừng đứng đực ra đây ngắm nghía thân hình của nó nữa, cứ lén lút lại gần mò thử xem. Nếu là người thật thì đè mọe nó ra mà tẩn!"

Vài người lên tiếng tán đồng, tôi cảm thấy bên người có trận gió nổi lên, nóng ruột muốn chạy qua ngay. Bốn bề tối đen thế này thì cũng chẳng sắp xếp đội hình cho nổi, tôi cứ kiên trì nhắm hướng ánh lửa duy nhất mà đi thôi.

Cái đăng nô kia cũng không xa chúng tôi lắm, tiến lên vài bước, cái bóng kia càng lúc càng hiện rõ, tôi càng nhìn càng thấy nó quái đản. Bất tri bất giác, một thứ dự cảm nổi lên ngày một rõ rệt. Khi sắp đến gần khu vực ngọn đèn kia có thể soi sáng, tôi vô thức bước chậm lại, náu mình trong bóng tối, nhẹ nhàng từ tốn mà áp sát.

Cho đến khi cái bóng đen kia chỉ còn cách hơn mười bước, tôi mới nheo mắt nhìn nó cho kĩ, soi từng ngóc ngách một, tim đập càng lúc càng nhanh, mồ hôi lạnh bắt đầu tuôn ra như tắm. Tôi đành phải cầu khấn ông trời đừng để tôi gặp phải thứ mình không muốn thấy.

Nhưng theo tầm nhìn ngày càng gần, tôi dần dần ý thức được ông trời chắc chả thèm phù hộ cho cái hạng người trộm mồ quật mả chúng tôi đâu. Thứ trước mắt càng lúc càng hiện rõ, trong nháy mắt tôi không nhấc nổi bước chân nào nữa, chỉ thấy người nhũn cả ra, cuối cùng toàn thân vậy mà cứng đờ tại chỗ không nhúc nhích nổi nữa.

Tôi hoàn toàn không thể dùng lời diễn tả được những gì mình thấy. Con quái kia có thể nói là một con vật khổng lồ hình dạng giống du diên, nhưng có đúng là du diên không thì tôi cũng chịu, bởi vì nó quá bự. Tôi biết con du diên bự nhất có thể dài hơn một mét, nhưng con này rõ ràng còn lớn hơn nhiền. Con du diên ngóc nửa người lên như rắn, cuốn lấy một ngọn đăng nô. Cần cổ mà chúng tôi thấy thật ra chỉ là cái bóng do cặp ngạnh độc to tướng và xúc tu dài ngoằng của nó tạo thành. Vô số cái chân dài ngoằng rủ xuống, con trùng bự vẫn không hề nhúc nhích, tựa như đang hít lấy chất khí tỏa ra từ dầu đèn.

Trong phân ngành động vật nhiều chân, loài rết Scolopendra galapagoensis vùng biển Caribe có thể dài từ 40 đến 60 cm, tuy nhiên loại dài hơn một mét thì đến nay chưa từng phát hiện. Với hình thể khổng lồ như vậy, e rằng tuổi thọ của con trùng này phải đến hơn một ngàn năm rồi.

Tiếng người rên rẩm vọng đến từ bốn phía, tôi thậm chí còn nghe thấy Bàn Tử thì thào chửi một câu: "Tổ sư nó!" Hiển nhiên mấy người khác mò đến đây cũng đã nhìn thấy nó, bắt đầu không tin vào mắt mình. Tôi nhớ tới khối phong thạch khổng lồ có khắc hình rồng lai rết mình đã gặp giữa đường, bỗng vỡ lẽ ra vì sao con rồng của người Đông Hạ lại mọc ngàn chân như rết.

Xem ra sau khi rút vào núi sâu, bọn họ bắt gặp con du diên khổng lồ đã tôn nó thành hóa thân của rồng rồi.

Trong lúc đầu óc rối loạn, tôi nghe có người hô lên vài tiếng, ý là: "Rút lui!" Lúc đó cũng chẳng biết câu này do ai nói, tôi bất giác lùi về phía sau, cứ lùi mãi lùi mãi, cũng chẳng biết đã lùi đến chỗ nào, nhìn bốn phía chỉ thấy một màu đen kịt. Thì ra sau khi Hoa hòa thượng dập tắt đăng nô của chúng tôi ở đằng kia thì chúng tôi đã không còn mục tiêu để rút về nữa, vừa lùi lại đã rã đám hết.

Tôi lại bật đèn pin lên, muốn thắp một cây đăng nô để thu hút sự chú ý của bọn họ, lại thấy cách đó không xa cái bóng của con du diên chớp lên một cái, đăng nô cạnh nó nháy mắt đã bị dập tắt, một tích tắc sau con du diên khổng lồ đã hòa lẫn vào bóng tối.

Đột nhiên tôi nhớ ra Thuận Tử đã nói du diên có tập tính lao vào hơi nóng, chợt có cảm giác không ổn. Đúng lúc này, ở một chỗ rất xa, Hoa hòa thượng đốt một cây pháo lạnh rồi hô: "Mọi người tuyệt đối không được thắp đèn trên đăng nô, hãy nhìn pháo lạnh mà tập hợp lại chỗ tôi này."

Trong bóng tối tôi nghe thấy tiếng vô số cẳng chân cào đi cào lại trên mặt sàn, tần suất cực nhanh, tôi nghe cũng không xác định được nó ở chỗ nào. Dù sao tiếng động cũng ngày càng lớn, mau mau ba chân bốn cẳng mà chạy thôi.

Trong lúc hỗn loạn, tôi nghe tiếng Bàn Tử gọi với lại từ một hướng khác: "Tại sao lại không thắp? Thắp cái này lên tạm thời sẽ dụ được con trùng bự kia một lát, không thắp để nó lao thẳng vào chúng ta hở? Nó rõ lắm chân, chúng ta đua không lại với nó đâu."

Hoa hòa thượng đáp: "Không được! Tôi vừa ngửi thứ dầu thắp đèn kia, trong dầu có Trùng hương ngọc. Mùi đó mà phát tán đi, càng nhiều.... cái loại này leo ra, đến lúc đó càng phiền toái." Hắn thoáng dừng lại một chốc, hiển nhiên không biết phải gọi loại du diên khổng lồ này là gì.

Tôi nghe hắn nói khả năng không chỉ có một con, trong lòng lập tức kinh hoảng, vừa nhằm hướng pháo lạnh của Hoa hòa thượng mà chạy trối chết, vừa gào lên: "Chúng ta xử lí sao với con này đây?"

Hoa hòa thượng đáp: "Cứ chạy đến nơi rồi tôi khắc có cách. Coi chừng đằng sau đó, giống trùng này bò nhanh lắm đấy."

Tôi nhanh chóng nương theo ánh pháo lạnh chạy bổ tới bên cạnh Hoa hòa thượng. Thoáng cái bốn phía xuất hiện nhiều vệt đèn pin loang loáng, có mấy người từ trong bóng tối vọt ra. Chúng tôi chạy hụt cả hơi, chẳng thốt ra nổi lời nào. Bàn Tử đè tay lên ngực, vừa nhìn nhìn bóng tối vây quanh, vừa hỏi Hoa hòa thượng: "Được rồi, đã tới nơi, có cách gì thì nói mau đi! Thứ kia đuổi đến đít rồi."

Nói xong liền nghe thấy tiếng chân bò khiến người ta co rúm kia vang lên từ một hướng, nhưng rồi thứ tiếng kia nhanh chóng biến mất, hình như con trùng bự này cũng không đuổi tới, mà đã ngừng lại rồi.

Hoa hòa thượng cũng thở hồng hộc, vừa ho khan vừa vỗ vỗ vào ba lô, trình bày: "Thực ra cũng không phải cách gì đặc biệt. Chúng ta còn thuốc nổ, cho nó nổ chết luôn."

Bàn Tử nghe xong cười lạc cả giọng, nói: "Vậy cũng tốt, nhiệm vụ vẻ vang này phải nhờ cậy anh thôi. Anh cứ đi đi, tôi sẽ chăm sóc giùm ông cụ ở nhà."

Hoa hòa thượng đáp: "Tôi không cần phải đi, đã sắp xếp xong rồi, tự nhiên sẽ có người làm."

Tôi bỗng nhiên cảm giác trên mặt anh ta thấp thoáng một tia lạnh lẽo, đồng thời cũng hiểu ra điều gì đó, bèn ngoảnh lại, biến sắc hỏi: "Lang Phong đâu?"

Hoa hòa thượng không nói câu nào, chỉ nhìn về bóng tối phía bên kia, nói: "Chuẩn bị cho tốt. Sắp tới lúc rồi."

Lời còn chưa dứt, một tiếng "Ầm" thật lớn thình lình vang lên, bóng tối bên kia bỗng bùng lên một quầng lửa chói mắt. Theo phản xạ, cả đám chúng tôi bổ nhào xuống nằm rạp trên đất, lập tức có vô số vụn gỗ trút xuống như mưa trên đầu, cả mặt sàn rung lắc dữ đội, ván gỗ bắn lên suýt nữa đập vào mũi tôi. Sức ép của vụ nổ không lớn, nhưng tiếng nổ rất rền, chấn động đến nỗi màng nhĩ tôi ong ong cả lên, nhất thời không nghe rõ gì cả.

Tôi ngẩng đầu nhìn về hướng vụ nổ, chỉ thấy sàn đã bị phá ra một cái hố to, miệng hố cháy xém. Con "rồng du diên nghìn chân" đã nát bét phần đầu, thân vẫn không ngừng quằn quại, mà chỗ bị nổ tung, dĩ nhiên là nơi ban nãy chúng tôi đặt Lang Phong.

Tôi lập tức hiểu ra Hoa hòa thượng đã làm gì. Chẳng trách hồi nãy con "rồng du diên nghìn chân" kia không đuổi tới chỗ chúng tôi, thì ra nó đã bị Lang Phong đang bất tỉnh ở đằng kia hấp dẫn, mà Hoa hòa thượng lại cài thuốc nổ lên người hắn...

Tôi thực sự không dám tin vào mắt mình, ngoảnh đầu lại nhìn Hoa hòa thượng và Trần Bì A Tứ. Mấy người này đều không tỏ thái độ gì, cứ như chuyện này không hề liên quan đến mình.

Trần Bì A Tứ nhận thấy vẻ mặt của tôi, bèn vỗ vỗ tôi, nhẹ giọng bảo ban: "Trước ba sau bốn, ông nội ngươi không dạy ngươi sao? Nếu đổi lại là ta, bọn họ cũng sẽ làm vậy với ta thôi. Đã làm cái nghề này, tự nhiên phải giác ngộ được điều này."

Trước ba sau bốn là tiếng lóng trong giới thổ phu tử. Ý là đụng chuyện gì, trước khi làm phải cân nhắc ba bước, sau khi làm phải cân nhắc bốn bước. Thổ phu tử trong lòng đất, mỗi hành động đều liên quan đến tính mạng, cho nên trước khi làm bất cứ chuyện gì anh đều phải cân nhắc đến chuyện sẽ phát sinh sau ba bước và cách xử lý cần thiết. Nếu cảm thấy mình không có cách giải quyết thì chuyện này anh không thể làm, hơn nữa những suy tính như vậy phải được tập thành thói quen.

Mục đích của Trần Bì A Tứ khi nói những lời này, tôi cũng hiểu rõ. Kỳ thực tình trạng của Lang Phong đã như vậy, cơ hội theo chúng tôi sống sót ra ngoài đã là cực kỳ xa vời rồi. Ý ông ta muốn nói là sớm muộn gì cũng chết, chi bằng cho hắn chết thoải mái một chút.

Ông nội tôi đã từng nói trong quyển bút ký của mình, ở dưới lòng đất có những khi chờ anh ý thức được nguy hiểm thì đã muộn, cho nên khi nguy hiểm còn chưa phát sinh anh đã phải nghĩ đến nó. Trộm mộ là công việc tỉ mẩn, lại cần có gan, xưa nay không biết đã có bao nhiêu kẻ đầu óc nửa vời nóng máu xông xuống cổ mộ, trực tiếp biến mình thành đồ bồi táng rồi.

Nói thì nói thế, nhưng cái chết của Lang Phong thật sự là quá oan uổng, bỗng chốc làm tôi nảy sinh cảm giác ngay cả đứng bên Trần Bì A Tứ cũng không hết sợ hãi.

Chỉ tiếc lúc này tôi cũng không có cách nào bày tỏ nỗi lòng mình, đành hít sâu một hơi, cố gắng giả bộ như chưa có chuyện gì xảy ra.

Ánh lửa phía trước dần dần lụi đi. Cọc gỗ ván sàn ở đây đều đã đóng băng nhiều năm, trong khe kẽ toàn là những hòn băng do hơi nước trong không khí kết thành, càng đốt càng chảy nhiều, càng chảy nhiều lại càng khó bắt lửa.

Mấy người chúng tôi bước về phía cái hố bị phá ra trên sàn. Bước chân tôi nặng trĩu như đeo đá, rất sợ mình đột ngột nhìn thấy mảnh chân tay gì đó của Lang Phong. Bàn Tử và Phan Tử lại không có phản ứng gì lớn, hình như đã quá quen với những chuyện thế này rồi, hoặc cũng có thể bọn họ cho rằng biểu lộ sự buồn bực ra ngoài chỉ là vô ích. Bàn Tử thấy tôi có vẻ không cách nào nguôi ngoai, còn vỗ vỗ tôi, bảo khẽ: "Thôi được rồi, dù sao cũng là người của bọn họ, không chừng trên tay còn mang nợ máu, làm chuyện ác sớm muộn cũng phải trả giá."

Thuận Tử vẫn không rõ đã xảy ra chuyện gì, gần như đã bị dọa cho ngây người ra, ngơ ngác đi theo chúng tôi.

Đến chỗ cái lỗ bị phá ra trên sàn, chiếu đèn pin xuống mặt dưới một cái, gạch đá dưới mặt sàn bằng gỗ bị nổ tung thành một cái hố to, dưới đất dùng đá tảng màu đen làm hành lang gia cố, cũng bị thổi bay mất lộ ra một khe hở, bên dưới trống không.

Tôi biết rõ bên dưới là nơi nào, vì tòa linh cung này được xây dựng một phần trên sườn dốc nhưng sàn lại nằm ngang, phía dưới đảm bảo sẽ phải có một khoảng không gian hình tam giác dùng xà chống đỡ; tất cả các công trình xây dựng trên sườn dốc hay trên vách núi, ví dụ như cung điện Potala (nơi Đạt Lai Lạt Ma vốn phải ở, nằm tại thủ đô Lhasa của Tây Tạng), đều có kết cấu này.

Trong khe có gió lạnh thổi ra, hiển nhiên nó thông ra bên ngoài. Tôi ngẫm nghĩ một lát, khoảng không hình tam giác phía dưới bốn phía cũng dùng tường vữa trắng vây quanh, không biết tình hình dưới đó thế nào, nhưng đã có gió thổi thì chỗ này hẳn là thoát ra ngoài được.

Trong này rõ ràng có vấn đề, trên mặt đất lại rải đầy du diên. Nếu cứ cố đấm ăn xôi đi ra từ cửa chính, chỉ e càng đi sẽ càng thêm nguy hiểm. Đúng lúc này lại phá ra một cái hố, vừa hay có thể giúp chúng tôi thoát thân.

Bàn Tử nhảy vào cái hố vừa bị phá ra, không gian dưới mặt đất vẫn không đủ cho một người lách qua, phải đào rộng ra mới được. Hoa hòa thượng cũng nhảy vào giúp, Bàn Tử bèn hỏi tôi đào xuống dưới thế này có sao không?

Tôi bảo bọn họ không được làm ẩu. Hành lang đá mùa đông vốn đông cứng đến giòn ra, ban nãy nổ tanh bành như thế đảm bảo đã phá hủy hoàn toàn kết cấu chịu lực bên dưới. Bên dưới cũng không biết cao bao nhiêu, ngộ nhỡ nó thình lình sụp xuống thì không phải chỉ một hai người dính trấu, mà rất có thể sẽ khiến toàn bộ mặt đất quanh đây lõm xuống, đến lúc đó linh cung sẽ trở thành mồ mả vùi lấp chúng tôi.

Vì vậy Bàn Tử và Hoa hòa thượng buộc dây thừng vào eo, đầu kia thắt vào một cái cột cực lớn. Cả đám chúng tôi đều buộc người vào sợi dây thừng đó, như vậy lỡ sụp xuống còn có thể tiếp cứu lẫn nhau.

Chuẩn bị xong xuôi, Bàn Tử bắt đầu lấy búa nện xuống mặt đá, không ngờ mới đập một cái đã nghe tiếng "răng rắc" đột ngột vọng lên từ dưới chân, một cây xà nhà to bằng miệng bát ăn cơm bên dưới bị hắn dẫm gãy, nháy mắt đã kẹp chân hắn lại, thẳng tới gần đùi.

Tôi lại càng hoảng, còn tưởng rằng nói sập là sập luôn, may sao chỉ bị chôn một chân bên dưới. Bàn Tử chửi thề một câu cực kỳ khó nghe, định kéo chân ra, nhưng giật cả buổi mà cái chân bị kẹp đến đầu gối kéo thế nào cũng không ra. Bản thân Bàn Tử cũng thấy hơi quái, đột nhiên mặt mũi biến sắc, hét lớn: "Không xong, có cái gì đang kéo chân tôi!" Nói rồi người liền tụt xuống dưới.

Hoa hòa thượng vội vàng giữ chặt hai cánh tay hắn, ra sức kéo lên trên. Những người khác cũng đồng loạt tới hỗ trợ, kéo chân hắn ra, nhưng lại không sao kéo được hắn lên khỏi miệng hố, hình như phía dưới có thứ gì đó thật sự đang níu lấy hắn.

Diệp Thành bật đèn pin chiếu xuống dưới, mọi người lập tức rùng mình. Chỉ thấy từ cái động do Bàn Tử giẫm sập trên hành lang đá có một cái tay bầm tím thò ra, bấu chặt lấy cổ chân hắn.

Chương 25: Tường kép

Đây đúng là tình huống tuyệt không thể lường trước, khiến ai nấy đều hoảng hốt. Phan Tử tay nắm xẻng gấp đeo trên thắt lưng, nhảy xuống hố, vung tay chém lia lịa. Nhưng chân của Bàn Tử cứ lắc qua lắc lại làm anh không thể chém trúng mà phang vào tảng đá kế bên, tia lửa tóe ra. Bàn Tử thấy Phan Tử dùng hết sức bèn la to: "Con mẹ nó anh chém cho chuẩn vào, đừng có chém vào chân Bàn gia ta!"

Phan Tử cũng lớn tiếng: "Tổ sư, anh cũng đừng có nhúc nhích, bằng không ông chém luôn từ đùi anh xuống bây giờ!" vừa nói vừa vung tay thêm nhát nữa, không ngờ nhát này vẫn trượt.

Bàn Tử hét lên: "Thay người thay người, rõ ràng tên nhóc này gai mắt ta, mượn việc công trả thù riêng đây mà."

Diệp Thành và Hoa hòa thượng đứng bên kia cũng nhảy vào giúp đỡ, tính giữ lấy chân của Bàn Tử. Ai ngờ Diệp Thành nhảy xuống còn chưa đứng vững thì dưới chân đã đột ngột lún xuống, nguyên đoạn hành lang đá phía dưới sụp xuống cả, thân thể hắn cũng bị cuốn xuống theo.

Con mẹ nó, đúng là mua thêm phiền phức. Hoa hòa thượng nhanh tay nắm lấy hắn, nhưng bản thân mình cũng chưa đứng vững, lảo đảo ngã trúng cánh tay tôi đang kéo Bàn Tử. Góc độ tôi đứng vốn không tiện dùng sức, vừa va chạm tay đã tuột ra, tiếp đó cả người Bàn Tử bị lôi xuống dưới.

Sự việc xảy ra quá nhanh, với lại ánh sáng quá tù mù nên mới hoảng loạn như thế. Mấy người cuộn thành một đống, Bàn Tử giống như một viên thịt lớn, chưa gì đã lăn xuống đáy hố, cả tôi và Phan Tử cũng bị hắn kéo theo, ngã vào sườn dốc trên hố gạch. Lúc đó tôi chợt cảm thấy không ổn, nhưng còn chưa kịp đứng lên đã nghe tiếng "canh cách' nối tiếp nhau truyền lên từ tầng gạch phía dưới.

Tôi vừa nghe mặt đã tái đi, tiếng này tôi hiểu rõ quá rồi, đây chính là âm thanh phát ra khi chúng tôi làm thí nghiệm về sức chịu lực của kiến trúc, những vật thể làm từ đá bị đông lạnh hầu hết sẽ nứt theo chiều dọc và tạo ra âm thanh này.

Không đợi tôi hiểu hết mọi chuyện, bốn phía bất chợt chấn động, đáy hố đã sập xuống, khúc hành lang đá bên dưới hố cũng sụp theo. Chẳng ai kịp phản ứng gì cả, đột ngột mất đi thăng bằng, trượt xuống theo sườn dốc như chơi cầu tuột vậy, vùi người trong đống gạch đá dưới đáy hố.

Tôi còn chưa kịp mừng thầm vì mình đoán trước được chuyện này thì đã thấy cái mông ê ẩm, thì ra sau khi ngã trúng sườn dốc, cả người tôi tiếp tục trượt xuống. May nhờ dây thừng giữ lại nên tôi mới không trượt dài xuống đến đáy, nhưng kế đó gạch đá từ khắp các hướng cứ thi nhau đổ ào ào lên đầu.

Mông tôi đau điếng, ôm đầu muốn ngồi lên, nhưng sườn dốc dưới mông quá đứng, chân không mượn được lực. Tôi lấy tay gạt đống gạch ra, hỏi những người khác có sao không. Không ai trả lời cả, chỉ nghe tiếng chửi rủa liên hồi lẫn với tiếng gạch đá va đập không dứt.

Khó khắn lắm gạch mới ngừng rơi, tôi ngước đầu lên, nhìn quanh quất chỉ thấy một khung cảnh tan hoang, mấy chiếc đèn pin bị vùi trong đống gạch đá, mấy chiếc khác lại lăn theo sườn dốc, rơi vào bóng tối mịt mù bên dưới. May là đèn leo núi của Đức khá bền, không chiếc nào bị vỡ hết. Nhưng vài ánh đèn le lói rọi ra từ khe hở giữa đống gạch đá vẫn không thể soi rõ mọi thứ. Bốn bề bao phủ trong một bức màn tối đen, trên đầu cũng mơ hồ thấy một cái lỗ lớn, chính là miệng hố trên hành lang nơi chúng tôi rớt xuống.

Đây chắc là không gian phía trên sườn núi, bên dưới đại điện linh cung. Chúng tôi đang chơi vơi trên sườn dốc, nếu không có dây thừng, chắc cả bọn đã lăn thẳng xuống dưới rồi.

Diệp Thành treo lủng lẳng cạnh tôi, bị gạch nện trúng khá nặng. Tôi kéo hắn lại hỏi có sao không, hắn bảo mình chưa ăn cơm nên có hơi choáng váng thôi.

Hoa hòa thượng kêu to trong bóng tối: "Coi chừng chỗ này có bánh tông, mọi người vũ khí sẵn sàng, có móng lừa đen thì lấy ra ngay! Bàn Tử, anh ở đâu? Cái thứ nắm chân anh có còn đó không?"

Bàn Tử ở dưới cùng, bị cả đống gạch đá cộng thêm chúng tôi đè lên, thật cũng quá sức chịu đựng. Chỉ nghe tiếng rên rỉ của hắn truyền ra từ đống gạch: "Còn đây nè, sắp mò tới đùi rồi. Ông đã kẹp lấy nó, con mẹ nó mau kéo ông ra, bằng không thằng em của ông không giữ nổi nữa rồi!"

"Là tay của tôi!" Phan Tử ở kế bên mắng.

"Đệt!" Bàn Tử nổi cáu: "Mẹ kiếp giờ này anh còn giở trò lưu manh??" *Bạn béo hoang tưởng cmnr =))*

Không có đèn pin, những ai không bị gạch đá chôn vùi chỉ còn nước mò mẫm từng cục gạch rồi quẳng cho lăn xuống theo sườn dốc. Phan Tử được tôi kéo ra nhưng một tay bị Bàn Tử kẹp chặt, không rút ra được. Chúng tôi tiếp tục đào, không lâu sau lôi cả Bàn Tử ra luôn. Như thoát như gánh nặng, Bàn Tử vừa thở vừa thều thào: "Lũ chết tiệt đáng chém ngàn đao tụi bây nỡ đè ông, may là ông được thần mỡ phù hộ, bằng không giờ này đã về chầu trời rồi."

Phan Tử không rảnh đấu khẩu với hắn: "Cái thứ trên chân anh đâu?"

Trong bóng tối, Bàn Tử thử co co chân để cảm nhận, đáp: "Rút rồi! Ngã xuống như vậy chắc không nắm được đâu, có lẽ đã bị chúng ta đẩy xuống chân dốc rồi. Con mẹ nó chứ ở chỗ này cũng có bánh tông hả?"

Hoa hòa thượng nói: "Chắc chắn nó còn quanh quẩn gần đây, tất cả cẩn thận, cầm chắc móng lừa đen, trước hết tìm cho ra đèn pin đã!"

Tôi vội đi mò tìm đèn pin dưới đống gạch, mò tới mò lui không thấy, may là Diệp Thành bên cạnh đã tìm thấy, kéo ra khỏi đống đá, xung quanh lập tức sáng lên. Hắn cầm đèn pin rọi ngay xuống phía dưới.

Tôi ở ngay dưới hắn, khó chịu dùng tay đỡ ánh sáng, còn chưa kịp bảo hắn chỉnh đèn tối đi một chút, nào ngờ đã thấy mặt hắn tái xanh.

Thấy vẻ mặt của hắn, tôi bắt đầu đổ mồ hôi hột, thầm nghĩ lẽ nào thứ đó ở ngay bên cạnh mình? Cắn răng quay đầu nhìn, liền thấy kế bên vai tôi, cách mũi tôi chừng một thước, thình lình lộ ra một khuôn mặt hốc hác quái dị bầm tím.

Tôi hét lên một tiếng kinh hoàng, cả người co rụt về phía sau, tay trái vớ được cục gạch xanh bèn quăng vào mặt nó, cũng chẳng biết có trúng hay không, lập tức quay người trèo lên.

Lúc này mấy cái đèn pin đều đã được đào lên, không gian xung quanh sáng bừng lên. Tôi trèo lên vài bước, nhưng Diệp Thành bên không né ra được nên lại tuột xuống lần nữa. Vừa quay đầu nhìn sang bên cạnh, bất giác hít vào một hơi buốt giá.

Chỉ thấy cái dốc núi bên dưới đại điện linh cung này được xây thành từng bậc từng bậc như một thửa ruộng bậc thang, trên mỗi bậc thang, những cái xác cổ đông lạnh bầm tím được xếp ngồi ngay ngắn, từng hàng từng bậc trông như La Hán đường trong chùa vậy. Chúng nhiều như kiến cỏ, co quắp lại với nhau, tư thế như hòa thượng đang ngồi thiền, vẻ mặt dữ tợn, xem ra là chết cóng. Những bóng đen cứ thế nối tiếp nhau nhìn không thấy giới hạn, cũng không biết rốt cuộc có bao nhiêu cái xác nữa.

Diệp Thành là người nhát gan nhất, run rẩy nói: "Mẹ ơi, đây là phòng giấu xác kim thân của hòa thượng à?" Nói xong cả người gần như nhũn ra.

Trần Bì A Tứ ấn vai hắn, khoát tay, nói: "Đừng sợ, chỉ là xác chết thôi mà." Nói rồi chỉ xuống dưới chân tôi. Tôi cúi đầu nhìn, chỉ thấy trong những viên gạch dưới chân chúng tôi có một xác ướp đã bị dẫm đạp thành tro.

"Những người chết ở đây đều lạnh cứng như đá, đạp phải là vỡ vụn ra." Trần Bì A Tứ tiếp: "Những thứ này đã không thể thi biến nữa rồi, ở đây chắc không có bánh tông đâu."

"Vậy cái thứ nắm chân tôi lúc nãy là gì??" Bàn Tử hỏi.

Trần Bì A Tứ nói: "Lúc nãy có thể chân ngươi tình cờ bị tay của cái xác nào đó móc trúng thôi, chứ nếu là bánh tông thật thì chân ngươi còn xài được chắc? Không tin nhìn lại ống quần mình đi."

Bàn Tử cúi đầu nhìn ống quần lúc nãy bị nắm, quả nhiên có cái lỗ, ngay dưới đống gạch cách đó không xa lại thấy một cái tay khô cong thành hình móc. Tôi nhặt lên nhìn thấy nó rất cứng, không thể co dãn đi nắm chân ai cả.

Mọi người ai nấy đều thở phào. Phan Tử còn khoa trương "Haizz" một tiếng: "Gan chuột nhắt, vậy cũng nhìn nhầm cho được."

Bàn Tử nổi cáu, muốn cãi lại nhưng không có cớ, chỉ còn nước ngồi dỗi, rủa: "Cái tay lúc nãy nắm chân ta thật chứ bộ, bị móc phải hay bị nắm chẳng lẽ ta không phân biệt được. Con mẹ nó không tin thì thôi."

Chúng tôi rọi đèn pin khắp xung quanh, nơi đây nắm dưới đại điện, không gian rất lớn. Vì xác khô xếp khá dày, chúng tôi không thể nhìn thấy điểm tận cùng, nhưng ngoài xác khô ra cũng không còn thứ gì khả nghi nữa.

Phan Tử hỏi Hoa hòa thượng; "Sao ở đây nhiều xác chết thế? Tôi chưa bao giờ nghe nói có chỗ như thế này."

"Xem chừng là ngăn tuẫn táng, cái này....tôi hoàn toàn không hiểu được, làm gì có hoàng lăng của triều đại nào như thế đâu, mấy cái xác này rốt cuộc là ai nhỉ?" Hoa hòa thượng lẩm bẩm.

Tôi cố đè nén nỗi sợ, rọi đèn pin rọi qua một cái xác, phát hiện ngũ quan của nó được bảo quản khá tốt. Mắt nhắm lại, nếp nhăn trên mặt dày đặc nhưng lại không có râu, toàn thân phủ lên một màng băng mỏng, điều đáng sợ là làn da của mấy cái xác này đều là màu tím xanh, miệng há lớn, lạ là bên trong lại có răng nanh.

"Thứ này có thể không phải con người." Bàn Tử nhìn nói: "Các anh xem hàm răng này, táp một cái là nát mặt người ta rồi."

"Không phải con người?" Diệp Thành lại tái mặt: "Vậy là cái giống gì chứ? Yêu quái hả??"

"Có thể là người tuyết trong truyền thuyết, chỉ là mấy con này không có lông." Bàn tử bắt đầu nói bậy.

"Nhảm ruồi!" Hoa hòa thượng bảo: "Cái gì mà yêu quái với chả người tuyết, răng nanh của mấy cái xác này là do tự họ mài nhọn ra, đây là một phong tục của giáo phái Tát Mãn cổ xưa, về sau do quá phiền phức nên người ta mới dùng mặt nạ thay thế. Bọn này chắc chắn không phải là người Nữ Chân thời Minh, anh xem quần áo của bọn họ đều thuộc dạng nguyên thủy, đâu có giống kiểu dáng của Nữ Chân hay Mông Cổ. Còn nữa, một số còn được bọc trong vải bố, đây là mấy cái xác ướp được băng táng đó."

Tôi nhớ lại cái đêm dựng trại trong khe núi Tiểu Thánh mình đã đi xem hang băng táng, nói: "Lẽ nào mấy cái xác này là hài cốt được băng táng của người xưa bị đào lên lúc Uông Tàng Hải mở núi xây lăng?"

Hoa hòa thượng gật đầu: "Chắc chắn không sai, cái động hình thai này ngày xưa có lẽ là mộ địa mà người cổ đại ở địa phương này dùng để băng táng, về sau bị Uông Tàng Hải quy hoạch thành lăng bồi táng giả, mấy cái xác này bị đào lên lúc bọn họ mở núi."

Bàn Tử hỏi: "Nếu đúng như anh nói thì sao không đốt quách cho xong, đem trưng mấy cái xác này ở đây mà làm gì?"

"Bố ai biết được, anh xem mấy cái xác này nhìn rõ gớm, giáo phái Tát Mãn có rất nhiều lời nguyền và nghi thức hành vu nguyên thủy quái dị, nghe đồn đều phải mượn sức mạnh của xác chết. Xem bố trí ở đây, chắc có liên quan tới vu thuật của Tát Mãn, có thể sẽ xảy ra chuyện quái gở, nói không chừng lúc ở bên trên chúng ta chạy mãi mà không thoát chính là vì đám xác chết này, chúng ta nên cẩn trọng một chút thì hơn."

Tôi nghĩ đến thi trận ở núi Tần Lĩnh, xem ra nơi nào có nhiều xác chết thì thế nào cũng có chuyện quỷ dựng tường, lẽ nào là do tà thuật quấy nhiễu?

Tát Mãn cũng không hoàn toàn là một tôn giáo mà thật ra là một loại vu thuật nguyên thủy, nói cách khác nó có giá trị thực tế, có mối liên hệ với dược lý và tinh thần sùng bái. Sự hiểu biết của tôi đối với giáo phái Tát Mãn chỉ giới hạn ở những pháp sư Tát Mãn nhảy múa trong phim về đời nhà Thanh. Nhưng nghe nói vu thuật Tát Mãn rất giống với kỳ môn độn giáp của Trung Quốc, đã bị thất truyền theo thời gian; bộ phận tốt đẹp nhập vào Phật Giáo Tây Tạng, còn bộ phận tà ác thì đột ngột biến mất. Qua sách cổ ta có thể thấy vu thuật Tát Mãn thời xa xưa có rất nhiều nghi thức cực kì âm tà quái đản, phần lớn liên quan đến nguyền rủa hay xác chết, có liên hệ chặt chẽ với cổ thuật. Mà người Khố lại thờ phụng cổ thuật, giữa hai tộc người này liệu có điểm nào chung không?

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng nói xong, dường như hiểu ra mọi chuyện: "Hèn gì, từ lúc bước vào linh cung này tôi cứ thấy nóng rát dưới chân, toàn thân khó chịu, thì ra có quá trời bánh tông chôn bên dưới, lão già Vạn Nô thật là xấu xa quá quá đi."

Hoa hòa thượng nói: "Tôi cũng chỉ suy đoán thôi, bây giờ quan trọng nhất là tìm đường thoát thân, chúng ta chia nhau tìm kiếm xung quanh xem có lối ra không?"

Nói xong gã lại bảo: "Nhưng vẫn phải cẩn thận, dù sao nơi này cũng quá tà môn, sẽ xảy ra hiểm họa khó lường. Mà vực núi này lại quá dốc, lỡ có chuyện gì muốn chạy cũng khó."

Tất cả đều đồng ý. Bàn Tử đã không thể chờ đợi thêm nữa, cả đám gỡ móc leo núi ra, cầm đèn pin rồi mỗi người một hướng, bắt đầu cẩn thận tìm kiếm trên dốc tường đứng.

Đi lại giữa cái chốn la liệt xác chết dĩ nhiên chẳng phải chuyện vui vẻ gì, nhưng lạ một nỗi nơi nào càng có nhiều xác chết, tôi lại càng thấy tĩnh tâm. Có thể khi sợ hãi đạt tới mức độ nào đó sẽ sinh ra một dạng cảm xúc trái ngược chăng.

Các thi thể được xếp rất sát nhau, giữa các hàng cũng không có chỗ trống mà chen chân vào, chúng tôi gần như phải luồn lách vào khe hở giữa các thi thể mà di chuyển. Xác chết có già có trẻ, toàn bộ đều đã đóng băng tựa như những khối nham thạch màu xanh tím tái. Tôi thấy có vài cái xác còn mang theo pháp khí (nhạc cụ tế lễ của thầy tu hay đạo sĩ)bằng đồng, gần như đã gỉ xanh hoàn toàn. Dường như nửa thân dưới của tất cả các thi thể ở đây đều gắn liền vào nham thạch bên dưới, muốn dịch chuyển chúng chỉ có cách đập cho nát ra.

Tìm kiếm nửa ngày trời, hướng của tôi vẫn không thu được kết quả gì. Thấy mình đang tách khỏi những người khác mỗi lúc một xa, trong lòng tôi bỗng cảm thấy bất an, định giả bộ tìm xong rồi để quay về chỗ cái hố thủng kia hỏi kết quả của những người khác thì bỗng nghe tiếng Phan Tử: "Bàn Tử chết toi, anh đang làm cái khỉ gì thế?"

Chúng tôi nghe Phan Tử nói thế, quay sang hướng Bàn Tử tìm kiếm thì thấy hắn đã ngưng công việc từ lúc nào, trái lại đang ngồi giữa đống thi thể, quay mặt về phía chúng tôi, miệng há to vô cảm. Nhìn thoáng qua cũng thấy thấy trên mặt hắn nổi lên một mảng màu xanh tím y như những xác chết bên cạnh, không biết đang giở trò quỷ quái gì.

Chương 26: Tàng thi các

Bao phủ khắp tàng thi các là bóng đêm mịt mùng, quầng sáng từ mấy ngọn đèn pin giao nhau tại một điểm, ánh sáng hỗn loạn. Bàn Tử đang ngồi trong một xó cách chúng tôi rất xa, ánh sáng từ đèn pin chiếu vào đều bị các thi thể xung quanh che khuất, những cái bóng cứ chồng chất lên nhau hết tầng này đến tầng khác, cho dù có chiếu đến nơi thì chúng tôi cũng không thể nhìn rõ.

Nhưng màu xanh tím trên mặt Bàn Tử chắc chắn không phải do nhìn lầm. Nét mặt quỷ dị, đờ đẫn đến mức u ám này của hắn đúng là rất giống những xác chết bên cạnh, khiến người ta phải dựng tóc gáy.

Phan Tử ban đầu vẫn nghĩ Bàn Tử lại đùa dai, bèn gọi thêm một tiếng, nhưng Bàn Tử vẫn không hề phản ứng, cứ đờ ra như khúc gỗ. Phan Tử cũng thấy có gì đó không ổn bèn nói với chúng tôi: "Hình như có chuyện rồi?"

Tôi nhíu mày, cũng không biết nói sao cho phải. Nét mặt và động tác của Bàn Tử tương tự như những thi thể dưới này, nếu không phải hắn đang đùa chúng tôi thì chắc chắn đã có chuyện không hay xảy ra. Nhưng những người khác đều không việc gì, sao hắn lần nào cũng mắc nạn? Nhìn cái dáng vẻ này của hắn, lẽ nào đã bị quỷ nhập rồi sao? Hay là đã trúng lời nguyền của Tát Mãn?

Chúng tôi trượt xuống dần theo con dốc, tới gần chỗ Bàn Tử đang ngồi. Không thấy xung quanh hắn có gì khác với những nơi khác, bốn phía vẫn là những thi thể xanh tím nhe răng nanh sắc nhọn. Lúc chúng tôi còn cách Bàn Tử khoảng bốn năm mét, Phan Tử bèn khoát tay bảo chúng tôi đứng yên, rồi dùng tay ra hiệu với Hoa hòa thượng.

Trong nhóm của Trần Bì A Tứ, Lang Phong tương đương với Bàn Tử của nhóm chúng tôi, đều là kiểu người đi tiên phong; Hoa hòa thượng là trợ lý, Diệp Thành thì chuyên làm việc vặt. Mỗi người đều có năng lực đặc biệt của riêng mình, bây giờ Lang Phong đã chết, thế nhưng bản lĩnh của Hoa hòa thượng cũng không tồi, thế nên Phan Tử mới ra hiệu cho gã.

Tôi thực cảm thấy có chỗ thua kém. Nếu chúng tôi là một đội, người sẵn sàng đi tiên phong rất nhiều, nhưng tôi – kẻ miễn cưỡng có thể trở thành trợ lý – lại quá yếu kém. Ngẫm lại thì từ lúc thiếu mất Muộn Du Bình, nếu đối phương không có Hoa hòa thượng thì mỗi khi có chuyện tôi chính là người phải lên trước, thế nhưng bản lĩnh của tôi so với Hoa Hòa Thượng rõ ràng là kém xa.

Hoa hòa thượng nhìn dấu tay của Phan Tử bèn gật đầu, sau đó bọn họ rút con dao săn ra thủ sẵn trên tay, mò mẫm tiến về phía Bàn Tử.

Hai người rất nhanh đã tới gần Bàn Tử, nhưng Bàn Tử lại không thèm quay đầu nhìn bọn họ, cứ bắt chước mấy người trình diễn nghệ thuật hành vi để mãi nghệ ngoài phố, hóa trang thành pho tượng đồ sộ bất động.

(Nghệ thuật hành vi nói nôm na là nghệ thuật trình diễn thân thể, lấy thân thể và các động tác của người nghệ sĩ làm chủ đạo để biểu đạt ý tưởng của mình. Giả làm tượng là loại nghệ thuật hành vi khá phổ biến ở châu Âu)

Lòng bàn tay tôi túa đầy mồ hôi, không hiểu vì sao lại có cảm giác bất thường. Lúc này hai người đi trước đã dừng lại, Phan Tử đã tới rất gần Bàn Tử, dường như chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm vào hắn. Nhưng đúng vào lúc đó hai người kia lại đột nhiên xua tay về phía sau ý bảo chúng tôi chớ lại gần, rồi bản thân mình cũng bắt đầu lùi lại.

Tim tôi bắt đầu nhảy loi choi, không biết bọn họ đã thấy cảnh tượng gì, chỉ thấy Phan Tử lùi đến bên cạnh tôi rồi quay đầu lại nói với mọi người: "Phiền phức rồi, khối thi thể phía sau hắn có vấn đề."

"Cái gì phiền phức?" Tôi vội hỏi: " Là bánh tông bự sao?"

Phan Tử bảo chúng tôi đừng hỏi rồi ra dấu cho mọi người đi theo anh.

Chúng tôi nối đuôi anh băng qua mấy khối thi thể, leo xuống mấy tầng bậc thang tới bên cạnh Bàn Tử. Phan Tử giơ một ngón tay ra chỉ, tôi nhìn theo hướng đó thì thấy sau lưng Bàn Tử có vài khối thi thể xanh đen đang ngồi xếp bằng, trong đó lại có một khối khác biệt hẳn so với số còn lại.

Khối thi thể này có cái đầu cực lớn, có lẽ phải lớn gấp ba lần đầu người bình thường, ngũ quan không rõ ràng, giống như một đứa trẻ sơ sinh đầu to còn chưa phát dục hết. Một cái lưỡi kì quái từ trong miệng thi thể kia thò ra, quấn quanh cổ Bàn Tử.

Tôi tức khắc cảm thấy da đầu tê rần, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cổ đã muốn cứng đờ ra, phải che miệng lại mới ngăn không cho mình hét ầm lên. Tôi thì thầm: "Cái quái gì thế?"

"Đây có thể là một thi thai. Vị trí đặt thi thể kia nhất định là dưỡng thi huyệt của cả linh cung. Khối thi thể này vừa hay lại đặt ở đó, trải qua một khoảng thời gian nhất định đã thi hóa, biến thành cái dạng này. Từ đó đến giờ đã mấy trăm năm, chỉ e nó thành tinh rồi." Trần Bì A Tứ đứng bên cạnh nhỏ giọng nói. Vừa dứt lời, nét mặt đột nhiên trở nên kỳ quái, dường như vừa nghĩ tới chuyện gì, liền tiếp: "Không đúng! Cái long mạch này không phải chỉ là đồ giả thôi sao? Sao lại có dưỡng thi huyệt chứ, chuyện này..."

Hoa hòa thượng thấy nét mặt kì lạ của Trần Bì A Tứ, hình như đã hiểu ra, sắc mặt cũng lập tức biến đổi (Tôi cứ có cảm giác Hoa hòa thượng thực ra đã nghĩ ra từ lâu, chẳng qua muốn giữ thể diện cho Trần Bì A Tứ nên thường xuyên đợi cho Trần Bì A Tứ nghĩ ra rồi mới giả bộ phản ứng). Gã bèn hỏi Trần Bì A Tứ: "Lão gia, chẳng lẽ đó là 'Liên hoàn khấu'?"

'Liên hoàn khấu' là một loại mánh lừa người, chính là thủ đoạn chữ "tước" trong thiên môn của ngoại bát hành (*). Nói cho dễ hiểu chính là đem hàng thật biến thành đồ giả rồi lại biến thứ đồ giả đó thành hàng thật, trong quá trình đó sẽ cố ý để lại một chút sơ hở. Khi có người phát hiện ra sơ hở này, lật tẩy được cái mác 'đồ thật' ngoài cùng tất sẽ nghĩ đó là 'đồ giả', nhưng thực chất nó lại chính là 'đồ thật', cái này bản chất cũng giống như 'không thành kế'.

(*) Cái này hình như đã chú thích từ phần 1 nhưng mình cũng không nhớ chú thích chỗ nào nên nhắc lại. Ngoại bát hành chỉ 8 nghề nghiệp không lương thiện, vượt ra ngoài những nghề nghiệp chính như sĩ nông công thương, đó là: đạo môn (ăn trộm), cổ môn (nuôi trùng độc), cơ quan môn (chế cơ quan máy móc, thường là những cơ quan tinh xảo dùng để phòng vệ), thiên môn (hơi khó giải thích, nôm na là giải nghĩa bát quái và dùng nó để lừa gạt người khác), lan hoa môn (làm kỹ nữ), thần điều môn (lên đồng nhập hồn), hồng thủ quyên (làm ảo thuật), tác mệnh môn (ám sát). Không thành kế chắc khỏi giải thích :))

Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng: "Đúng vậy, nếu là long mạch giả thì đào đâu ra 'dưỡng thi huyệt' cơ chứ?" Lão già Uông Tàng Hải này dùng 'liên hoàn khấu' quả thực cao tay, đáng tiếc lão có tính toán chu toàn đến đâu thì vẫn có sai sót, rốt cuộc vẫn để lộ sơ hở."

Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả, bèn hỏi lại Hoa hòa thượng xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Hoa hòa thượng giải thích: "Thực sự quá huyền ảo, chúng ta suýt chút nữa đã bị lừa rồi, may mà lại rơi xuống đây. Cậu có còn nhớ lúc chúng ta phát hiện ra mình đã xác định sai phương hướng, liền nghĩ ngay long mạch này là giả không? Thế mà chỗ này lại xuất hiện thi thai, long mạch giả tất không có bảo huyệt, cũng không thể nào xuất hiện thi thai, rõ ràng là có sơ hở. Xem ra con rùa từ tính kia cũng là một phần trong cái bẫy mà Uông Tàng Hải giăng sẵn, mục đích là để chúng ta lầm tưởng mình đã bị lừa, lầm tưởng cả cái long mạch này đều là giả. Nhưng thực ra long mạch là thật, chẳng qua kết cấu không phải Tam đầu long. Con rùa kia đã biến một kết cấu long mạch bình thường thành đại cục 'Bàn long tọa' thượng thừa, chuyện này thực ra rất dễ dàng."

Tôi 'à' lên một tiếng, tức khắc hiểu ra mọi chuyện. Phương vị phong thủy chính là yếu tố then chốt quyết định một long mạch là tốt hay xấu, ví dụ như có một thế Độc nhãn long, nếu hướng từ tây sang đông gọi là Đằng long, từ đông sang tây lại là Phục long. Nếu anh chôn xuống một con rùa từ tính sẽ khiến phương vị phong thủy nơi này thay đổi, con Phục long kia có thể ngụy trang thành Đằng long.

(Về sau tôi có tìm hiểu một chút về thế Quần long tọa, thì ra ba cái đầu rồng đều quay về hướng đông mới gọi là Quần long tọa. Nhưng sơn mạch của ba ngọn núi thánh trên dãy Trường Bạch đều quay về hướng Bắc, cho nên chỉ có núi Tam Thánh ở giữa mới thực sự là đầu rồng, còn hai ngọn núi bên cạnh gọi là song xà bàn hộ (hai con rắn quấn lấy bảo vệ), cũng là một huyệt phong thủy rất tốt, nhưng không nên mai táng người ở đây mà dùng để xây miếu thờ thì hợp hơn. Một khi rùa từ tính được đặt ở chỗ đó, hướng Bắc liền biến thành hướng Đông, vậy nên Trần Bì A Tứ mới phán đoán sai lầm.)

Tôi không khỏi cảm khái, thiết lập bố cục phức tạp như vậy, trình độ đấu trí cỡ này đúng là khó tưởng tượng nổi. Ngẫm lại thì vừa rồi chúng tôi đã bị lừa ngon ơ, nếu không phát hiện ra thi thai ở chỗ này, chúng tôi chắc chắn đã phải lầm lũi ra về.

Chúng tôi với Uông Tàng Hải sống cách nhau cả ngàn năm, nhưng tôi lại có cảm giác mạch suy nghĩ của ông ta như dòng nước chảy xuôi trước mắt mình. Ông ta đã nghĩ ra kế sách này từ hàng ngàn năm trước, ấy vậy mà vẫn có thể đem chúng tôi ra đùa bỡn, mà xoay mòng mòng. Rốt cuộc lai lịch của người này là như thế nào?

Phan Tử đứng bên cạnh chợt thì thào: "Các người còn lòng dạ mà nói mấy chuyện này, vậy tên Bàn Tử chết toi kia thì tính sao bây giờ? Đối phó với thứ này, dùng móng lừa đen có được việc không?"

Trần Bì A Tứ lắc lắc đầu, ý nói mình không biết. Hoa hòa thượng cũng nhíu mày, rõ ràng không biết phải đối phó thế nào.

Tôi ghét nhất những lúc như thế này. Chúng tôi không biết cái đầu lưỡi quấn quanh Bàn Tử có gây nguy hiểm gì không, chỉ sợ hấp tấp đi cứu sẽ làm tình hình thêm xấu, tiến thoái lưỡng nan. Phan Tử và tôi đổ mồ hôi đầy đầu, không biết phải làm gì mới đúng.

Nào ngờ bên này chúng tôi còn chưa động tĩnh gì thì bên kia Bàn Tử trái lại đã có phản ứng. Trong nháy mắt hắn đột nhiên ngã lăn ra đất, sau đó người bị lôi đi. Cái thi thai đầu to kia cuộn mình lại di chuyển, dùng đầu lưỡi nhanh chóng kéo Bàn Tử xuống sườn dốc. Bàn Tử người cứng đờ ra như tảng đá, không hề phản kháng.

Nếu để nó kéo xuống dưới đáy, Bàn Tử chắc chắn phải chết. Tình thế mỗi lúc một nguy cấp, Phan Tử bèn hô một tiếng "Đuổi theo!" chúng tôi lập tức vọt xuống.

Cái thi thai đầu bự kia thấy chúng tôi lao xuống, tức thì tăng tốc, Bàn Tử cũng lăn tròn theo nó xuống sườn dốc, lăn đến đâu xô ngã mấy khối thi thể xấu số trên đường đến đấy. Vì chúng tôi đang ở trên sườn dốc nên không thể chạy mà phải trượt xuống giống như ngồi cầu trượt.

Nhanh chóng đuổi xuống hơn mười mét, đột nhiên chúng tôi thấy Bàn Tử biến mất ngay trên sườn dốc, nháy mắt đã biệt tăm. Quá hoảng sợ, chúng tôi vội vọt xuống đến nơi thì thấy trên sườn dốc có một cái hang, Bàn Tử đã bị kéo vào trong đó, chỉ còn lại hai chân thò ra ngoài.

Phan Tử nhảy dựng lên, bổ nhào về phía trước như mãnh hổ vồ mồi, lập tức tóm lấy hai chân Bàn Tử rồi dùng sức kéo ra. Tôi cũng ào qua giúp Phan Tử một tay bất chấp hai chân đạp bừa lên những thứ gì, tiếp đó là Diệp Thành, Thuận Tử và Hoa hòa thượng cũng vọt tới. Hoa hòa thượng buộc một đầu dây thừng vào đùi Bàn Tử, như thế trừ phi kéo đứt đôi người Bàn Tử, bằng không cái thi thai kia không thể nào kéo lại chúng tôi.

Chúng tôi đông người nên chỉ một lát sau đã lôi được Bàn Tử ra ngoài. Cái đầu lưỡi kia vẫn cuốn chặt lấy cổ họng Bàn Tử, gần như móc sâu vào da thịt. Bàn Tử nổi đầy gân xanh, hai mắt trắng dã, gần như ngạt thở. Phan Tử bèn rút mã tấu chém một nhát, tức thì trong động truyền đến tiếng thét chói tai của phụ nữ. Đầu lưỡi kia đứt ra, Bàn Tử được giải thoát, chúng tôi vội kéo hắn ra ngoài.

Chúng tôi tranh thủ thời gian giật đoạn lưỡi kia ra, quẳng vào trong động rồi ấn ngực cho Bàn Tử. Thân thể hắn nhanh chóng cựa quậy, bắt đầu đưa tay sờ sờ lên cổ rồi vừa thở hồng hộc vừa ho sặc sụa. Phan Tử sợ thứ kia lại nhào ra, bèn rút xẻng công binh hùng hổ lại gần cửa động, chiếu đèn pin vào bên trong, nhưng vừa chiếu một vòng đã buông vũ khí xuống, có lẽ thi thai kia đã lủi sâu xuống dưới.

Chúng tôi thở phào, vội đấm lưng cho Bàn Tử. Đấm đến nửa ngày hắn mới chậm chạp tỉnh dậy, nhìn cái động kia mà còn chưa hết hoảng, nói: "Đa tạ, đa tạ các vị hảo hán." Tôi hỏi Bàn Tử rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, sao bỗng dưng lại ngồi bất động như tượng phật Di Lặc thế.

Chính Bàn Tử cũng không hiểu vì sao, nói đang tìm kiếm bỗng dưng thấy cổ lạnh buốt, tự nhiên không động đậy được. Mặc dù vẫn nhìn thấy nghe thấy bình thường nhưng thân thể không tài nào nhúc nhích nổi, tựa như bị đông cứng trong băng. Hắn đã dùng hết sức lực nhưng đến tròng mắt cũng không thể đảo, đành để mặc cho nó cuốn lấy.

Phan Tử cười lớn: "Nghe tiếng thét chói tai vừa rồi đủ biết kia đích thị là một con nữ thi thai. Có lẽ ở nơi này quá cô quạnh, nàng thấy hình thể cậu giống mình nên muốn tha cậu xuống bầu bạn. Cái này gọi là tình yêu đến từ địa ngục đó."

Bàn Tử cười khổ, đẩy anh một cái nói: "Bố khỉ, cái đồ nhà anh mới giống ả ta."

Phan Tử vừa cười vừa né cú thúc cùi chỏ của Bàn Tử, ngửa người ra đằng sau. Không ai có thể ngờ, chính vào lúc đó, cái đầu bự chảng của con thi thai lại lấp ló thò ra từ trong động, miệng nhoe nhoét máu, nháy mắt đã cắn một nhát vào chân Phan Tử. Phan Tử còn chưa kịp phản ứng đã bị kéo tuột vào cái động kia.

Chương 27: Bài đạo

Chúng tôi lập tức ào lên nhưng vẫn không kịp, chỗ Phan Tử ngã xuống đến cái bóng cũng không còn. Bên trong hang động khá lắt léo, đèn pin không thể chiếu đến đáy để xem tình hình bên trong thế nào, cũng không rõ Phan Tử còn sống hay đã chết.

Đầu tôi nóng lên, định nhảy xuống theo nhưng Bàn Tử đã nhanh hơn tôi một bước. Hắn kéo dây thừng buộc vào chân mình, rút mã tấu nhảy vào trong động, trượt vèo xuống dưới, nháy mắt đã không thấy bóng dáng đâu. Tôi vẫn muốn xông vào nhưng Hoa hòa thượng đã kéo lại, nói hang quá nhỏ, giờ cậu nhảy xuống chỉ tổ vướng víu tay chân, hại hắn không đánh nhau được. Nếu may mắn thì một mình Bàn Tử cũng có thể cứu người lên, bằng không cậu nhảy xuống cũng là đâm đầu tự sát.

Tôi ho một tiếng, thò đầu ngó vào trong động nhưng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe tiếng Bàn Tử không ngừng trượt xuống, sợi dây thừng bên ngoài cũng nhanh chóng bị kéo sâu vào trong động, khiến lòng tôi nóng như lửa đốt.

Sau khoảng một phút đồng hồ, dây thừng bỗng dừng lại, tiếp đó từ đầu dây bên kia truyền đến chấn động, rồi đột nhiên có tiếng Bàn Tử vọng lên từ chỗ nào đó rất sâu trong hang: "Kéo dây mau!"

Chúng tôi vội vàng liều mạng kéo dây thừng lên, chẳng mấy chốc đã thấy Bàn Tử và Phan Tử xuất hiện. Phan Tử vẫn không ngừng đá đá chân, rõ ràng cái thi thai kia vẫn chưa chịu nhả ra.

Trần Bì A Tứ bảo chúng tôi mau tránh ra, nhíu mày một cái, móc một viên đạn sắt, nhắm thẳng mắt cá chân Phan Tử, đập mạnh vào cái đầu bự chảng của thi thai. Thi thai rít lên một tiếng rồi nhả Phan Tử ra, nhưng vừa nới lỏng một chút đã tính đường xông lên luôn.

Trần Bì A Tứ không cho nó cơ hội, lại bắn thêm một viên đạn sắt đánh nó ngã nhào. Thi thai xoay người định nhào lên lần nữa, lại lãnh thêm một viên đạn, viên này chính thức đánh cho nó lăn thẳng xuống động.

Chúng tôi thừa cô kéo hai người kia ra khỏi động rồi lập tức tránh xa cửa vào. Hoa hòa thượng lăm lăm xẻng công binh đứng chờ một bên, quả nhiên chỉ vài giây sau cái thi thai lại phóng vọt ra toan tháo chạy. Hoa hòa thượng "binh" một oánh cho nó rớt tuột xuống, kế đó chúng tôi nghe được một tiếng rít thảm thiết mất hút dần nơi đáy động.

Bàn Tử tái mặt, vừa thở dốc vừa nói với Phan Tử: "Thấy chưa, xem ra cô vợ của anh vẫn thích anh hơn."

Phan Tử bị dọa cho hết hồn, khoát tay: "Thôi khỏi nói, chúng ta huề nhau." Rồi lại hỏi Hoa hòa thượng: "Tổ sư nó, cái động này có phải hang ổ của thi thai không vậy? Nếu đúng là thế thì ông đây nổ tanh bành luôn cho nó sớm ngày đầu thai."

Hoa hòa thượng xua tay: "Không không, thi thai không phải động vật, làm gì có hang ổ. Cái động này thực là quái gở, lúc nãy các cậu ngã xuống có thấy gì trong đó không?"

Bàn Tử nói: "Nãy không mang đèn pin nên không nhìn thấy gì cả, nhưng tôi có đụng phải mấy khối đá, cái động này hẳn là do con người đào ra."

Do người đào sao? Hoa hòa thượng có vẻ lưu ý điểm này, tôi cũng liếc mắt về phía cái động thêm lần nữa.

Cửa động thoạt nhìn giống miệng giếng, lại sâu chết bỏ. Tôi đoán nó là một cái giếng hầm bỏ hoang, nhưng nhìn kĩ thì không phải, bởi vì miệng giếng hơi to, những cái giếng hầm xây vào thời ấy không thể to đến mức này. Bên mép giếng có dấu đục, chắc chắn không phải là lỗ phun dung nham hình thành tự nhiên. Chiếu đèn vào bên trong thì không thấy dấu vết thi thai đâu nữa, xem ra đã rơi xuống tới đáy rồi, không biết đã bị Hoa hòa thượng đập chết chưa. Thứ này tuy vẻ ngoài hơi đáng sợ nhưng thực ra cũng không quá lợi hại.

Trong vách cái giếng đoạn đầu có khảm một ít đá phiến, nhưng vào sâu chút nữa lại không có, hơn nữa cũng không thẳng đuột mà nhìn hơi giống thành tá tràng của người. Có gió từ trong lòng giếng thổi ra mang theo mùi ẩm ướt, ló đầu vào sâu thêm mấy mét vẫn chỉ thấy bên trong tối đen một màu, không biết nó thông đến tận đâu nữa.

Bàn Tử nhìn qua, cảm thấy kì quái : "Trông khá giống địa đạo ở vùng Đông Bắc, không lẽ trong lúc xây dựng linh cung, mấy tay thợ dùng chỗ này để muối cải trắng?"

Hoa hòa thượng không thèm để ý đến hắn, đưa tay sờ sờ cửa động rồi nói: "Gió là từ chỗ này thổi ra, đây không phải giếng cụt mà chắc chắn phải thông đến nơi khác."

Bàn Tử hỏi: "Hay đây là cửa sau thông đến địa cung của thiên cung? Chính là con đường bí mật nối liền Tam đầu long mà mấy người nói đó?"

Tôi nhỏ giọng nói: "Bố cục Tam đầu long kia đã xác định là giả rồi, hơn nữa nếu có là thật thì con đường bí mật cũng phải mở trong địa cung chứ, sao lại chạy sang đây được?"

Bàn Tử nói: "Cậu chả hiểu cái khỉ gì cả, đây người ta gọi là dương đông kích tây. Cậu chưa nghe Mao chủ tịch nói sao? Nơi nguy hiểm nhất cũng là nơi an toàn nhất. Nói không chừng đây chính là kế của cái tên "Uông Uông Khiếu" kia đấy."

Bàn Tử nhất thời không nhớ ra tên của Uông Tàng Hải liền thuận miệng đặt cho ông ta một cái biệt danh, tôi nghe xong suýt nữa thì phá ra cười. Tôi bấm bụng nín cười, giả bộ tức giận nói: "Anh làm ơn tôn trọng người ta một chút đi, nói thế nào thì Uông Tàng Hải vẫn là bậc thầy của một phái, anh có gặp cũng phải gọi là ông tổ. Mà câu nói kia đâu phải của Mao chủ tịch, là Sở Lưu Hương đấy chứ."

Bàn Tử cãi lại: "Cậu đừng có thay tôi nhận tổ tông, ông tổ cái quái gì chứ, lão có nhận tôi tôi cũng đếch thèm nhận lão. Chúng ta khoan đứng đây tán dóc, cái động này phải làm gì bây giờ? Có muốn vào xem không? Nói không chừng sự thật lại đúng như lời tôi nói lúc nãy. Tha cho cái thi thai kia cũng là lưu họa ngầm, cứ để mặc nó làm tổ trong ấy có thể sẽ lại hại người, chúng ta hãy xuống xử lí một thể."

Hoa hòa thượng lắc đầu ý nói chuyện đó là không thể: "Nếu Quần long tọa là giả thì không cần phải đào động nối liền ba ngọn núi làm gì. Như vậy cũng là hợp tình hợp lí, bọn họ căn bản không đủ nhân lực lẫn tinh lực để kiến tạo một công trình lớn đến thế, xây dựng một tòa Vân Đỉnh thiên cung đã là quá sức rồi. Chỉ sợ trong động này còn có ẩn tình khác."

Tôi thấy ánh mắt gã sáng lên, hẳn là đã nghĩ ra điều gì đó, bèn chờ hắn nói ra rồi mọi người cùng nhau bàn bạc.

Hoa hòa thượng nói: "Đây chỉ là suy luận bước đầu của tôi thôi, nói ra sợ mọi người không tin."

Bàn Tử nói: "Không sao, cứ nói đi mà, nếu có sai sót gì các đồng đội trong nhóm sẽ giúp đồng chí sửa lại."

Hoa hòa thượng bật cười, gật đầu nói: "Được, vậy thì tôi sẽ nói. Những cái khác tạm thời chưa bàn, hãy hỏi vì sao cửa động mở ra ở vị trí ngay bên dưới linh điện, cái này có dụng ý rất sâu xa. Mọi người nghĩ mà xem, cửa động mở ra ở đây nhất định là để che giấu nó khỏi tầm mắt người khác. Bên trong lại có gió thổi ra, chứng tỏ cái động này là lối đi thông đến một nơi nào đó. Lại nhìn tiếp, trên vách động có dấu đục đẽo, tất cả đều là vết đục ngược ra ngoài, có thể nói cái động này là từ trong đục ra chứ không phải từ ngoài đây đục vào. Từ ba điểm quan trọng trên, cộng thêm kinh nghiệm của mình, chúng ta có thể suy đoán đây phỏng chừng là một bài đạo, có thể là đường thoát thân do những người thợ xây mộ tạo ra, nếu cổ mộ bị phong kín thì có thể chạy trốn theo đường này."

Tôi nghi hoặc hỏi: "Bài đạo ư? Không thể nào. Nói như anh thì bên dưới vẫn có địa cung sao? Đây không phải thế Tam đầu long mà vẫn xây lăng bồi táng?"

Hoa hòa thượng lại lắc đầu: "Khả năng này không lớn. Bởi vì nếu có lối vào địa cung thì chỉ có thể mở ra bên dưới tảng đá phong mộ, mà chúng ta lại không hề phát hiện lối vào nào ở đó. Có địa cung tất phải có đường vào, không có đường vào khẳng định không có địa cung, đây là chân lý muôn đời không đổi. Xây cửa vào bên ngoài huyệt vị phong thủy sẽ mang đến bất lợi lớn cho chủ ngôi mộ."

Bàn Tử nói: "Cái tên Uông Uông Khiếu này hành sự thật quái đản, có khi hắn lại xây cửa vào ở một chỗ khác."

Hoa hòa thượng xua tay: "Đừng phức tạp hóa vấn đề như vậy. Uông Tàng Hải dù sao vẫn phải chịu một số giới hạn của thời đại mình sống, nếu lão cứ làm xằng làm bậy, ngay cả Táng kinh cũng không thèm tuân thủ thì chúng ta đã mất mạng từ đời nào rồi."

Tôi cũng nghĩ vậy, nếu ngay cả Táng kinh cũng không tuân thủ thì còn xem phong thủy làm quái gì nữa. Giống như Thành Cát Tư Hãn đó, cứ chọn bừa một thửa đất, đào hố chôn mình xuống rồi cho vạn ngựa giày xéo lên, đến bây giờ đã có ai tìm được mộ ổng đâu. Bèn hỏi gã: " Nếu bên dưới đã không có địa cung, mà anh lại nói đây là bài đạo, vậy nó thông đến nơi nào?"

Hoa hòa thượng đáp: "Theo phương pháp loại trừ, thứ nhất bài đạo này xuất hiện bên dưới lăng bồi táng giả nên chắc chắn có liên quan đến những công nhân xây dựng Vân Đỉnh thiên cung. Thứ hai, gần đây có công trình kiến trúc nào cần xây một bài đạo như thế? Không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ có thể là địa cung của Vân Đỉnh thiên cung! Cho nên kết luận của tôi là – bài đạo này đến chín mười phần là đào từ địa cung của thiên cung trong lòng núi Tam Thánh sang đây."

Tôi lập tức kêu lên: "Sao có thể chứ, vậy cũng quá xa rồi, nếu bọn họ thực sự muốn đào một bài đạo làm đường thoát thân thì cũng không ngu mà mở miệng động ở chỗ này. Sao không mở miệng động ngay trên núi Tam Thánh, có phải đỡ tốn bao nhiêu công sức không? Hơn nữa đào một cái bài đạo dài ngoằng như thế trong lòng núi cần bao nhiêu thời gian chứ, bét nhất cũng phải hai, ba mươi năm. Một công trình như thế, con người có thể làm được sao?"

Hoa hòa thượng bèn giải thích: "Vân Đỉnh thiên cung là công trình rất lớn, thời xưa chắc chắn phải xây mất sáu, bảy mươi năm, thậm chí phải qua vài thế hệ mới có thể hoàn thành. Tôi nghĩ những công nhân xây dựng cũng lường trước được chuyện mình sẽ phải bỏ mạng nơi này, cho nên mới lén đào một cái bài đạo thông ra ngoài, chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra. Còn vì sao bọn họ lại phải mở cửa động ở một tòa núi xa tít tắp thì chắc chắn phải có một nguyên nhân bất khả kháng nào đó. Chúng ta cứ xuống đó xem thử, tất sẽ biết ngay thôi."

Diệp Thành nãy giờ vẫn chăm chú lắng nghe, bỗng lên tiếng hỏi: "Hòa thượng, giả thiết này của anh, bản thân anh có chắc chắn không đó?" 

Hoa hòa thượng dừng một chút rồi tiếp: "Thật sự tôi cũng không dám chắc, nhưng tôi cảm thấy cũng đáng để chúng ta thử một lần, dù sao vẫn còn hơn chúng ta thoát ra ngoài rồi lại tìm một lối khác đi vào. Hiện giờ mọi dấu vết đều chứng tỏ đây là một bài đạo, nếu tôi phán đoán sai lầm, đầu bên kia không phải Vân Đỉnh thiên cung thì đi vào chắc cũng không gặp chuyện gì xấu. Đây không phải lần đầu tiên tôi gặp loại bài đạo này, chắc chắn không có nguy hiểm gì đâu. Chẳng ai lại đi bố trí cơ quan cạm bẫy trên con đường thoát thân của mình cả."

Tôi thoáng cân nhắc, giả thiết của Hoa hòa thượng đúng là rất hấp dẫn. Thứ nhất, các giả thiết về phong thủy nơi này cực kì lộn xộn, tôi nghe đám người Trần Bì A Tứ nói một thôi một hồi vẫn lơ mơ chả hiểu gì, mà phong thủy nơi này có tốt hay xấu tôi cũng cóc quan tâm. Thứ hai, đám người A Ninh bên kia không biết tiến triển đến đâu rồi, chúng tôi đã lãng phí rất nhiều thời gian. Đến bây giờ chúng tôi vẫn không hiểu mục đích của chú Ba khi sắp xếp chuyến đi xuống đất này là gì, nếu vì một lần đi đi về về mà mục đích đó thất bại hoàn toàn thì tôi thực sự không còn mặt mũi nào nhìn chú nữa.

Một vấn đề khác cần cân nhắc chính là Thuận Tử căn bản đã biết chúng tôi đang làm gì, hiện giờ vẫn lẳng lặng đứng một bên. Tuy hắn không nói gì nhưng kẻ này không phải hạng ngu ngốc, tôi để ý thấy tay hắn từ trước tới giờ vẫn cách con dao trên người không quá hai thước, rõ ràng là đang đề phòng chúng tôi. Người này một khi quay về thôn thì ai biết hắn sẽ làm gì, không chừng sẽ bán đứng chúng tôi ngay, Trần Bì A Tứ hẳn cũng đã nghĩ đến điều này. Nếu chúng tôi buộc phải rời núi rồi mới quay lại, thì việc đầu tiên cần làm trước khi vào thôn nhất định là giết người diệt khẩu hoặc là vung tiền mua chuộc, bởi vì đến lúc đó chưa chắc đã tìm được người dẫn đường khác. Chúng tôi đã một lần đi vào núi tuyết, cả đoàn trở về mà người dẫn đường lại mất tích thì còn ai dám dẫn chúng tôi đi lần nữa chứ. Vả lại, chỉ e cũng không nhiều người trong thôn có thể dẫn đường cho chúng tôi.

Mọi người bàn bạc một lúc, cân nhắc nhiều lần, ý kiến vẫn không thống nhất. Diệp Thành sợ thi thai kia nên kiên quyết không chịu đi vào, Phan Tử cũng cảm thấy nơi đó quá mức tà dị, còn tôi và Bàn Tử thì lại nghĩ cũng nên thử một lần. Hoa hòa thượng đành đi xin chỉ giáo của Trần Bì A Tứ, hỏi lão xem chúng tôi có nên đi không?

Trần Bì A Tứ nãy giờ vẫn ngồi một chỗ, nhắm mắt nghe chúng tôi nói chuyện. Hoa hòa thượng hỏi mấy lần, không hiểu vì sao lão vẫn không hề phản ứng, hình như đã ngủ mất tiêu.

Bàn Tử phát sốt ruột, lại gần đập đập lão: "Ê lão già, nói gì đi chứ, đừng có im ỉm giả vờ cool nữa." Nói rồi đẩy một cái, Trần Bì A Tứ khẽ đung đưa nhưng vẫn không mở mắt ra.

Hoa hòa thượng thấy thế thì biến sắc, vội vã bắt lấy cổ tay Trần Bì A Tứ, sắc mặt bỗng chốc tái đi. Bàn Tử thấy thế bèn chạy lại, sờ cổ lão, mặt cũng biến sắc: "Mẹ kiếp! Lão chết rồi!"

Mọi người nghe thế thì ngây cả ra. Cái gì cơ? Chết rồi? Vô lý, vài phút trước không phải vẫn khỏe mạnh bình thường sao?

Nhưng vừa thấy Bàn Tử biến sắc, Hoa hòa thượng đổ đầy mồ hôi cộng thêm Trần Bì A Tứ ngồi im không hề phản ứng, mọi người đều cảm thấy không ổn, lập tức vây lại xung quanh.

Lão già ngồi đó đã cứng ngắc như đá, hai mắt nhắm nghiền, ngồi yên không nhúc nhích giống như một pho tượng điêu khắc từ băng.

Tôi sờ cổ tay Trần Bì A Tứ cũng không thấy mạch đập, chỉ có cảm giác da lão vừa khô vừa sần sùi, lại lạnh đến rùng mình, mà thịt bên trong hình như cũng đã đông cứng lại.

Lẽ nào đã chết thật rồi? Trong lòng tôi hoảng sợ, đúng vào lúc chúng tôi nghiên cứu cái hầm kia, Trần Bì A Tứ ngồi yên ở chỗ này, trái tim cứ từ từ ngưng đập sao?

Tuy những biểu hiện này rất giống chứng tử vong do thân nhiệt hạ thấp, nhưng chứng hạ thân nhiệt này có phát tác cũng phải mất hai mươi phút mới hoàn toàn tắt thở. Chúng tôi mới ngồi chưa đến năm phút đồng hồ, sao lão đã đột ngột thăng thiên rồi? Cái này giải thích thế nào cũng không ổn.

Trong lòng tôi vẫn nuôi một tia hi vọng mong manh, Bàn Tử nói chuyện rất tùy tiện, hắn mới chỉ sờ vào cổ Trần Bì A Tứ mà đã phán lão tử vong là rất võ đoán. Có thể đó chỉ là một cơn sốc thôi, vừa rồi phải chạy quá nhanh, một lão già chín mươi tuổi làm sao mà chịu được?

Hoa hòa thượng cau mày, vạch mi mắt Trần Bì A Tứ lên, lấy đèn pin soi vào. Sắc mặt gã càng lúc càng khó coi, cuối cùng gã quay đầu lại nhìn Diệp Thành một cái, khẽ lắc đầu.

Hoa hòa thượng có chút kiến thức về y học, thấy gã đã lắc đầu, chúng tôi nhất thời đều hít vào một hơi khí lạnh, biết là không thể nhầm được nữa rồi, vậy là người thực sự đã chết.

Phan Tử khẽ hỏi: "Sao lại thế này? Chết như thế nào?"

Hoa hòa thượng thở dài, không rõ gã không biết thực sự hay là không muốn nói chuyện, chỉ tối mặt lại, ngồi phịch xuống đất. Bàn Tử bèn kéo Phan Tử một cái: "Ổng đã già khú rồi, chết thế nào chả được."

Tôi cũng không nén nổi tiếng thở dài, đúng là đối với một ông già chín mươi tuổi, vào đến đây cũng là quá gắng sức. Xảy ra chuyện này tuy nói là ngoài ý muốn, nhưng cũng hợp lý hợp tình. Trần Bì A Tứ căn bản cũng không ngờ mình sẽ chết như thế, đây coi như là báo ứng của lão.

Ông nội tôi cuối đời cũng đột ngột ra đi như vậy. Lúc ấy tôi đang ăn cơm, phút trước ông còn sai tôi lấy cho ông ít rượu, thế mà phút sau ông đã đi rồi. Cha tôi nói rất nhiều người làm nghề trộm mộ, do năm này qua năm khác tiếp xúc với không khí trong mộ nên trái tim đều đã tổn hại ở mức độ nhất định, rồi về già đa số đều chết đi như thế. Vậy cũng tốt, đây là cái chết thoải mái nhất rồi.

Chúng tôi ai nấy đều lúng túng, thứ nhất, Trần Bì A Tứ là ông chủ của Diệp Thành và Hoa hòa thượng, bây giờ lão đã chết, họ có ở lì lại đây cũng chẳng để gì. Thứ hai, chúng tôi tuy chiếm được nhiều lợi thế, có thể thuận lợi vào tới đây, nhưng giờ Trần Bì A Tứ đã chết, Muộn Du Bình lại không có mặt, cả đám chúng tôi chỉ dựa dẫm vào Bàn Tử và Phan Tử thì e rằng hơi quá sức.

Đúng lúc tôi đang nhanh chóng cân nhắc tình hình thì Trần Bì A Tứ bỗng run lên một cái. Tôi kinh hoảng, tưởng đó là phản xạ di chuyển của xác chết, ai ngờ "pặp" một tiếng, cổ tôi đã bị lão thít chặt, người vẫn ngồi thẳng, hai mắt từ từ mở ra.

Đám chúng tôi bị hù cho chết khiếp, Diệp Thành ngã phịch xuống đất trượt đi đến năm, sáu mét, Bàn Tử và Phan Tử cũng vội vã lùi về phía sau, Bàn Tử hoảng hốt kêu lên: "Xác chết vùng dậy!"

Tôi hấp tấp cạy tay lão ra, ai ngờ cánh tay héo quắt như nhánh cây khô của lão già này lại khỏe đến thế, không khác cái kìm nhổ đinh là mấy. Tôi cạy mãi mà tay lão vẫn không nhúc nhích, vội ho khan mấy tiếng rồi kêu lớn: "Lấy...móng...đến... Mau lên!"

Còn chưa dứt lời, Trần Bì A Tứ đột ngột buông cổ tôi ra, đẩy tôi một cái rồi mắng: "Ngươi nói vớ vẩn cái gì vậy?"

Đầu tôi ong ong cả lên, vội chạy đến nấp sau lưng Bàn Tử nhưng Bàn Tử lại cản đường tôi. Chợt nghĩ lại, không thể nào, xác chết vùng dậy làm sao nói chuyện được? Lại nhìn sang Trần Bì A Tứ, rõ ràng thần sắc đã khôi phục, hô hấp cũng bình thường trở lại.

Chúng tôi nhìn Trần Bì A Tứ bằng vẻ mặt đầy nghi hoặc, cũng không hiểu vừa nãy đã xảy ra chuyện gì. Bàn Tử lại càng nhìn lão chằm chằm, ánh mắt đầy ngờ vực. Nhưng lần này Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại như bình thường, không thể nhìn ra chỉ vài phút trước thôi mạch còn ngừng đập. Cứ như trong nháy mắt vừa rồi, những gì chúng tôi chứng kiến đều là ảo giác vậy.

Hoa hòa thượng ngây người mất một lúc mới bắt đầu phản ứng, hắn hỏi: "Lão gia, người không sao chứ? Vừa rồi người..."

Trần Bì A Tứ hình như không hề biết vừa rồi hồn mình đã thoát xác, khó hiểu nhìn Hoa hòa thượng, châm một điếu thuốc, nói: "Cái gì?"

Hoa hòa thượng nhìn nét mặt của Trần Bì A Tứ thì cũng hơi lúng túng, không biết nói sao cho phải.

Trần Bì A Tứ lạnh lùng liếc hắn một cái, nói: "Ngươi yên tâm, lão già này không dễ chết thế đâu."

Tôi nhìn dáng vẻ và ngữ khí của Trần Bì A Tứ, thấy không giống vừa nãy chút nào, cũng không giống như bị quỷ nhập hồn, chợt có cảm giác hình như mình vừa bị lão ta đùa giỡn. Nhưng lão việc gì phải diễn cái trò hề này chứ, cũng đâu còn trẻ trung gì nữa.

Trần Bì A Tứ nháy mắt đã 'sống lại', làm mọi người đều không kịp phản ứng. Nhưng nhìn dáng vẻ của lão, chúng tôi cũng không thể đè lão ra giải phẫu xem vừa nãy đã xảy ra chuyện gì được. Lòng tôi lại bắt đầu hoài nghi, phải chăng vừa rồi Hoa hòa thượng và Bàn Tử đã phán đoán sai? Mạch đập của người già vốn rất khó sờ, hai gã lang băm kia có thể đã sờ không đúng chỗ. Mà suy cho cùng Trần Bì A Tứ đã lớn tuổi, bỗng dưng đờ người ra một lúc cũng là chuyện bình thường.

Mọi người vẫn còn nghi hoặc, nhưng cũng không biết biểu lộ thế nào.

Hoa hòa thượng tuy vẫn còn hoài nghi, nhưng thấy Trần Bì A Tứ không sao thì tạm yên lòng. Tiếp đó gã nhắc lại chuyện chúng tôi vừa thảo luận, Trần Bì A Tứ liền nhìn vào động băng kia, cân nhắc một lát rồi nói: "Cũng có lý, đáng để thử một phen."

Chương 28: Tiến vào bài đạo

Chúng tôi dừng lại trước cửa động rất lâu, dự tính tất cả mọi khả năng về cái động này, trong lúc đó Trần Bì A Tứ bỗng dưng chết cứng mất một lúc, rồi lại hồi phục như bình thường, cứ như phép lạ. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng Trần Bì A Tứ hình như không hề muốn nhắc tới chuyện vừa rồi, thế nên cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải dời sự chú ý lên cái động băng kì quái này.

Chúng tôi vây quanh động, bàn bạc cụ thể xem phải xuống động thế nào. Mấy người chúng tôi tuy đều trải qua không ít lần thám hiểm huyệt động, nhưng đều ở đồng bằng hoặc vùng núi, khác xa nơi này nên cần bàn bạc kĩ hơn.

Quãng đầu của cái động này dốc xuống bốn mươi độ, dưới đáy rất sâu, đi lại cũng không dễ dàng. Vừa nãy Bàn Tử và Phan Tử ngã xuống, nếu không kiểm soát tư thế tốt thì cũng hết sức nguy hiểm, có thể đã lăn tròn xuống dưới, gặp khúc hẹp sẽ bị va cho bẹp đầu.

Phan Tử thả xuống một cây gậy huỳnh quang, vầng sáng vàng lạnh lẽo nhanh chóng lăn xuống, nảy lên vài cái từ chỗ nào đó rất xa rồi biến mất không dấu vết.

Nếu Hoa hòa thượng nói đúng, nhớ lại hướng đi của chúng tôi giữa hai tòa thánh tuyết sơn, thì khẳng định cái huyệt động này chạy thẳng một đường xuống dưới, sau đó lại ngoặt lên trên theo hình g V. Hai tòa núi tuyết nằm trong cùng một sơn mạch nên cái khe ở giữa cũng khá cao, con đường hình chữ V này chắc không dài quá 5km.

Đương nhiên nếu mấy người công nhân kia lại nổi hứng đào động hình chữ Z cho nó độc đáo thì chúng tôi cũng đành chịu, nhưng những chuyện vượt ra ngoài quy tắc thông thường này chắc khỏi cần tính đến làm gì.

Nếu là thông đạo do con người đào để thoát thân, vậy thì khỏi lo thiếu dưỡng khí. Chúng tôi bàn bạc xong xuôi, quyết định Phan Tử sẽ là người vào động thăm dò trước tiên. Lần này đã chuẩn bị vũ khí cẩn thận, chẳng may cái con thi thai kia vẫn nấp bên trong thì có thể xử lý nó tại chỗ.

Vừa rồi Phan Tử bị thi thai tha vào động, cũng thấy hơi mất mặt. Anh nhổ một bãi nước miếng lên tay rồi rút sợi dây thừng, một đầu buộc vào lưng Bàn Tử, một đầu ném xuống miệng động, làm đầu tàu gương mẫu leo xuống trước. Tàn một điếu thuốc mới nghe tiếng kêu của anh ra hiệu cho chúng tôi cùng xuống.

Chúng tôi lục tục kéo nhau xuống miệng động, đường hầm được đục đẽo rất gồ ghề, qua đoạn vách đá là cứ vậy trượt xuống đến ê cả mông. Tôi đi vừa bò vừa quan sát nham thạch bên cạnh, đây đều là đá basalt sinh ra vào thời điểm núi lửa phun trào, trên bề mặt có rất nhiều bọt khí. Khối đá này có mật độ không đồng đều, có chỗ cứng như thép, có chỗ lại mềm như đậu phụ, không biết năm đó khi đào đạo động đến đoạn này thì nó đang là cái dạng gì.

Chúng tôi từng người, từng người một leo xuống, Bàn Tử đi sau chót, chẳng mấy chốc đã có một đống người chen chúc phía cuối con dốc trong lòng hang, há miệng thở phì phò. Ở đây chúng tôi thấy từng vũng chất lỏng màu đen, chắc chắn là dịch của thi thai nhưng lại không thấy bóng dáng thi thai đâu, hẳn nó đã chui tít vào sâu bên trong huyệt động rồi.

Cái hang băng chật hẹp này chạy xuống được một đoạn, đến khúc ngoặt dưới đáy thì đột ngột biến thành dựng đứng, vừa dài vừa hẹp. Càng đi sâu vào trong chiều cao của huyệt động càng tăng, không gian hình như đã trở nên rất rộng rãi thoáng đãng, nhưng vẫn tuyền một màu tối đen, chiếu đèn pin vào cũng chẳng thấy gì.

Ban đầu tôi còn tưởng đây là đoạn đường hầm bọn họ cố ý đào cho rộng ra, cái này khi chúng tôi đào đạo động cũng có tìm hiểu, gọi là cáp tử gian (lồng chim câu), thường dùng để tích trữ không khí hoặc để chôn thuốc phiện. Đương nhiên cách thức tạo ra cái lồng chim câu này khá phức tạp, anh đào ra trong lòng đất một không gian đủ lớn cho hai người xoay qua xoay lại, thế mà không hất ra ngoài cửa động chút xíu đất nào, đúng là phải có bí quyết cực kì xảo diệu.

Nhưng khi đèn pin vừa chiếu tới, chúng tôi lập khắc ngẩn người. Hóa ra bài đạo chạy tới chỗ này thì đột nhiên co hẹp, cuối cùng phía trước còn lại một cái khe chỉ vừa một người nghiêng mình lách vào, trông như một nhát kiếm chém bừa đâm sâu vào trong đá núi.

Phan Tử hỏi: "Không phải đây là con đường bí mật để công nhân trốn thoát hay sao? Sao lại biến thành cái khe hở bé tí teo này vậy? Có tiếp tục đi nữa hay thôi đây?"

Hoa Hòa Thượng ngẫm nghĩ một hồi, bỗng dưng nét mặt biến đổi, cứ như vừa ngộ ra điều gì, vội nói: "Tôi nghĩ bài đạo này có thể là lợi dụng những động núi lửa có sẵn. Những động như thế này bên trong tầng nham thạch của núi lửa có rất nhiều, bốn phía thông nhau, động núi lửa dài nhất có thể lên tới mấy ngàn km, đan vào nhau dày đặc dưới lòng đất giống như mạng nhện. Có thể cái khe núi lửa này thông thẳng đến núi Tam Thánh ở phía đối diện, chính vì vậy bọn họ mới có thể đào được một con đường dài đến thế, thì ra là lợi dụng cái thông đạo thiên nhiên sẵn có này."

Bàn Tử nói: "Không lẽ chúng ta cũng phải chui vào cái khe kia sao? Các người còn có thể chứ tôi to xác thế này thì bó tay rồi." Ngày trước trong ngôi mộ dưới đáy biển, Bàn Tử đã nói phải giảm cân, nhưng đến bây giờ vẫn chưa bớt được tí mỡ nào, nhìn dáng người của hắn thì quả là chịu chết.

Hoa hòa thượng nói: "Cái này khỏi lo, hầu hết các động núi lửa đều có kết cấu như nhánh cây, những lỗ hổng thế này hẳn đều thông đến khe hở lớn hơn, cái này trong địa chất học gọi là hành lang ngầm. Có hành lang ngầm quy mô rất lớn, bên trong thậm chí còn hình thành nên hệ sinh thái độc đáo của riêng mình, tôi tin đi vào khe hở kia một đoạn sẽ rộng ra thôi, bởi vì dạng ăn mòn địa chất này đều bắt nguồn từ trong lòng đất."

Hoa hòa thượng đã nói là chỉ có chuẩn, nhưng tôi lại không tin tưởng gã cho lắm. Chẳng qua lúc này cũng không có lí do gì mà phản bác lại lời gã, vì thế mọi người nghỉ ngơi một lát, chỉnh đốn lại trang bị. Lần này Bàn Tử dẫn đầu đoàn chúng tôi tiếp tục bò vào khe hở kia.

Bên trong khe hở tối om om, hơn nữa đèn pin cũng không có tác dụng, bởi vì màu đen này bao trùm lên mọi phương hướng. Ở châu Âu người ta quan niệm mọi khe hở kiểu này đều dẫn đến địa ngục, người Tây Tạng cũng cho rằng huyệt động là địa bàn của ác ma, không nên đi vào. Tôi mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm, nhưng khoảnh khắc chui vào khe hở kia, trái tim tôi vẫn đập thình thịch đầy bất an.

Sau khi từng người một hóp bụng lại để chui vào khe hở, chúng tôi phải bò nghiêng người giống như con cua. Vách động chỗ này đã không còn dấu vết con người đục đẽo, bên trong gần như không thể xoay đầu, nhìn trước mặt đâu đâu cũng là dấu tích hoa văn lưu ly, một lượng lớm nham dung đủ màu tích tụ lại, phủ lên bề mặt nham thạch, bên trên là băng sương kết tinh, như những cột nước ngưng tụ sắp xếp đều đặn.

Hồi còn ở trường kiến trúc, tôi cũng có học về địa chất. Theo trí nhớ mơ hồ của tôi, vách đá trước mặt hẳn là do núi lửa phun trào tạo thành, cũng giống như cái khe núi lửa mà chúng tôi chui vào tránh cơn bão tuyết. Quá trình hình thành của loại địa mạo này không giống những hang núi lửa thông thường: Những khe hở này do núi lửa phun trào trong tích tắc mà thành, sau đó những mảnh vụn núi lửa chảy với tốc độ cực cao sẽ theo đó mà phun ra. Đặc điểm của những cái khe này là rất dài nhưng chỉ có một đường duy nhất, không thể hình thành một hệ thống hang núi lửa giống như mê cung được.

Đoạn đầu khe hở rất hẹp, chúng tôi đành phải học theo những động tác Break Dance (1) mà di chuyển, chưa nổi mười lăm phút người đã đau nhức rã rời. Thầm nghĩ những công nhân bỏ trốn năm đó, lúc đi ra cũng không dễ dàng gì. Tuy nhiên đi thêm một lúc thì khe hở quả nhiên đã nới rộng ra như lời Hoa hòa thượng nói, cuối cùng cũng có thể xoay thẳng người mà đi.

Bên trong khe hở chỉ thuần một màu tối đen nhưng bốn phía đều có ngọc lưu ly cùng với đá vân mẫu hòa tan phản xạ lại ánh đèn pin của chúng tôi, sinh ra một thứ hiệu ứng ánh sáng huyền ảo, thêm vào đó là phần lớn diện tích khe núi lửa bao phủ một lớp nhũ đá, măng đá, dung nham đông lạnh hình thừng, đẹp đẽ vô cùng, làm chúng tôi hoa cả mắt.

Đi sâu vào trong, chúng tôi dần dần phát hiện vài dấu vết cho thấy từng có người hoạt động, ví dụ như những dụng cụ sắt rỉ sét bị vứt lại, tàn tích của đống lửa, tất cả đều rất xa xưa.

Dọc đường đi, chúng tôi không đụng phải thứ quái đản nào. Bên trong khe hở cực kì sạch sẽ, đi khoảng sáu tiếng đồng hồ, chúng tôi đã tới hành lang ngầm đúng như lời Hoa hòa thượng nói, đến đây khe hở đã trở nên vô cùng rộng rãi.

Đến đoạn này của khe hở, tôi lại phát hiện rất nhiếu dấu vết tu tạo của con người. Một bên vách đá của cái khe được đục đẽo thành nhiều bậc thang đơn giản, hướng thẳng lên trên. Tuy gọi là bậc thang nhưng thật ra chỉ là mấy mỏm đá hơi nhô ra ngoài, chân to cỡ như Bàn Tử mà bước lên chỉ sợ được vài bước đã chóng mặt.

Mọi người dừng lại nghỉ ngơi một chốc, tôi nhẩm tính quãng đường chúng tôi đi được và độ dốc của khe, từ đó phát hiện ra vị trí mình đang đứng đã thấp hơn cả ranh giới tuyết, có lẽ là ngay bên dưới cái khe giữa hai ngọn núi. Nếu di chuyển trên mặt đất, dù chỉ đi đường thẳng cũng phải mất ít nhất tám giờ mới vượt qua khoảng cách giữa hai ngọn núi. Hiện giờ chúng tôi di chuyển dưới lòng đất nên tiết kiệm được kha khá thời gian, đồn biên phòng ở trên kia mà biết có một cái hành lang như thế chạy dưới lòng đất hẳn sẽ phải ngạc nhiên lắm.

Đã đi đến đây rồi, nếu cứ đi mãi đi mãi tới tận cuối cái khe nứt này, có thể chúng tôi sẽ vào đến tâm trái đất. Những bậc thang thô sơ kia xem ra đã nói rõ đường hầm này đã đến đoạn thứ hai, sau bậc thang cuối cùng có lẽ chính là địa cung thần bí của Vân Đỉnh thiên cung kia.

Mới nghỉ ngơi một lát, mấy người đã kiềm lòng không nổi, vì thế lại lập tức lên đường, tuy nhiên từ giờ trở đi con đường sẽ không còn thuận lợi như trước nữa.

Chúng tôi lấy dây thừng buộc mọi người lại với nhau, sau đó ra sức bám chặt vào vách đá, giẫm lên cái "thang đá" rồi cứ leo lên từng chút một. Ban đầu còn thấy ổn, nhưng leo đến một độ cao nhất định, bỗng có cảm giác mình giống như một vận động viên leo núi nhưng lại không hề có kinh nghiệm leo núi. Tình huống này, khỏi nói cũng biết chật vật đến thế nào.

Chân Bàn Tử hơi quá khổ, hắn giẫm lên bậc thang mà cứ như đi cà kheo, vừa đi được vài bước chân đã bắt đầu phát run, tôi còn thấy hắn ra sức niệm "A di đà Phật" nữa.

May mà chúng tôi đi rất cẩn thận, giống như cô gái ngồi thêu thùa may vá, cứ nhích lên phía trên từng chút một. Chẳng mấy chốc bên dưới đã là vực sâu đen ngòm, không thể ước lượng được khoảng cách bởi nhìn xuống sẽ choáng váng mặt mày. Nếu không phải vừa rồi chúng tôi từ dưới đó leo lên, tôi nhất định đã nghĩ nó thông xuống địa ngục.

Đi thêm mấy giờ, chúng tôi leo càng lúc càng cao, cuối cùng đã không thể phán đoán xem mình đang ở chỗ nào, cũng không thể ước lượng được thời gian, mọi người đều rơi vào trạng thái mù mịt. Nhưng không ai nói muốn nghỉ ngơi cả, không biết là do bản tính tham lam trời sinh của dân trộm mộ hay là vì ở vào hoàn cảnh này không thể nghỉ ngơi được. Anh hãy thử tưởng tượng một chân anh giẫm lên miếng đá to bằng bàn tay, một chân lơ lửng giữa không trung, bên dưới là vách đá cao vạn trượng, thế thì nghỉ ngơi sao nổi?

Leo thêm một lúc, bỗng xung quanh truyền đến tiếng nước chảy. Soi đèn pin sang thì hóa ra là có vài lạch suối chảy xuôi theo vách đá, lớn nhỏ không đều. Nhìn hơi nước bốc lên, tôi biết đó là suối nước nóng. Con suối không biết bắt nguồn từ đâu mà tiếng nước chảy khá lớn, hình như gần đây có mạch nước ngầm hoạt động.

Bàn Tử nói hắn muốn đi rửa mặt một cái cho tỉnh người, suối nước nóng gần nhất chỉ cách hắn có một cánh tay. Kỳ thực chúng tôi lên đến đây cũng đã mệt mỏi rã rời, hơn nữa lần trước cũng từng nghỉ lại bên suối nước nóng, cho nên ai nấy đều muốn dừng chân nghỉ ngơi một lát. Nhưng Thuận Tử lại lắc đầu nói: "Không được!" rồi chỉ vào nham thạch bên cạnh suối nước nóng. chúng tôi nhìn theo hướng tay hắn chỉ, mới đầu không phát hiện gì cả, nhưng nhìn kỹ lại thì phát rùng mình.

Chỉ thấy trên vách nham thạch kế bên suối nước nóng có rất nhiều những đường vân kỳ quái, ban đầu cứ ngỡ là vân núi lửa, nhưng nhìn kỹ lại thì lông tơ dựng đứng cả lên. Hóa ra đó không phải vân đá, mà là một con du diên to cỡ cánh tay đang bám bên trên. Con du diên này có màu sắc giống hệt đá lưu ly núi lửa xung quanh, không nhìn kĩ thì không tài nào nhận ra được. Chúng tôi nhìn quanh quất mới phát hiện trên mặt đá bò đầy thứ này, nhưng chúng không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.

Chúng tôi chết lặng cả đi, Bàn Tử khẽ hỏi: "Sao lại thế này? Sao chúng ta lại đi vào tổ sâu?"

Thuận Tử thì thào đáp lại: "Sinh vật sống rên núi tuyết thông thường đều tập trung bên suối nước nóng, cho nên nhìn thấy suối nước nóng thì đừng vội nghĩ đến chuyện lội xuống thư giãn, có suối nước nóng bên trong toàn là đỉa nữa cơ. Nhưng nhiệt độ bây giờ vẫn còn rất lạnh, mấy thứ này đang ở trong trạng thái chết giả, nếu không có kích thích quá mạnh thì chúng không tỉnh lại đâu. Chúng ta phải đi mau, qua đoạn này là an toàn."

Mọi người lập tức đẩy nhanh tốc độ. Bàn Tử nhón chân, vừa đi vừa hỏi: "Kích thích quá mạnh là cái gì?"

Lời nói còn chưa dứt, Thuận Tử đột nhiên khoát tay, bảo chúng tôi đừng ai nhúc nhích.

Chúng tôi không biết lại xảy ra chuyện gì, lập tức đứng bất động như tượng gỗ. Cả đám nhìn chằm chằm vào Thuận Tử, nhưng Thuận Tử lại nhìn xuống vực sâu đen ngòm bên dưới.

Im lặng một hồi, chúng tôi dần dần nghe thấy những âm thanh lao xao khiến người ta sợ hãi, tựa như có vô số bàn chân đang ma sát vào vách nham thạch, nhắm thẳng về phía chúng tôi.

"Tắt đèn pin." Thuận Tử khẽ thì thào.

Chúng tôi lập tức làm theo, quay đầu nhìn lại. Bỏ mợ, gần như toàn bộ vách đá xung quanh, nhìn hút tầm mắt đều là những đốm sáng xanh lục âm u lớn có nhỏ có, chi chít như một biển sao. Trong bóng tối nơi này, giữa ngàn vạn đốm sáng huyền ảo như ma thuật, chúng tôi có cảm giác như mình đang đứng giữa vô vàn tinh tú trong vũ trụ, cảnh tượng hoành tráng không lời nào tả xiết.

Nhưng cúi đầu nhìn xuống mới thấy cảnh tượng xung quanh mình vẫn chưa là gì cả. Giữa màu đen hư ảo dưới đáy vực sâu thăm thẳm kia là một dải ngân hà xanh biếc uốn lượn, giống như những viên phỉ thúy lộng lẫy đính trên tấm màn sân khấu đen tuyền, xuyên qua màn đêm vô tận, trải dài từ nơi bắt đầu cho đến điểm cuối của bầu trời.

*Ngờ là bạn Tà học văn bằng 2 sư phạm văn hoặc báo chí, không thì đào đâu ra lắm văn vẻ thế này...*

Tôi há hốc miệng, không tin nổi vào cảnh tượng trước mắt mình: Số lượng du diên dưới kia dễ phải đến hàng tỉ con.

Đúng vào lúc chúng tôi bị cảnh tượng tráng lệ này làm cho choáng váng, cứ ngỡ mình lạc vào cõi tiên thì bỗng dưng giữa những đốm sáng kia lóe ra vài điểm sáng huỳnh quang màu đỏ cực lớn. Những điểm sáng đỏ kia vặn vẹo di chuyển giữa biển sao, một loáng sau lại biến mất trong bóng đêm. Hiển nhiên trong đám du diên dưới kia, có một số con kích thước không hề nhỏ.

————————————————–

(1) 1 điệu nhảy hiphop, trông như thế này này.

Chương 29: Miệng núi lửa

Trong bóng tối truyền đến tiếng của Thuận Tử: "Giống trùng này ở chỗ chúng tôi được tôn làm thần để cúng bái, bởi vì chúng có thể sống rất lâu. Hơn nữa khi một con du diên chết đi, xác của nó sẽ hấp dẫn vô số con khác tìm đến, vậy nên khi di chuyển chúng ta phải đặc biệt cẩn thận, tuyệt đối không được giẫm lên chúng."

Nói rồi hắn bật đèn pin lên. Đèn vừa sáng, biển sao xanh biếc xung quanh lập tức biến mất, không gian lại trở về với một màu đen vô tận.

Màu sắc ngụy trang của mấy con du diên này đúng là quá lợi hại, nếu chúng tôi không tắt đèn pin đi thì không tài nào phát hiện ra. Tôi bất giác rùng mình sợ hãi, nếu lúc nãy bò qua chỗ kia mình không may dẫm chết một con thì e là đã chết ở đây rồi, đấy là còn chưa kể đến chuyện mắc ói.

Chúng tôi ổn định lại tinh thần, tiếp tục lần theo từng bậc thang đá, chầm chậm tiến lên. Cẩn thận bò qua khu vực suối nước nóng một đoạn, du diên giả làm vân đá đã giảm bớt, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Đúng như lời Thuận Tử nói, những hệ sinh thái ở vùng núi tuyết đều tụ tập xung quanh suối nước nóng.

Có điều cảnh tượng vừa rồi quả thực vô cùng tráng lệ, nếu có cơ hội, tôi rất muốn xem lại thêm vài lần. Thật khó mà tưởng tượng những con trùng xấu xấu bẩn bẩn thế kia lại có thể tạo nên một cảnh tượng tuyệt đẹp đến vậy, thế giới này đúng là hết sức kì lạ.

Đã không còn du diên giả làm vân đá nữa, tốc độ của chúng tôi cũng được đẩy nhanh hơn. Nhưng màn đêm phía trên dường như là vô cùng vô tận, không biết đến đời nào chúng tôi mới tới cửa ra, thoát khỏi cái bài đạo tự nhiên này.

Bàn Tử vừa bò vừa hỏi: "Phải rồi, lão gia, tôi có chuyện này muốn hỏi ông. Lúc ở nhà ga kia ông có nói vài lời với chúng tôi, còn nói cái gì mà Cửu Long đài thi nữa là sao ta? Từ đó đến giờ tôi vẫn để ý nghe nhưng không thấy ông nhắc gì đến nữa?"

Trần Bì A Tứ dừng lại ngó hắn một cái, đoạn lại liếc sang Hoa hòa thượng ý bảo gã nói. Hoa hòa thượng liền giải thích: "Chúng tôi cũng không biết gì cả, tất cả tin tức chúng tôi có được đều lấy từ con cá đồng kia. Cửu Long đài thi có thể là một nghi thức mai táng đã thất truyền, theo văn tự kia ghi lại, có lẽ ý nó muốn nói quan tài của Vạn Nô hoàng đế do chín con rồng khiêng. Chín con rồng này ngày đêm canh gác thi thể của lão, dẫu là ai cũng không thể tới gần. Nhưng ngôn ngữ của tộc Nữ Chân đã thất truyền, những chữ tôi dịch ra, cũng không rõ có mang ý nghĩa như thế hay không."

Tiếp đó gã tụng nguyên văn cho chúng tôi nghe một lần. Tiếng của người Nữ Chân đúng là rất lạ, tôi căng tai lên nghe mà vẫn chẳng hiểu gì.

"Ể, nếu những chữ khắc trên con cá này là thật, chẳng phải chúng ta muốn mở quan tài của Vạn Nô hoàng đế thì trước hết sẽ phải học theo Na Tra đại chiến Tam thái tử Long vương?" Diệp Thành bắt đầu nói giỡn.

"Anh đừng có nói nhảm. Tôi thấy Cửu Long đài thi quan này, đại khái chỉ là một cỗ quan tài dưới đáy khắc hình chín con rồng thôi." Bàn Tử tiếp. "Nếu là rồng thật thì chúng ta đã giàu to rồi. Cứ tóm đại một con mang về, thả vào trong cố cung, đảm bảo người ta sẽ đua nhau kéo đến coi, lúc ấy chỉ việc ngồi chơi thu vé vào cửa cũng được vài vạn."

Tôi cũng góp lời: "Cậu đúng là không khá lên được, chưa gì đã nghĩ đến tiền. Nếu cậu bắt được rồng thật thì chính là Tôn đại thánh rồi, nhưng xưa nay tôi chưa thấy Tôn đại thánh nào có dáng người như cậu cả."

Bàn Tử nghe thế thì giận dữ mắng: "Béo thì đã làm sao? Bàn gia ta lên trời xuống biển đều nhờ vào thân hình mập mạp thần thánh này đây. Lay một cái phong vân đổi sắc, lắc một hồi núi chuyển đất rung..- Á!"

Bàn Tử còn chưa nói hết câu, chợt một trận gió lớn từ bên kia vách đá thổi tới. Gió mạnh suýt nữa đã xô hắn ngã xuống, may mà tôi nhanh tay tóm được, đẩy hắn áp sát vào vách đá. (vừa chém gió phát là gió từ đây thổi đến ào ào luôn =)))) Quay đầu lại thì thấy hóa ra mình đã đi hết khe hở, bậc thang đá đã đến điểm tận cùng. Lại vòng trở về, bên ngoài dường như là một không gian rất rộng nhưng vẫn tối đen một màu, chẳng nhìn rõ được gì.

Tới rồi! Trong lòng tôi trào lên một cơn kích động.

Mọi người không ai nói gì, che đầu dựa sát người vào vách núi. Nơi ấy có một mỏm đá nhô ra, chúng tôi đều leo lên đó. Hoa hòa thượng đi trước đốt một cây pháo lạnh, soi bốn vùng quanh, nhưng ngoại trừ vách đá chúng tôi đang đứng thì không chiếu được thứ gì ở đằng trước nữa.

Tiếp đó gã ném cây pháo lạnh xuống dưới vách đá, cây pháo rơi thẳng xuống, loáng cái đã chỉ còn một đốm sáng le lói, càng rơi càng nhỏ dần nhỏ dần, đến khi tiếp đất đã không thấy tăm hơi đâu nữa.

Chúng tôi không khỏi líu lưỡi, phía trước rốt cuộc là nơi nào? Sao lại giống một cái lòng chảo cực lớn bị vách núi bốn phía bao quanh thế này?

"Pháo sáng" Trần Bì A Tứ nói ngắn gọn.

"Đùng!" một tiếng, lập tức pháo sáng kéo thành một đường cong dài xuyên qua bóng tối trước mặt, tựa như một vệt sao băng. Bay được khoảng160, 170 mét nó mới bắt đầu rơi xuống, sau đó một quả cầu trắng lóa mắt chợt bùng lên, ánh sáng tức thì soi tỏ cả không gian tối đen trước mặt.

Tôi đang định giơ ống nhòm lên xem nhưng mới đưa tay lên nửa chừng đã ngây người. Trong khoảnh khắc ấy mọi thanh âm dường như câm lặng, thời gian dường như cũng ngưng đọng lại.

Dưới luồng ánh sáng trắng từ trên cao rọi xuống, một miệng núi lửa vĩ đại đường kính ít nhất 3 km hiện ra trước mắt chúng tôi. Những khối đá basalt xám cỡ bự hình thành nên một bồn địa thật lớn, giống như một cái bát bằng đá khổng lồ, so ra đoàn chúng tôi chỉ như những con kiến nhỏ bé đậu trên miệng bát, lạc lõng vô cùng.

"Không thể tưởng được cái khe kia lại dẫn vào trong lòng núi lửa." Tiếng người nào đó vang lên bên tai, nhưng tôi đã không thể nhận ra người này là ai nữa, trong đầu chỉ còn lại cảnh tượng hùng vĩ trước mắt.

Nếu như Cửu đầu xà bách hay cây Thanh đồng chỉ cho tôi cảm giác giống như kì tích thì cái miệng núi lửa hình lòng chảo ẩn trong lòng đất kia quả thực chính là thần tích.

Bên trong bồn địa được bao phủ bởi vô vàn cây cối đã chết, hiển nhiên miệng núi lửa này đã từng lộ ra ngoài không khí. Nơi này ban đầu vốn là một "rừng rậm trong lòng đất", về sau có thể là do núi lửa phun trào hoặc núi lửa đột nhiên hoạt động nên cây cối nơi này đều lưu hóa mà chết cả, đến giờ chỉ còn lại dấu vết của khu rừng vẫn đứng sừng sững giữa bồn địa này.

"Nhìn chỗ đó kìa!" Lại tiếp tục có người kêu lên mà tôi vẫn không nhận ra là ai. Tiếp đó là hai phát đạn tín hiệu bắn ra, bay về phía miệng núi lửa.

Dưới cường độ ánh sáng đã được gia tăng thêm, chúng tôi thấy một quần thể kiến trúc rộng lớn nằm sâu trong trung tâm rừng cây ngầm giữa bồn địa núi lửa. Quần thể kiến trúc này khuất sau một bức tường đá màu đen cực lớn, không sao nhìn rõ được toàn cảnh.

Chẳng lẽ kia chính là đích đến chuyến đi này của chúng tôi, lăng tẩm muôn đời của Vạn Nô hoàng đế? Địa cung của Vân Đỉnh thiên cung lại nằm trong miệng núi lửa sao?

Quần thể kiến trúc này có quy mô cực kì lớn, vượt xa tưởng tượng của tôi. Nếu bên dưới những kiến trúc này thực sự là địa cung thì có lẽ quy mô của nó có thể so sánh với lăng mộ Tần Thủy Hoàng.

Dựa theo cảnh tượng vẽ trong bức tranh dưới hải mộ, Vân Đỉnh thiên cung thực sự lẽ ra phải ở trên đầu chúng tôi. Về sau qua trận tuyết lở đó, linh cung phía trên nhiều khả năng đã bị đè sụp hoàn toàn, không biết trên đỉnh đầu chúng tôi rốt cuộc có bao nhiêu tầng tuyết đọng mới có thể lấp kín địa cung này?

Đạn tín hiệu bắn ra lại một lần nữa vụt tắt trong bóng tối, bóng đêm lại bao trùm lên tất cả, chỉ còn mấy ngọn đèn pin sắp hết điện trên tay chúng tôi là phát ra ánh sáng.

Ngoại trừ Thuận Tử, trên mặt những người còn lại đều mang một vẻ hưng phấn cuồng loạn. Trộm mộ thể hiện một loại dục vọng nguyên thủy bậc nhất của con người, đó là liều cả mạng sống mong phát tài. Loại kích thích này, e là ai cũng không thể cưỡng lại được.

Ước chừng phải mất mười phút, chúng tôi mới trở về trạng thái bình thường, ngay lập tức chuẩn bị leo xuống. Trần Bì A Tứ nói với Hoa hòa thượng: "Vứt lại những thứ vô dụng, chuẩn bị dây thừng, chúng ta trang bị gọn nhẹ xuất trận."

Hoa hòa thượng lập tức bắt tay vào làm. Chúng tôi chỉnh đốn lại trang bị, vứt lại hết những thứ vướng víu thiết trên mỏm đá này cho đỡ nặng kẻo mang theo lại sinh ra nguy hiểm không cần thiết.

Tiếp theo chúng tôi đều đeo mặt nạ phòng độc, sau đó xếp thành đội hình leo úi chuẩn, dùng dây thừng tử từ leo xuống theo vách núi.

Bên dưới là hàng loạt cây cối đã chết, không khí tràn ngập thứ mùi kì quái, dù đã đeo mặt nạ phòng độc vẫn không sao ngăn được hết. Mọi người leo xuống đến nơi thì chợt nghe Phan Tử nói: "Nơi này là cái hố tử vong, chúng ta phải nhanh chân lên, chần chừ lâu có thể thiếu dưỡng khí mà chết. Hồi tôi còn trong quân ngũ từng nghe nói những nơi thế này chim bay qua cũng không thoát."

Đó là do núi lửa hoạt động sinh ra chất khí chứa lưu huỳnh, độc tính cực mạnh, khó mà tưởng tượng nổi.

Hoa hòa thượng lại châm một cây pháo lạnh có cường độ ánh sáng lớn, chiếu sáng cảnh vật bốn phía. Chúng tôi nhìn quanh một vòng, thấy dưới chân là con đường lát đá phiến rộng cỡ hai xe đi vừa, gần như hướng thẳng về phía trước. Đây là thần đạo dẫn thẳng tới cửa chính của lăng mộ, từ chỗ này có thể thấy loáng thoáng một cái bóng màu đen thật lớn nơi cuối con đường.

Hoa hòa thượng hỏi Trần Bì A Tứ: "Chúng ta đi thế nào bây giờ?"

"Cứ theo thần đạo, tiến thẳng tới hoàng lăng rồi tính sau." Trần Bì A Tứ trả lời.

Chúng tôi đều không có kinh nghiệm đối phó với hoàng lăng, lúc này cũng không có cách nào khác, vì thế không nói lời thừa, nhất nhất theo sau, chậm chạp tiến thẳng vào.

Leo qua rất nhiều cây chết nằm vắt ngang thần đạo, chúng tôi nhanh chóng đến trước một cánh cửa đá. Tảng đá này rất cao, trông khá giống với miếu thờ trong mấy ngôi làng cổ. Đây là cánh cửa đá đầu tiên của hoàng lăng, gọi là Thiên môn. Qua cánh cửa này rồi, hai bên thần đạo sẽ xuất hiện rất nhiều tảng đá điêu khắc.

Khi đi qua cửa đá, Trần Bì A Tứ nói: "Lúc ra nhớ phải đi giật lùi, chớ có đi nhầm vào Đoạn đầu môn (cửa đoạt mạng).

Trong bút kí của ông nội tôi cũng lưu ý đến điều này: Cánh cửa đá đầu tiên này có nguồn gốc rất quỷ dị. Mặt trước cánh cửa này chính là nơi tàn sát đội ngũ khiêng quan tài và hộ tống linh cữu, sau khi hoàn thành lễ nhập liệm, những người này đi ra cửa sẽ phải chịu một nhát đao đoạt mạng, thế nên cánh cửa này cũng giống như Âm dương môn. Kẻ trộm mộ nếu vào theo thần đạo hoặc là tiến vào địa cung theo cánh cửa lớn đầu tiên thì đến khi trở ra nhất định phải đi giật lùi, bằng không sẽ rất phiền toái.

Đương nhiên cũng không nhiều thổ phu tử có cơ hội theo thần đạo tiến vào hoàng lăng, chúng tôi có thể coi là một trong số rất ít những kẻ may mắn đó. Xưa nay những kẻ có thể đào được hoàng lăng không phải quân phiệt thì cũng là kiêu hùng, bọn họ đương nhiên không sợ cái gọi là Đoạn đầu môn rồi.

Qua được Thiên môn, hai bên thần đạo cứ cách năm mét lại đặt một tượng người hoặc ngựa bằng đá trắng. Chúng tôi không phải dân khảo cổ, vả lại mấy thứ này cũng không mang theo được nên cứ một mạch tiến thẳng phía trước, chẳng thèm liếc mắt lấy một cái.

Đang đi, bỗng Bàn Tử đi trước tôi dừng lại. Tôi bám theo ngay sau lưng hắn, bị đụng một cái tóe lửa, ngã lăn ra đất.

Lần này thật sự bất ngờ, Bàn Tử bị tôi đụng phải cũng suýt nữa ngã bổ nhào. Tôi vội hỏi hắn làm sao thế?

Bàn Tử quay đầu nhìn lại, mặt tái đi, thì thào: "Hình như bên đường có người đang đứng."

Mấy người phía trước phát hiện chúng tôi dừng lại thì cũng vòng trở về, Phan Tử hỏi: "Có chuyện gì thế?"

Bàn Tử kể lại thứ hắn vừa nhìn thấy, mấy người kia đều có vẻ ngờ vực, Phan Tử nói: "Là tảng đá hình người thôi, chắc cậu nhìn lầm rồi."

Bàn Tử lắc đầu: "Nhoáng cái đã biến mất rồi, tôi còn chưa kịp phản ứng. Anh xem cả người tôi mướt mồ hôi lạnh, hẳn là không nhìn lầm."

"Có nhìn rõ không đấy?"

"Hình như là một phụ nữ, tôi cũng không dám chắc." Bàn Tử nói: "Nó chạy nhanh quá, tôi không nhìn rõ."

Chúng tôi cầm đèn pin chiếu vào mấy tảng đá hình người phía sau. Cứ cách năm mét lại có một tảng, vừa nãy loáng cái đã đi qua sáu bảy tảng, trong phạm vi đèn pin có thể chiếu đến không phát hiện người phụ nữ mà Bàn Tử nói, có lẽ là ở xa hơn.

Hoa Hòa Thượng hỏi: "Lão gia, mình có quay lại xem sao không? Nói không chừng chính là cô ả trong nhóm người kia ?"

Người Hoa hòa thượng nói đến chính là A Ninh, tôi thầm nhủ làm sao có thể. Bọn họ đi từ cửa chính Vân Đỉnh thiên cung, cho dù có vượt qua các tuyến biên phòng thành công thì bây giờ cũng đang mải miết đào đạo động trên đỉnh đầu, tuyệt không thể nhanh bằng chúng tôi được.

Bàn Tử cũng nói: "Chắc chắn không phải, nếu là ả đàn bà kia thì chắc chắn ông liếc mắt một cái là nhận ra."

Trần Bì A Tứ do dự một hồi rồi quay sang Hoa hòa thượng: "Ngươi hãy đi trước cùng mấy người khác." sau đó quay sang vỗ vai Thuận Tử: "Ngươi theo ta đi kiểm tra xem sao."

Chương 30: Môn điện

Thuận Tử nghe vậy thì ngẩn người, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Không chỉ có hắn, những người khác cũng ngây ra mất một lúc, không biết Trần Bì A Tứ tính sao.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi thậm chí còn nghĩ Trần Bì A Tứ muốn chia rẽ chúng tôi rồi giết Thuận Tử diệt khẩu, nhưng ngẫm lại thì thấy không đúng. Thứ nhất lão đã hơn chín mươi, muốn giết một quân nhân xuất ngũ tuổi tráng niên, cho dù đánh lén cũng chưa chắc thuận lợi. Thứ nữa, trên đường về chúng tôi vẫn phải dựa vào Thuận Tử, cho nên lão sẽ không vội mượn cơ hội này giết hắn diệt khẩu.

Tôi không hiểu hành động này của Trần Bì A Tứ cho lắm, vì thế vỗ Thuận Tử một cái ý bảo hắn đề phòng. Không biết Thuận Tử có nhận ra hay không, cũng liếc tôi một cái rồi đi theo Trần Bì A Tứ.

Chúng tôi lập tức quay đầu, men theo thần đạo tiếp tục tiến về phía trước. May mà trang bị trên người đã bỏ lại khá nhiều, bằng không vận động với cường độ này, chỉ e không ai có thể trụ nổi.

Thần đạo này dẫn tới tất cả sáu cánh cửa đá, đây chính là lục đạo luân hồi (*) trong Phật giáo của người Hán. Nhưng người Nữ Chân lại thờ phụng Tát Mãn, có thể thấy khắp nơi đều lưu lại dấu vết chứng tỏ công trình này là do người Hán thiết kế.

(*) Phật giáo quan niệm rằng các kiếp sống của chúng sinh luôn xoay vần trong 6 con đường Thiên (tiên), Atula (thần), Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ (quỷ đói), Súc sinh (loài vật), gọi là lục đạo luân hồi. Chúng sinh phàm tục sinh ra từ một trong sáu đạo, chết đi lại quay về với sáu đạo, tùy công quả tích trong kiếp trước mà chọn đạo chuyển thế cho kiếp sau, nhưng vĩnh viễn cũng không thoát khỏi vòng luân hồi này. Chỉ có một con đường duy nhất giúp chúng sinh thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó là tu hành và giác ngộ.

Tôi chạy như bay, đã bắt đầu có cảm giác chóng mặt, những chỗ da trần bắt đầu ngứa ngáy, có thể thấy không khí xung quanh thực sự có vấn đề.

Bất tri bất giác, quầng sáng của đèn pin đã chiếu tới những mái hiên mục nát và tường đổ màu đen. Chúng tôi nhanh chóng đi tới tế đàn ở cuối thần đạo; vượt qua tế đàn, đi hết sáu mươi bậc thang đổ nát là đến cửa chính hoàng lăng.

Trong quan niệm về mộ táng truyền thống, lăng và mộ thường được gộp làm một, thật ra lăng và mộ là hai loại hoàn toàn khác nhau. Lăng chính là công trình trên mặt đất dùng làm nơi thờ cúng và tiến hành nghi thức nhập liệm, còn mộ mới chính là địa cung dưới lòng đất.

Lăng và mộ cũng không nhất định phải ở cùng một chỗ, có rất nhiều lăng và mộ cách nhau cả vạn dặm. Ví dụ như lăng của Thành Cát Tư Hãn được đặt ở chính giữa thảo nguyên Ordos của Mông Cổ, nhưng quan tài trong lăng chỉ có cọng lông lạc đà chứa linh hồn của Thành Cát Tư Hãn, còn thi thể và đồ bồi táng của ổng được giấu nơi nào trong thảo nguyên thì không ai biết được.

Vân Đỉnh thiên cung này cũng dùng kết cấu ba tầng. Cung điện chúng tôi nhìn thấy trong bức tranh dưới hải mộ lần trước chỉ là linh cung mang tính tượng trưng, cùng với hoàng lăng ngầm và vương mộ sâu trong lòng đất, tạo thành ba nghìn thế giới, tượng trưng cho thân phận biến hóa thần nhân quỷ của Vạn Nô vương.

Phong cách kiến trúc của hoàng lăng rất giống cung điện thời Minh, lúc ở trên vách đá nhìn xuống đã thấy quy mô thật hùng vĩ, hoàng khí bức người. Do công trình sử dụng rất nhiều loại vật liệu đá màu đen này cho nên không những đồ sộ mà còn có vẻ thần bí quỷ dị. Nhưng khi tiến vào lăng cung thì cảm giác này biến mất, trước mắt đâu đâu cũng là cảnh tượng tàn phá tiêu điều, nếu không nhờ một số lâu điện lớn bằng miếu thờ còn đứng vững ở đó thì nhất định chúng tôi sẽ cảm thấy thất vọng.

Không khí trong này không lưu thông, cũng không có gió lớn hay ánh sáng mặt trời, kiến trúc trong này đáng ra phải được bảo tồn rất tốt mới đúng, làm sao lại tàn tạ thành cái dạng này?

Chúng tôi bước lên bậc thềm rộng thênh thang đủ cho mười cỗ xe ngựa phi vào cùng lúc, tiến vào cửa chính của hoàng lăng. Cánh cửa cực lớn dẫn vào lăng đã sớm sụp xuống, ván cửa đóng đầy đinh nằm ngang trên nền đất, chúng tôi bước qua cánh cửa mà cảm giác như nơi này chưa từng có người đặt chân đến.

Đi qua cửa chính là đến môn điện lăng cung. Trong thiên "hoàng lăng" của cuốn Táng thư thời cổ đại, hoàng lăng có bốn đạo long lâu vây quanh bảo điện, xe tiên chín đuôi dẫn đến hoàng tuyền, đây chính là điện thờ thứ nhất bên trong bốn đạo long lâu. Lúc này tôi đã cảm thấy miệng mũi bỏng rát khó chịu, bèn giục mấy người kia đi nhanh lên.

Môn điện rộng chừng hai sân bóng rổ, hai bên là xe ngựa bằng đồng nghênh giá. Ở bức tường phía sau, hai bên đặt hai pho tượng màu đen đã bám bụi. Mặt mũi pho tượng rất dữ tợn, mặt lạnh lùng mắt trợn ngược, có lẽ là đồ đằng Tát Mãn. Cây xà chống phía trên đã sập xuống, mái ngói rơi vỡ la liệt, cũng may nơi này không có mưa, bằng không đã sớm ngập rồi.

Chúng tôi không gặp thứ gì đặc biệt thu hút, đang định băng qua môn điện hướng vào trung tâm hoàng lăng. Mới đi được vài bước, không biết dẫm phải thứ gì mà Bàn Tử đột nhiên trượt chân, kêu "ối" một tiếng rồi ngã chổng vó. Sàn môn điện toàn là ngói vỡ, hắn ngã cú này đúng là dập mông luôn rồi

Tôi lập tức cảm thấy kì quái, mặt sàn thế này nếu vấp ngã còn hiểu được, làm sao có thể trượt ngã? Bản thân Bàn Tử cũng thấy lạ, vừa ôm mông, vừa quay về xem chỗ mình vừa giẫm chân lên.

Chỗ kia chỉ còn lại một vết trượt dài, thứ hắn giẫm phải đã mất tăm. Hắn lần theo dấu vết, lật mấy miếng ngói lên vẫn không thấy gì.

"Không lẽ cậu bị quỷ ngáng chân?" Phan Tử hỏi. Bàn Tử lắc lắc đầu, bỗng ngộ ra điều gì, bèn ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi dừng lại, còn mình thì ngồi xổm xuống, lật ngược một bên giày. Chúng tôi xúm đến xem, thì ra giữa đám đinh dưới đáy chiếc giày leo núi còn mắc kẹt một vỏ đạn.

Mọi người đều biến sắc. Phan Tử cầm lấy vỏ đạn, đưa lên ngửi nhưng nhận ra mình đang đeo mặt nạ phòng độc bèn dùng tay miết miết, nói: "Vẫn còn ấm. Con mẹ nó, mới từ nòng súng bắn ra chưa lâu."

"Có người đã tới đây trước chúng ta sao?" Tôi sửng sốt, chẳng lẽ đám người A Ninh lại thần thông quảng đại đến thế? Còn nhanh chân hơn cả chúng tôi?

Nhưng vì sao lại nổ súng trong này?

"Châm lửa lên, nhìn xung quanh xem còn có gì nữa?" Phan Tử nói.

Hoa hòa thượng lập tức đốt một cây pháo lạnh, ánh sáng được tăng cường. Chúng tôi xem xét chung quanh, bên trong môn điện là một đống hỗn loạn. Chúng tôi tản nhau ra, rất nhanh đã phát hiện một một chuỗi những lỗ đạn nối nhau chạy từ trên xuống dưới trên một cây cột trụ.

"Xem ra có thứ gì đó bò xuống theo cây cột này, sau đó bọn họ bắn đuổi theo nó từ trên xuống dưới."

Phan Tử bước tới, nhìn những lỗ đạn, sờ sờ một chút rồi lắc đầu nói: "Không phải, mà ngược lại mới đúng. Xem độ chếch của những lỗ đạn này đi, nòng súng phải hướng lên trên theo cây cột."

Bàn Tử chiếu đèn pin dọc theo mấy lỗ đạn, dần dần hướng lên trên, cuối cùng đã thấy một cái bóng màu đen treo lủng lẳng trên thanh xà ngang tít trên cao.

Xem tư thế của cái bóng kia thì hẳn là một người đã chết, có lẽ là một người trong đội của A Ninh bởi tôi nhìn thấy một khẩu súng trường K56 treo trên bả vai anh ta, cả người mềm oặt rũ xuống dưới.

Ai nấy đều hoảng hồn, không hiểu người này vì sao lại chết trên xà ngang. Chúng tôi chiếu đèn pin lên, thấy rõ mặt mũi người nọ. Người chết là đàn ông, trên mặt đeo mặt nạ phòng độc cỡ nhỏ (loại này rất hiện đại, vừa nhẹ mà lại vừa hiệu quả hơn so với loại chúng tôi đang dùng. Tôi cũng chỉ nghe nói là có loại mặt nạ phòng độc như vậy, không ngờ hôm nay có dịp nhìn thấy), từ gương mặt mà phán đoán thì anh ta có vẻ là người Slave, không hiểu vì sao lại chết. Đôi mắt anh ta trợn trừng, vì đeo mặt nạ nên tôi không thể nhìn thấy nét mặt.

Thi thể bị một sợi dây gì đó treo lên xà nhà, do khoảng cách khá xa nên không thể nhìn rõ đó có phải dây thừng hay không.

Mấy người định trèo lên xem thế nào thì Phan Tử ngăn lại. Cái chết của người thật kì quái, chắc chắn là có vấn đề. Lúc này Bàn Tử bỗng đập đập tôi, chỉ lên một đoạn xà ngang khác: "Các vị, không phải chỉ có một người."

Chúng tôi nhìn sang thì thấy trên mặt xà ngang còn có sáu, bảy khối thi thể nữa treo lơ lửng trên xà ngang, giống như quỷ thắt cổ vậy.

Những người này đều mặc trang phục leo núi giống nhau, trên người đều đeo súng trường K56 sản xuất trong nước. Trong lòng tôi không khỏi trào lên cảm giác quái lạ: súng trường K56 có lực sát thương rất mạnh, có thứ này trong tay, bánh tông cũng chịu không nổi mười phát. Vậy thứ gì đã giết chết bọn họ? Hơn nữa, cứ cho là chỗ này đã xảy ra một cuộc đọ súng thì tại sao mấy thi thể này lại đua nhau trèo lên xà ngang mà treo lủng lẳng như vậy?

Càng nghĩ càng thấy quái, nơi này đúng là không nên ở lâu. Tôi gọi mấy người kia, bảo nhanh chóng vượt qua môn điện, nơi này thực tà ma.

Nào ngờ vừa quay đầu đã không thấy Bàn Tử đâu, tôi rọi đèn pin một vòng xung quanh mới phát hiện Bàn Tử không biết từ lúc nào đã trèo lên pho tượng đặt bên cạnh để leo lên xà ngang.

"Anh làm cái quái gì vậy? Xuống mau!" Tôi vội gọi to. Trong tình thế này mà hắn vẫn còn tâm trí leo xà ngang, không biết đầu óc hắn phát triển có bình thường không nữa.

Bàn Tử không thèm đếm xỉa đến lời tôi, vẫn cứ mải miết leo, chỉ vài bước đã lên đến xà ngang rồi quay đầu xuống nói: "Sợ cái gì? Bàn gia đây cũng không phải trẻ lên ba, nếu thấy có gì nguy hiểm tôi khắc biết đường leo xuống." Nói rồi tiếp tục lần theo xà ngang leo đến bên khối thi thể gần hắn nhất.

Tôi bỗng chốc bừng tỉnh, hiểu ra Bàn Tử hẳn là muốn lấy khẩu súng trường K56 kia. Trong tay hắn không có súng, trên đường đi đã không được thoải mái, giờ nhìn thấy khẩu súng ngon lành thế kia hỏi sao không phấn khởi cho được. Tôi cũng quen với cái thói vô tổ chức, vô kỉ luật của hắn, giờ có cáu lên cũng không làm gì được.

Bàn Tử cẩn thận nhích từng bước, thân thể hắn rất nặng khiến tầng mái ngói trên trần môn điện chấn động theo từng bước chân, phát ra thứ âm thanh khiến người ta phải lo lắng, đồng thời kéo theo một đống gỗ vụn từ trên đầu rớt xuống như mưa. Chúng tôi theo phản xạ đều lui lại phía sau, sợ cả Bàn Tử giẫm sụp toàn bộ mái ngói trên đỉnh đầu.

Phan Tử tát tét một cái lên người, mắng: "Tổ sư, anh kiềm chế một chút cho tôi nhờ, đợi thêm lát nữa không chừng chúng tôi đều bị anh vạ lây."

Bàn Tử làm một động tác ý là "Thật có lỗi", rồi lại sải bước tiến lại gần khối thi thể. Việc đầu tiên hắn làm là lấy khẩu súng trường K56 trên cái xác, cầm vững rồi lập tức mở ra kiểm tra hộp đạn, sau đó từ trên cao ném xuống cho Phan Tử. Sau đó lại lấy hết đạn trên người cái xác, đeo lên người mình, cuối cùng mới nhìn đến cái xác.

Tôi thấy Bàn Tử cẩn thận gỡ cái mặt nạ phòng độc ra khỏi cái xác. Bên dưới mặt nạ lộ ra khuôn mặt của một người nước ngoài ở độ tuổi trung niên, ngũ quan vặn vẹo xanh lét, miệng há to lạ thường, dường như lúc chết còn đang kêu to. Hẳn là cái chết đã đến trong nháy mắt, cho nên biểu cảm khi chết của anh ta mới đọng lại rõ ràng đến thế.

Tôi thấy cái xác xanh lét mặt mày, vội vã kêu to: "Đừng chạm vào hắn, nhìn sắc mặt hắn chắc là chết vì trúng độc."

Bàn Tử gật đầu, đeo bao tay vào, sau đó nhìn sợi "dây thừng" treo khối thi thể. Những người này chắc chắn không tự treo mình lơ lửng trên này, những sợi dây thừng kia là sao? Chúng tôi đều háo hức muốn biết.

Nhưng Bàn Tử vừa nhìn thoáng qua, sắc mặt đã tràn đầy vẻ nghi hoặc.

Tôi hỏi: "Có phát hiện gì không?"

Bàn Tử nói: "Đây,... cái đệt... hình như là tóc..."

"Tóc á?" Tôi nghi hoặc hỏi lại.

Bàn Tử gật đầu, nói tiếp: "Lại còn dài ngoằng nữa, chẳng lẽ mấy người này đều là đàn bà?" Bàn Tử nâng thi thể lên một chút. "Không phải... Thứ này chui ra từ trong cổ hắn, không phải là tóc. Mẹ kiếp, chẳng lẽ là lông nách? Gã tây này cũng thật lợi hại, lông nách mà dài cỡ này."

Nói rồi hắn rút con dao găm, định cắt 'tóc' của người chết kia, thả cái xác xuống cho tôi xem. Nhưng hắn đã cắt đến hai nhát mà 'tóc' kia vẫn chưa thèm đứt, có vẻ rất chắc chắn. Bàn Tử lại lôi bật lửa ra, định đốt 'tóc'.

Tôi nghĩ bụng cái thi thể này có quái gì mà xem, liền gọi với lên: "Thôi lạy bố, con không có hứng ngắm thi thể. Bố mau mau xuống đây cho con nhờ, đừng táy máy nữa, nhỡ ra có độc lại phiền."

Bàn Tử nghĩ cũng chột dạ, cất cái bật lửa rồi trả lời: "Đợi chút nữa, tôi xuống ngay đây, xuống ngay đây." Nói rồi lại bò về phía một khối thi thể khác, xem ra hắn không định buông tha khẩu súng nào.

Tôi thấy mấy khối thi thể này cũng không có gì nguy hiểm nên không cản hắn nữa. Hắn vẫn làm như cũ, tới gần thi thể đầu tiên là lấy súng rồi ném xuống cho tôi, sau đó lấy hết băng đạn trên người nó. Đúng lúc đó, tôi tình cờ liếc qua cánh tay của thi thể kia, bỗng giật nảy cả mình.

Đầu óc căng ra, tôi bất chợt cảm thấy có gì không phải. Bàn Tử đang định gỡ mặt nạ phòng độc xuống, tôi vội kêu to: "Từ từ đã, người này hình như còn sống! Đừng gỡ mặt nạ ra!"

Bàn Tử "Hả?" một tiếng. "Thật à?" Nói rồi đưa tay thăm dò mạch đập của thi thể. Sắc mặt hắn biến đổi, luống cuống lôi bật lửa đốt một đoạn 'tóc' phía trên, thi thể lập tức rơi từ xà ngang xuống đất. Tôi và Hoa hòa thượng tiếp được, đặt anh ta nằm trên mặt đất. Hoa hòa thượng đeo bao tay, lật cổ anh ta ra xem, chỉ thấy thứ 'tóc' treo thi thể đúng là mọc ra từ lưng người này.

Hoa hòa thượng lật mí mắt anh ta, lắc lắc đầu: "Chưa chết, nhưng cũng hấp hối rồi. Đồng tử đã bắt đầu giãn nở."

Tôi thấy anh ta có vẻ là người Trung Quốc, quen miệng hỏi: "Có còn cứu được không?"

Hoa hòa thượng lắc đầu: "Chúng ta không việc gì phải cứu hắn, thứ nhất có cố lắm cũng chỉ giúp hắn cầm cự thêm ít phút, đến khi chết đi lại càng đau đớn, thứ hai mang hắn theo phiền phức lắm."

Tôi nói: "Hắn còn chưa chết mà, để hắn lại chỗ này thì không hay lắm?"

Hoa hòa thượng cười, lại lắc đầu, có lẽ là thấy tôi thật nực cười. Gã rút mã tấu trên lưng ra, kéo cổ người nọ lên. Tôi cảm thấy tình hình không ổn, vội níu chặt tay gã, nói: "Anh định làm gì?"

"Hắn đã trúng độc, lúc chết hẳn sẽ rất đau đớn, tôi định chích tí máu cho hắn ra đi thanh thản."

Tôi nghe vậy thì choáng váng, đây là thứ logic quái quỷ gì vậy? Vừa định lắc đầu nói không được thì 'thi thể' kia đột nhiên co giật, cánh tay 'thi thể' chộp mạnh vào tay Hoa Hòa Thượng, hai mắt mở bừng, người vẫn chưa hết run rẩy.

Hoa hòa thượng hoảng hồn, vội gạt tay hắn ra, lùi lại vài bước.

Người nọ nhìn tôi, lại nhìn sang Hoa Hòa Thượng, rõ ràng ý thức đã dần khôi phục. Đột nhiên anh ta gắng sức đứng dậy, kêu lên một tiếng thống khổ. Tôi không nghe rõ hắn đang kêu gì, vội đè hắn xuống, nhưng người này cực khỏe, tôi và Hoa hòa thượng đều bị anh ta gạt văng đi. Người nọ nằm vật ra trên mặt đất, không ngừng lăn lộn, kêu gào đến tê tâm liệt phế. Miệng càng lúc càng há to, to tới mức người bình thường tuyệt đối không thể làm được. Hơn nữa cổ cũng phình lên, dường như sắp nổ tung đến nơi, một thứ chất lỏng tanh hôi phun ra từ miệng.

Phan Tử không đành lòng đứng nhìn, bèn mở chốt an toàn, "đoàng" một tiếng, tiễn người nọ xuống suối vàng.

Tiếng súng nổ nằm ngoài dự đoán của tôi, lỗ tai tôi tức khắc tê rần, chỉ thấy Phan Tử nâng súng bắn thẳng vào tim anh ta. Máu từ thi thể tuôn ra như suối, thi thể vặn vẹo hai cái rồi ngừng lại, bất động.

"Vừa rồi hắn kêu gì thế?" Hoa hòa thượng đầm đìa mồ hôi, hỏi: "Có ai hiểu gì không?"

"Có vẻ là tiếng người Hẹ. Hắn nói hơi khó nghe nên tôi cũng không rõ lắm, nhưng hình như là kêu "trên lưng, trên lưng" thì phải." Diệp Thành nói.

(Người Hẹ: là những người Hán sống ở lưu vực sông Hoàng Hà từ thế kỉ thứ IV, hiện nay phân bố ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Nam, Đài Loan...)

"Trên lưng? Chẳng lẽ trên lưng hắn có thứ gì kì quặc?" Hoa hòa thượng lật ngược thi thể, định xé quần áo ra xem trên lưng rốt cuộc có thứ gì.

Tôi thấy đâu đâu cũng là máu, bắt đầu có cảm giác choáng váng, bèn quay mặt đi không nhìn, kêu Bàn Tử mau mau leo xuống.

Bàn Tử vẫn còn ngồi trên xà nhà nhìn xuống chúng tôi, lúc này đang châm thuốc hút. Thấy tôi gọi hắn bèn nói: "Đừng thúc giục, mẹ kiếp, cậu giống hệt bà già nhà tôi. Tôi thề có Mao chủ tịch chứng giám, hút hết điếu thuốc này tôi sẽ xuống."

Tôi thầm nghĩ anh đeo mặt nạ phòng độc thì hút thuốc thế quái nào được. Vừa liếc nhìn hắn, tôi lập tức đờ người, da đầu co giật, hét to một tiếng rồi ngã lăn ra đất.

Chỉ thấy phía sau bả vai Bàn Tử nổi lên một khuôn mặt trắng xa lạ, con mắt trợn trừng ngó xuống. Nhìn kĩ thì là một kẻ quái đản nào đó đang bám trên lưng Bàn Tử, mà Bàn Tử hình như không hề nhận ra.

Vài người bị tiếng kêu của tôi gây chú ý, cũng ngẩng đầu lên nhìn. Diệp Thành cũng hét lên một tiếng, không hẹn mà cùng lùi lại thật nhanh. Phan Tử phản xạ cực nhanh, "rắc" một tiếng đã lên đạn, nâng súng lên nhưng lại không nổ súng.

(Kể cũng lạ, không hiểu vì sao tôi chưa từng nghe nói có người dùng súng bắn bánh tông trong mộ. Không biết đây là quy tắc của các cụ ngày xưa, hay là nếu làm như vậy sẽ dẫn tới hậu quả nào đó mà chúng tôi không lường trước được. Sau này tôi có hỏi lại Hoa hòa thượng, gã nói nguyên nhân bề ngoài là rất nhiều thi thể có chất độc, nếu gặp phải bánh tông mốc, nổ một phát súng dịch từ thi thể sẽ bắn tung tóe ra ngoài; hơn nữa tiếng súng có thể trêu chọc đến những thứ phiền toái khác trong cổ mộ. Nhưng về thực tế tại sao lại như vậy, hắn cũng không rõ lắm.)

Bàn Tử đang suy nghĩ làm thế nào để nhét thuốc lá vào trong mặt nạ phòng độc, thoáng cái bị phản ứng của chúng tôi dọa cho hết hồn, không hiểu có chuyện gì. Thế nhưng khi nhìn hướng nòng súng của Phan Tử chĩa tới là ngay cạnh đầu mình, biết đích ngắm không phải là mình, hắn lập tức ý thức được chuyện gì đang xảy ra, liền quay đầu nhìn ra phía sau bả vai mình.

Vừa quay lại, mặt hắn đã đối diện với cái mặt kia. Bàn Tử suýt nữa ngất xỉu, điếu thuốc trên tay rớt xuống đất, toàn thân cứng đờ ra.

Kẻ đang bám trên lưng Bàn Tử kia quỷ khí dày đặc, trước đó vẫn nấp sau bả vai hắn, thấy hắn quay đầu lại vẫn không có phản ứng gì. Hai người cứ thế bốn mắt nhìn nhau đắm đuối.

Kẻ này từ chỗ nào chui ra? Đầu tôi muốn nổ tung, vừa rồi khi bước vào đây chúng tôi đều lấy đèn pin soi qua một lần, tuy cũng không xem xét quá cẩn thận nhưng một người lớn bằng chừng ấy, chắc chắn không thể nấp được. Nói cách khác là lúc chúng tôi bước vào, cái 'người' này không có trong đây, sao bây giờ hắn có thể đột ngột xuất hiện trên lưng Bàn Tử được?

Chẳng lẽ là người trong đoàn A Ninh gặp nạn trong này? Hay là...con mẹ nó, chính là oan hồn của những kẻ chết trong hoàng lăng này?

Tôi đã gặp nhiều chuyện cổ quái, nhưng đứng trong hoàng lăng âm u dưới lòng đất này, tóc tai tôi cũng dựng đứng lên cả, tự nhiên có cảm giác trên vai mình cũng có thứ gì đó bám vào, da gà da vịt nổi đầy người.

Bàn Tử tái mặt, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. Tuy nhiên hắn cũng không phải loại tầm thường, lúc này đã có phản ứng lại. Người vẫn không nhúc nhích nhưng tôi thấy tay hắn đang chầm chậm tạo dáng một khẩu súng lục, ý muốn ra hiệu cho Phan Tử nổ súng.

Phan Tử khoát tay ý bảo Bàn Tử nghiêng đầu qua một bên, còn mình thì đưa súng lên ngắm bắn. Đúng lúc này, Hoa hòa thượng lại giơ hai tay lên, nhỏ giọng nói: "Từ từ, nhìn kĩ lại đã, có khi là người sống."

"Cái thứ kia cũng được coi là người sống?' Phan Tử lại thì thào nói.

Hoa hòa thượng xua tay, bảo anh yên lặng, rồi tự tay rút đèn pin soi ra phía sau bả vai Bàn Tử. Đèn pin chiếu tới, người nọ bị ánh sáng chiếu vào, lập tức quay đầu về phía chúng tôi.

Tôi thấy một gương mặt không biết phải tả thế nào: Cả khuôn mặt lõm xuống, nơi lẽ ra là mũi thì chỉ có một cái hốc lớn. Hố mắt sâu dị thường, hai con mắt giống như hai cái đèn pha phản chiếu lại ánh đèn pin, nhìn đến cái miệng nữa...nhìn qua thì thấy có vẻ giống một con cú mèo.

Phan Tử lưỡng lự, hạ súng xuống nhìn về phía chúng tôi: "Con mẹ nó, thì ra là con cú?"

Bụng tôi thầm nhủ làm sao có thể chứ. Chất lượng không khí nơi này quá tệ, căn bàn không thể có sinh vật sống, cú cũng không sống nổi. Hơn nữa nếu đây là con cú thì cũng quá lớn rồi.

Thực ra chỉ nhìn mỗi khuôn mặt này thì đúng là rất giống con cú. Khi bay lượn cú không phát ra âm thanh, chẳng lẽ chuyện là thế này, nó lẳng lặng bay xuống từ trên mái ngói rồi đậu lên người Bàn Tử? Nhưng sao Bàn Tử lại không hề có cảm giác?

Trên mặt Bàn Tử mồ hôi đã tuôn như suối. Một tay vừa làm dấu bảo Phan Tử nổ súng, một tay đã bắt đầu rờ đến thắt lưng, định rút con dao găm ra. Có lẽ thấy chúng tôi không có phản ứng gì, hắn không nhịn được mà định ra tay trước. Tôi vội vàng khoát tay ra hiệu cho Bàn Tử đừng nhúc nhích, chưa hiểu rõ mọi chuyện thì tuyệt đối chớ có dùng bạo lực.

Bàn Tử nhe răng nhìn tôi, tỏ vẻ chống đối.

Không ngờ hắn vừa nhe răng, thứ trên lưng dường như đã bị kích thích. Trong nháy mắt cái mặt lõm kia bắt đầu vặn vẹo, ngửa đầu ra sau, miệng đột ngột mở lớn. Chết tiệt! Hai cái răng nanh chìa ra phải dài đến hai tấc, con kia chắc chắn không phải chim rồi. Hơn nữa cái miệng cứ mở mỗi lúc một lớn, nhanh chóng mở to tới mức con người không thể làm được.

Tôi thấy tình hình không ổn, Bàn Tử gặp nguy hiểm rồi! Phan Tử đè mạnh súng lên bả vai, ngắm bắn cái miệng kia, vừa định nổ súng thì 'vút' một tiếng, một cơn gió mạnh lướt qua mặt tôi, có thứ gì đó từ bên ngoài môn điện lướt vào, đập lên nòng súng của Phan Tử khiến nòng súng lệch đi, những viên đạn liên tiếp sượt qua tai Bàn Tử. Bàn Tử bị dọa cho hết hồn bèn chửi to: "Đệch, anh bắn đi đâu thế hả?"

Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy Trần Bì A Tứ và Thuận Tử vọt vào, Trần Bì A Tứ hét to với Phan Tử: "Buông súng!"

Phía trên, cái thứ quái dị nọ đang hướng về phía cổ Bàn Tử mà cắn một nhát. Bàn Tử đập mạnh đầu mình vào đầu con quái kia, đẩy nó ra, sau đó vặn người, huých mạnh cùi chỏ vào miệng thứ nọ, định hất văng nó ra. Nhưng cái thứ kia không biết làm thế nào mà cứ bám chặt lấy lưng hắn, giãy kiểu gì cũng không ra. Bàn Tử hét to: "Con mẹ nó! Ai lên đây giúp tôi mau"

Diệp Thành rút dao ra định trèo lên. Tôi vội hét to: "Không được! Xà nhà sập mất. Bàn Tử, anh nhảy xuống đây mau!"

Bàn Tử hình như không nghe thấy, cứ đứng trên đó kêu to: "Các người mất hết lương tâm rồi à, mau lên!"

Trần Bì A Tứ vung tay, một viên đạn sắt bắn vào chân Bàn Tử, Bàn Tử kêu 'Á!' một tiếng đau đớn, chân khuỵu xuống. Cái xà nhà cũng theo động tác này của hắn mà kêu 'răng rắc' một tiếng, nghiêng hẳn xuống. Bàn Tử lập tức mất thăng bằng, cả người té nhào xuống dưới.

Xà ngang cách mặt đất cũng khá cao, nếu nói ngã xuống không việc gì thì cũng không đúng. May mà bên dưới có treo một khối thi thể, lúc Bàn Tử ngã xuống đã cố níu lấy nó, lơ lửng trên không một chút rồi mới nặng nề ngã xuống đống ngói vụn trên mặt đất. Chúng tôi chạy nhanh lại xem xét, tới nơi thì ai nấy đều sửng sốt: cái thứ bám trên lưng Bàn Tử đã biến mất, không thấy đâu cả...

Tôi lập tức nhớ lại mấy vết đạn trên cây cột, chợt nhận ra có điều bất thường, bèn vung tay nói: "Thứ kia chưa rơi xuống, mau nhìn lên đỉnh đầu" Lời còn chưa dứt, trên đầu đã có một cái bóng xẹt qua nhanh như điện, vừa vặn thấy Thuận Tử ngã xuống lăn lộn, trên vai trái hắn đã có ba vệt máu.

Tôi lập tức nâng súng lên, nhưng khẩu K56 đúng là nặng hơn tôi tưởng, cầm không chắc tí nào, nâng hai lần mà họng súng vẫn không ngẩng lên được. Bàn Tử đứng lên, giật lấy khẩu súng trên tay tôi, lia một vòng lên đỉnh đầu theo cảm tính, khiến ngói lợp bên trên lộp bộp rơi xuống đất. Chúng tôi bật hết đèn pin lên chiếu sáng cho hắn, nhưng chờ cho khói súng tan hết, nhìn lên đỉnh đầu vẫn không thấy gì cả, không biết cái thứ vừa rồi đã nấp vào đâu.

"Chết tiệt, cái thứ kia rốt cuộc là gì?" Bàn Tử vẫn chưa hết sợ hãi.

"Anh còn hỏi à? Bị nó bám vào người mà vẫn chẳng biết gì, anh làm ăn cái kiểu gì đấy?" Phan Tử mắng to.

Bàn Tử nổi cáu, vừa định mắng trả thì người bỗng nhiên khựng lại. Chúng tôi quay lại thì thấy cái khuôn mặt chết tiệt kia không biết từ lúc nào đã ló ra từ phía sau vai Phan Tử, len lén nhìn chúng tôi, mà Phan Tử cũng không hề hay biết.

Chúng tôi lập tức lùi ra xa Phan Tử. Phan Tử thấy chúng tôi bỗng dưng phản ứng như vậy thì mặt cũng tái xanh, kêu lớn: "Các người sao thế?" Không đợi hắn quay đầu lại, cái thứ chết tiệt bám sau bả vai kia liền há to miệng, nháy mắt đã nhe nanh ra cắn.

Bàn Tử nâng súng lên bắn, "Đoàng" một tiếng, thứ kia đã bay mất nửa đầu, tức thì một thứ nước xanh lè văng tứ tung, vấy đầy lên người chúng tôi, trong không trung bốc lên thứ mùi cực kì khó ngửi.

Tôi thoáng nghĩ thế là ổn rồi, nhưng nghĩ lại thấy không ổn. Trong cái miệng cực lớn của con quái giờ chỉ còn nửa đầu kia, không ngờ lại mơ hồ xuất hiện một khuôn mặt!

"Chết tiệt!" Tôi nghe Thuận Tử ở bên cạnh nói nhỏ một tiếng. Có thứ gì lao vút về phía Phan Tử, đụng Phan Tử một cái rồi bay ra ngoài. Anh ngã xuống đất nhưng lập tức xoay người ngồi dậy, mã tấu đã nằm gọn tron tay từ lúc nào, kế đó xoay tay đâm về phía sau một cái.

Nhưng cái thứ bám sau lưng anh đã biến mất, ngồi sau chính là Thuận Tử, kẻ vừa xô ngã anh. Một đao của Phan Tử chém thẳng tới, may mà Thuận Tử phản ứng cực nhanh, chặn được đao này rồi bẻ quặt tay Phan Tử lại, đồng thời kêu lớn: "Vừa rồi ai nổ súng?"

Bàn Tử lập tức giơ tay: "Tôi!"

"Còn có tôi!" Phan Tử cũng giơ tay còn lại lên.

Không hiểu vì sao, đột nhiên trong mắt Thuận Tử lóe lên tia ngờ vực, vung tay nói: "Ai nổ súng thì ở lại, còn những người khác mau chạy! Cứ chạy thẳng phía trước, tuyệt đối không được ngoái đầu."

Tôi ngó quanh một lượt rồi đếm thầm, ầy, người trong nhóm tôi đều bị giữ lại, tôi phải làm sao đây? Đi theo Trần Bì A Tứ chẳng phải là chờ bị làm thịt sao? Thế nên cũng vội giơ tay: "Tôi... Tôi quên mất. Tôi cũng nổ súng!"

Đám người Diệp Thành cũng không biết phản ứng thế nào, ssúng lúc này, chúng tôi chợt nghe từ trên đỉnh môn điện truyền đến âm thanh mái ngói đang vỡ vụn, tựa hồ như có rất nhiều thứ quái gở đang bò trên nóc điện thờ, số lượng rất đông, khó mà tưởng tượng nổi. Mọi người đều hoảng sợ, không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

"Không kịp mất rồi, còn không nhanh lên!" Thuận Tử hét lớn.

Trần Bì A Tứ liếc chúng tôi một cái, vung tay ra hiệu với đám Hoa hòa thượng: "Đi!" Nói rồi, ba người bọn họ nhanh chóng chạy ra khỏi điện.

Lòng tôi trào dâng cảm giác kì quái, nhưng tình thế gấp gáp cũng không có thời gian mà suy nghĩ nhiều. Tiếng ngói vỡ trên đình đầu càng lúc càng dày đặc, Bàn Tử tháo băng đạn trên người mình ra, ném cho Phan Tử. Hai cây súng đều đã lên đạn, chúng tôi quây thành một vòng tròn, hỏi Thuận Tử: "Trên kia là thứ gì vậy? Chúng ta làm sao bây giờ?"

Thuận Tử hạ giọng nói: "Không biết!"

"Vậy ngươi bảo bọn họ chạy đi là có ý gì?" Phan Tử liếc mắt.

Thuận Tử nói: "Tôi chỉ muốn tách các cậu khỏi lão già kia. Đây không phải chủ ý của tôi, mà do chú Ba các người phân phó."

Chúng tôi nghe vậy thì tất cả đều quay lại nhìn hắn, thầm nghĩ cái gì? Là chú Ba tôi phân phó sao? Phan Tử hỏi lại: "Vậy anh là ai?"

"Đừng hỏi nhiều thế." Thuận Tử trả lời. "Bây giờ tôi dẫn các cậu đi gặp ông Ba, đến lúc đó các cậu tự hỏi ông ấy."

Tôi căng thẳng toàn thân, vừa định hỏi: Chú Ba tôi cũng đang ở trong hoàng lăng này ư? Thì đột nhiên trên đỉnh đầu phát ra những âm thanh đổ vỡ liên miên, mái ngói rơi xuống như mưa. Chúng tôi lấy tay ôm đầu, ngước nhìn lên trên, chỉ thấy trong quầng sáng từ đèn pin có vô số những cái bóng đang di chuyển, dường như đều cùng một loại với con quái vừa rồi.

Thuận Tử vung tay nói: "Tiếng súng vừa rồi của các anh đã đánh thức những thứ sống trong rừng rậm kia, giờ chúng đang bủa vây nơi này đấy."

"Tại sao chúng ta không chạy?" Phan Tử lo lắng hỏi. Xung quanh đã dày đặc những âm thanh di chuyển tới mức không thể ước tính được số lượng, "Ở trong này không phải là chờ chết sao?"

"Chờ bọn họ đi xa một chút đã." Thuận Tử nhìn về phía sau. Thấy Trần Bì A Tứ có lẽ đã chạy xa, hắn bèn quay đầu lại nói: "Đi thôi!" Nói rồi vỗ vai chúng tôi, chạy trước dẫn đường về phía cửa vào tiền điện, chúng tôi bám sát theo sau hắn.

Đứng bên ngoài môn điện có thể nhìn thấy diễn sinh điện nằm trên thần đạo. Phía trước xuất hiện một một cây cầu bằng đá cẩm thạch dài hai mươi nhịp, trên cầu treo hai con Bàn long không biết làm bằng chất liệu gì, quấn quanh lan can hai bên. Chất đá cẩm thạch rất đẹp, không có lấy một khe nứt, giống như cả cây cầu là một khối điêu khắc hoàn chỉnh. Dưới cây cầu chính là con sông đào bao quanh bảo vệ hoàng lăng bên trong, bên dưới không rõ có nước hay không.

Chúng tôi mới chạy được vài bước thì đằng sau bỗng có tiếng gió nổi lên. Cả đám vội vã thụp người xuống lăn một vòng, Bàn Tử xoay tay lia một băng đạn không cần nhắm bắn. Trong bóng đêm nghe được một tiếng kêu rất nhỏ, không biết đã bắn trúng thứ gì, chỉ thấy có thứ gì đó hình tròn rớt xuống vực sâu bên dưới cây cầu.

Trong bóng tối vang lên những tiếng xao động, tôi mơ hồ cảm giác thứ này có thể bay nhưng đèn pin quét qua lại không nhìn thấy gì cả.

Chúng tôi đứng lên tiếp tục chạy về phía trước. Trên đỉnh đầu cứ lao xao từng trận, tựa như có thứ gì kề sát đầu chúng tôi mà lượn vòng. Bàn Tử lại chĩa nòng súng lên trời, vừa chạy vừa bắn, rất nhanh chúng tôi đã chạy lên cầu. Đột nhiên tôi cảm thấy lưng mình có thứ gì bám vào, thoáng cái đã ngã lăn xuống. Tôi xoay người đứng lên, còn chưa kịp làm gì thì Bàn Tử đã giơ báng súng lên đập mạnh vào thứ gì đó bên tai tôi, hình như có thứ gì đó từ trên lưng tôi ngã văng ra ngoài.

Nhìn xuống chỉ thấy một cái bóng màu đen đang giãy giụa, chuẩn bị đứng lên. Phan Tử nâng súng bắn một phát cắt đôi người nó, Bàn Tử lại chĩa súng lên trời lia một loạt đạn. Tia lửa từ viên đạn lóe lên, tôi thấy được hằng hà sa số những cái bóng đang lượn vòng trên đầu chúng tôi.

"Thứ này rốt cuộc là gì?" Tôi líu lưỡi hỏi.

"Nhiều quá, không giết hết được. Chúng ta làm gì đây?" Phan Tử hét lớn hỏi Thuận Tử: "Ông Ba rốt cuộc ở đâu? Chúng ta làm sao tới đó?"

Trước mặt chính là điện thờ thứ hai trong bốn đạo long lâu, vào trong đó khó tránh khỏi trạm mặt Trần Bì A Tứ. Nói thật ở cùng với bọn họ, tôi bị áp lực tâm lý rất lớn, hơn nữa bây giờ đã biết tung tích của chú Ba, tôi chỉ hận không thể lập tức tìm được chú ấy, hỏi chú ấy xem rốt cuộc tất cả những chuyện này thực ra là vì cái gì.

"Ông Ba của các cậu chắc là đang ở dưới huyền cung ngầm rồi." Thuận Tử nói.

"Địa cung?" Bàn Tử lại đập một phát báng súng, cũng không biết vừa đập cái gì. "Tốt quá, mẹ nó thế là đỡ rách việc rồi. Cửa vào địa cung ở đâu thế?"

Thuận Tử nói: "Tôi không biết."

Chúng tôi lập tức ngây người nhìn Thuận Tử. Xem nét mặt của hắn thì cũng hiểu hắn không nói đùa, Bàn Tử liền mắng: "Anh không biết? Anh nói dẫn chúng tôi đi gặp ổng, mà cái hoàng lăng này to tổ bố, chúng tôi tìm thế quái nào được?"

Nói vậy thì cửa vào chính thức của địa cung chính là theo thần đạo tiến vào đạo long lâu thứ ba – tức bên trong Thiên điện, tất nhiên bên dưới đỉnh đồng có hơn bảy mươi lớp gạch xanh gia cố thêm nước thép pha chì đang chờ chúng tôi, có huy động một một đoàn công binh hiện đại đào dăm bữa nửa tháng cũng không xong. Nhưng địa cung chắc chắn phải có cửa vào bí mật, hơn nữa phải ở ngay bên trong kiến trúc hoàng lăng, nằm trên trục đối xứng ở chính giữa. Cửa vào địa cung của lăng Từ Hy thái hậu nằm trong ảnh bích của lăng cung, nhưng tình hình bây giờ lấy đâu ra thời gian mà đào động.

(Anh bích: Bức tường xây không có tác dụng bảo vệ mà dùng để trang trí ở cổng, thường được trang trí đẹp mắt hoặc khắc phù điêu)

Thuận Tử vô cùng bình tĩnh, cúi người quay về phía tôi nói: "Chú Ba cậu nói, nơi này là 'Huyền Vũ cự thi'. Ông ấy bảo chỉ cần tôi nói với cậu lời này, cậu sẽ tự hiểu ra là ở chỗ nào. Cậu nhớ lại xem có ấn tượng gì không?"

Tôi nghe hắn nói, cảm thấy vô cùng nghi hoặc. 'Huyền Vũ cự thi' là một cách nói vui, cũng chính là lý thuyết trong phong thủy, chỉ những nơi có phong thủy kém nhất trên trần đời. Nơi này cũng giống như bảo huyệt cực phẩm 'Cửu Long bàn hoa', chỉ có trong lý thuyết, trên thực tế vốn không tồn tại. Tôi hỏi: "Chú ấy nói vậy thật sao? Còn nói thêm gì không?"

Trong Táng thư có nói: "Đất có bốn phương, trời có tám hướng. Cho nên lấy Thanh Long đặt bên trái, Bạch Hổ đặt bên phải, phía trước là Chu Tước, đằng sau là Huyền Vũ. Huyền Vũ cúi đầu, Chu Tước bay lượn, Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ nằm phục. Các hình thế này mà đảo ngược lại, mọi quy tắc đều bị phá vỡ, thì hổ không nằm thi thể bị ngậm, rồng không lượn ghen ghét chủ nhà, Huyền Vũ không cúi xác chết sống lại, Chu Tước không bay người thân ly tán...."

Thuận Tử cúi đầu nhìn xung quanh, gấp rút nói: "Chỉ có vậy thôi, lúc ấy chú Ba cậu hình như đang trốn tránh ai đó, thế nên rất vội. Chú Ba cậu đã sắp xếp tôi ở trong thôn để giúp đỡ các cậu, đưa các cậu vào trong núi, sau đó thì đem mấy lời này nói lại với các cậu."

Tôi nghe thế, chợt bình tĩnh lại, trong lòng cười thầm. Nếu nơi này đúng là 'Huyền Vũ cự thi', vậy ai chôn cất trong này con cháu sẽ chết sạch, vợ đi vụng trộm, có xảy ra chuyện gì cũng không lạ thường. Uông Tàng Hải có thù hận thâm sâu đến vậy với Vạn Nô hoàng đế sao?

Mà theo lời Trần Bì A Tứ, phong thủy nơi này hẳn là cực tốt mới đúng. Sao lại là 'Huyền Vũ cự thi' cho được?

Tôi lập tức hối hận vì ngày trước không nghiên cứu cẩn thận mấy thứ này. Nếu dọc đường tới đây có thể quan sát và vận dụng vốn hiểu biết một chút, có lẽ bây giờ đã lĩnh ngộ được điều gì.

Bàn Tử cũng hiểu sơ sơ về mấy thứ này, thậm chí có mặt còn biết nhiều hơn tôi. Lúc này hắn cũng có vẻ ngờ vực, kêu lên: "Nói láo! Không thể nào, huyền cung của hoàng lăng sao có thể là thế 'Huyền Vũ cự thi' được?"

Phan Tử bên cạnh lại xả một tràng đạn, đuổi mấy con quái ra xa, rồi quay đầu lại nói: "Cũng không phải là không thể. Phong thủy chỉ dùng cho con người, mà cậu không nghe Hoa hòa thượng kia nói sao? Kẻ được mai táng trong hoàng lăng này không phải là người nha, không chừng có liên quan đến cái kết cấu kì quặc này."

Tôi biết Phan Tử toàn nói lung tung. Với thực lực của một nước nhỏ như Đông Hạ, xây dựng một công trình lớn thế này hẳn đã phải dốc toàn bộ tài nguyên và nhân lực. Có thể khởi công một công trình lớn đến thế, chỉ có thể là một người, đó là Vạn Nô vương. Hơn nữa tôi không tin những thế hệ Vạn Nô vương về cuối còn có uy tín lớn đến thế, xây dựng hoàng lăng này tất nhiên cũng có pha trộn vài phần tôn giáo. Vào thời kì đó, rất có thể Vạn Nô vương chính là hình tượng tôn giáo hợp thể giữa người và thần.

Trên con cá đồng có nói Vạn Nô vương các triều đại đều là yêu nghiệt chui ra từ lòng đất. Tôi cho rằng không thể giải thích trắng ra như thế được, hẳn thông tin trên con cá đồng còn ẩn giấu điều gì khác. Nhưng cụ thể nó ám chỉ cái gì, có lẽ phải giải mã cả hai con cá trên tay tôi mới hiểu hết được.

Thế nhưng Bàn Tử lại không chịu thua, nghe Phan Tử nói thế thì bực tức đáp trả: "Con mẹ nó, anh không biết thì đừng có tinh tướng. Không phải người chẳng lẽ lại là chó? Không cần biết trong lăng mộ chôn cất thứ gì, dựa theo thuyết phong thủy đều không thể chọn 'bại huyệt' được. Anh tưởng trong quan tài là yêu quái nên chôn cất nó sẽ ngược với phong thủy của người sao? Không có chuyện đó đâu! Hơn nữa anh xem quy mô nơi này đi, ít nhất cũng phải tầm cỡ thành bang, cớ gì lại xây dựng cái lăng tẩm lớn bằng chừng này cho một con yêu quái chứ?"

Kiến thức nhà nghề của Phan Tử không phong phú bằng Bàn Tử, lập tức nghẹn lời, không biết phải phản bác ra sao.

Thuận Tử nhìn chúng tôi nói: "Các vị, tôi không hiểu mấy người nói gì. Đừng có lan man nữa, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Ai hiểu thì nói nhanh lên."

Bàn Tử nói: "Cái này không đơn giản, anh đã xem qua Táng kinh chưa? Anh có biết cái gì gọi là 'đất có bốn phương, trời có tám hướng. Cho nên lấy Thanh Long đặt bên trái, Bạch Hổ đặt bên phải, phía trước là Chu Tước, đằng sau là Huyền Vũ.' Không? Huyền Vũ ám chỉ phía sau, cự thi chính là cự tuyệt thi thể, cự tuyệt ý là không có thi thể, ghép lại chính là phía sau không có thi thể. Chẳng phải đã rõ rồi sao? Thi thể ở phía trước!"

Tôi nghe hắn nói thế thì chửi thầm trong bụng, những lời này có ý như vậy sao? Quách Phác (tác giả của Táng kinh) mà nghe được, còn không bật nắp quan tài leo ra bóp chết anh.

Thuận Tử không hiểu gì về mấy thứ này nên cũng tin là thật, nói: "Phạm vi như thế cũng quá rộng, nếu nói phía trước thì là phía trước của cái gì? Chỉ bằng câu này cũng không tìm nổi cửa vào."

Tôi bảo hắn đừng có mà nghe Bàn Tử nói bậy bạ, Táng kinh làm gì có cách giải thích nào như vậy, rồi lại hỏi hắn: "Chú Ba không nói thẳng ra vị trí cửa vào huyền cung chắc chắn là vì có nói thẳng ra thì anh cũng không thể truyền đạt được. Vậy không thể đơn thuần lí giải từng chữ trong lời nói của chú ấy, đoán theo hướng của Bàn Tử là vô dụng."

Bàn Tử không phục, cự lại: "Thế cậu thì có cao kiến gì?"

Tôi lắc đầu, ý nói tạm thời cũng chưa có manh mối, cần nghĩ lại thật kĩ. Chú Ba tinh thông mật văn, mật mã cổ đại, lời nói kia hẳn cũng dùng đến những kiến thức này. Hơn nữa nếu ổng cho rằng tôi có thể hiểu được thì chắc chắn phải có lí do riêng của ổng, nhưng hiện giờ rõ ràng không phải lúc để suy xét cái này.

Trong khi nói chuyện, chúng tôi đã lùi đến cuối cây cầu đá. Nếu đi tiếp sẽ đến quảng trường phía trước hoàng lăng, trong bóng đêm có thể nhìn thấy phía cuối cầu đá dựng thẳng hai tấm bia đá song song, mỗi khối phải cao đến mười mét, một khối đã bị chặt đôi, dưới chân bia đá là một con bị hí (1) cỡ bự màu đen. Đằng sau tấm bia đá, cách đó không xa là một cái bóng đen khổng lồ cao ngất.

Tôi biết nơi này là "Hoàng lăng giới bi", phía sau tấm bia đá hẳn là thông đến thềm Trường Sinh của điện Vãng Sinh, cũng chính là thông tới cửa lớn của cõi u minh. 'Hoàng lăng giới bi' có thể nói chính là ranh giới giữa âm phủ và dương gian. Vùng đất phía sau 'Hoàng lăng giới bi' đến người giữ lăng cũng không thể tiến vào. Mấy trăm năm trước, vào thời khắc hoàng lăng bị phong bế, sẽ không còn ai có thể đặt chân lên vùng đất phía bên kia giới bi nữa.

Vừa nhìn thấy tấm bia đá kia, tôi đột nhiên có một linh cảm cực kì xấu, tựa như trong cái bóng đen khổng lồ phía trước, trong một góc nội thành của cái hoàng lăng im ắng đến rợn người này, có thứ gì đó đang chờ đợi chúng tôi.

Đúng lúc đó, Bàn Tử đang chạy phía trước đột nhiên dừng lại, giang hai tay ra, ngăn chúng tôi lại phía sau. Tôi bước lên xem thì thấy hóa ra đoạn cuối cầu đá đã sụp xuống. Giữa cầu đá và 'hoàng lăng giới bi' xuất hiện một vực sâu rộng chừng ba mét, chiếu đèn pin xuống chỉ thấy một màu đen thăm thẳm, hình như có nước bên dưới nhưng không biết nông sâu thế nào.

'Làm sao bây giờ?" Tôi nhìn Phan Tử. Phan Tử không thèm suy nghĩ, nhấc súng lên nói: "Còn làm sao nữa? Nhảy sang đó, mau lên."

Tôi nhìn khoảng cách này, vô thức nuốt nước miếng. Những vận động viên nhảy xa ở thế vận hội Olympic cũng chỉ nhảy được xấp xỉ tám mét thôi, so ra thì hơn ba mét không tính là xa, nhưng với cái thằng quanh năm lười vận động như tôi, muốn ung dung nhảy qua cũng là rất khó.

Lúc này Bàn Tử đã thao súng giao cho Thuận Tử, sau đó lùi lại vài bước, chạy lấy đà một đoạn rồi bật mạnh một cái, bay qua không trung sang bờ bên kia rồi lăn người ngã lên nền đá phía đối diện. (Bạn béo trông to xác vậy mà thân thủ cũng không đến nỗi nào nhỉ...) Thuận Tử ném khẩu súng trả lại cho hắn, sau đó cũng ném trang bị trên người chúng tôi sang bờ bên kia. Tiếp đó, Thuận Tử cũng nhảy qua, Phan Tử muốn bọc hậu, bảo tôi nhảy trước. Tôi nhìn vực sâu trước mặt, trong lòng thầm nhủ 'cùng lắm thì chết', bèn hét to một tiếng 'đỡ lấy tôi' với Bàn Tử phía đối diện.

Bàn Tử luôn mồm đáp ứng, tôi lùi lại vài bước, giữ bình tĩnh rồi tăng tốc lấy đà. Nhưng thật xui xẻo, đúng lúc tôi sắp nhảy thì Phan Tử ở phía sau bỗng nhiên hét to: "Khoan ———–!"

Lúc này tôi đã không thể dừng lại được nữa, lập tức bật cao người lên nhảy sang bờ bên kia, còn vô thức quay đầu lại nhìn Phan Tử thắc mắc sao lại bảo tôi dừng lại.

Vừa mới quay đầu, tôi đã thấy một bóng đen cực lớn lao xuống từ phía bên trái, quặp lấy cổ tôi nhanh như chớp, móng vuốt đâm sâu vào quần áo, định tha tôi đi. Đang ở giữa không trung nên tôi không thể kiểm soát được tư thế, ngay sau đó móng vuốt liền buông lỏng, tôi chới với ngã nhào, người cứ thế rơi thẳng xuống vực sâu.

Trong nháy mắt, đầu tôi trở nên trống rỗng, cũng không biết phải làm gì mới đúng. Cảnh vật trước mắt trôi qua giống như một thước phim quay chậm, tôi thấy Bàn Tử đang nhào về phía mình, nhảy chồm lên định giữ tôi lại, nhưng tay hắn chỉ sượt qua cổ áo. Tiếp đó Phan Tử giơ súng lên, bắn "đoàng đoàng đoàng" ba phát lên phía đỉnh đầu. Viên đạn rít gió bay qua, sau đó thân thể tôi chìm vào bóng tối, ánh đèn pin của bọn họ trong nháy mắt đã biến mất hoàn toàn.

Quá trình rơi xuống thực ra rất nhanh, tôi xoay mấy vòng trên không trung, trong đầu liên tiếp nảy ra vô vàn ý niệm. Bên dưới là gì? Bên dưới là sông đào quanh thành. Bình thường sông này nông sâu thế nào? Có nước hay không? Tôi sẽ ngã chết hay là tan ra thành một đống xương trắng trong dòng sông lưu hóa này?

Còn chưa kịp tìm ra đáp án cho những câu hỏi này, lưng tôi đã đụng vào thứ gì đó giống như xích sắt, cả người thiếu chút nữa đã gãy làm đôi. Tôi đau đến hoa mắt, tiếp theo người xoay một vòng quanh sợi xích, tiếp tục rơi xuống, chưa kịp hoàn hồn đã đụng vào một sợi xích sắt khác. Mấy cú va chạm sau đều không mạnh vì đã được cú đầu tiên giảm xóc, tôi đưa tay muốn bám lấy một sợi xích nhưng lại với vào khoảng không, tiếp tục rơi xuống.

Những cú va chạm liên tiếp này làm đầu óc tôi choáng váng, không thể làm tư thế cuộn mình lại khi rơi xuống. Tiếp theo tôi đập người xuống mặt đất, bên tai còn nghe rõ tiếng xương cốt mình kêu lên răng rắc. Sau đó lỗ tai tôi ong ong lên, không còn nghe được âm thanh gì nữa.

(1) Bị hí: một loại động vật trong thần thoại, giống rùa. Thời xưa các bệ đá thường do con này đội.

Chương 31: Sông đào quanh thành

Rơi xuống đất được vài phút, tôi chìm vào cơn hôn mê, đầu óc không thể nhận biết đã xảy ra chuyện gì, cũng không rõ mình còn sống hay đã chết. Sau đó một thứ chất lỏng cay nồng từ yết hầu phun ra, chảy ngược vào khí quản khiến tôi ho khù khụ, máu từ lỗ mũi tuôn ra như suối, chảy xuống tận cằm.

Ước chừng phải mất thời gian tàn nửa điếu thuốc, tôi mới dần dần tỉnh lại, tri giác lần lượt quay về với cơ thể. Tôi run rẩy ngồi dậy, xung quanh tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả. Sờ lên mặt đất chỉ thấy đá tảng và cát khô, dưới đáy con sông đào này thì ra đã cạn nước, cũng may mấy tảng đá dưới đây khá bằng phẳng, gồ ghề thêm tí nữa thì tôi không ngã chết cũng dập người mà chết.

Mặt nạ phòng độc gần như đã nứt ra, mắt kính vỡ nát. Tôi sờ sờ một chút, phát hiện mặt nạ đã móp méo, lại sờ ra đằng trước, phát hiện trước mặt mình là một tảng đá rất sắc nhọn. May nhờ mặt nạ này bảo vệ, mặt tôi mới không bị cày nát, có điều lần này mặt nạ coi như vứt đi rồi.

Tôi vất vả giật cái móc sau đầu, cẩn thận cởi mặt nạ ra. Mới cầm lên tay mà mặt nạ đã nứt ra làm bốn mảnh, thế là hỏng hoàn toàn rồi.

Không còn mặt nạ, mùi lưu huỳnh trong không khí càng trở nên nồng nặc, nhưng hít vào mấy hơi cũng không quá khó chịu, xem ra Phan Tử nói khí độc nơi này rất ghê gớm cũng không đúng lắm. Hoặc cũng có thể dưới đáy con sông đào này, không khí vẫn chưa nhiễm độc quá nặng. Tôi chửi thầm trong bụng, ném mặt nạ xuống đất, nhổ máu trong miệng ra rồi ngẩng đầu nhìn lên.

Con sông đào này sâu dễ đến mười thước, bên trên là một khoảng mịt mờ, chỉ thấy ánh đèn pin của đám Bàn Tử từ trên cao chiếu xuống, lia khắp xung quanh, hình như đang tìm kiếm tôi. Tôi còn nghe một vài tiếng kêu, nhưng không biết có phải vì ngã xuống đây hay không mà tai vẫn còn ong ong, không nghe ra bọn họ đang nói gì.

Tôi thử ra sức kêu lên vài tiếng, nhưng vừa vận khí, cơn đau đến tê liệt đã lan từ lồng ngực ra xung quanh, âm thanh phát ra lập tức biến thành tiếng rên rỉ. Đến chính tôi cũng không hiểu mình đang nói gì, thậm chí còn không biết mình rốt cuộc có phát ra âm thanh hay không.

Để báo cho đám người Bàn Tử biết mình còn sống, tôi nhặt cái mặt nạ phòng độc vứt lăn lóc dưới đất lên, ra sức đập mạnh xuống mặt đất, phát ra âm thanh ' bịch bịch bịch'. Âm thanh không lớn nhưng vang lên dưới lòng sông yên ắng lại dội ngược trở về, nghe cực kì rõ ràng.

Gõ được một lát thì đột nhiên có cây pháo lạnh từ trên ném xuống, rơi ngay sát sườn. Tôi chửi một tiếng, nghiêng người né tránh, sau đó nhìn thấy phía trên có một mặt người ló ra khỏi đoạn cầu gãy thăm dò, xem kích cỡ cái đầu thì có vẻ là Bàn Tử.

Tôi bò đến gần cây pháo lạnh, nhặt nó lên lên khua khua trước mặt hắn. Bàn Tử lập tức trông thấy, bèn hét to một tiếng. Nhưng tôi vẫn chẳng nghe ra hắn nói gì, đành phát ra vài âm thanh vô nghĩa. Bàn Tử rụt đầu trở về, lát sau đã có sợi dây thừng được ném ra, đung đưa buông xuống tận đáy sông, Bàn Tử lưng đeo súng trường bắt đầu leo xuống.

Độ cao hơn mười thước ngang ngang tòa nhà bốn, năm tầng, bảo cao không cao, bảo thấp cũng chẳng phải thấp. Bàn Tử thoáng cái đã trượt xuống tới đáy, vừa buông dây thừng đã nâng súng xoay bốn phía, thấy không có động tĩnh gì mới chạy tới chỗ tôi, ngồi xổm xuống hỏi: "Mẹ kiếp, cậu không sao chứ?"

Tôi dùng giọng khàn khàn, uể oải nói: "Không sao hả? Anh thử ngã một lần xem?"

Bàn Tử thấy tôi vẫn còn sức để nói đùa thì thở phảo nhẹ nhõm, quay mặt lên trên huýt gió một tiếng, tức thì Thuận Tử và Phan Tử lưng đeo trang bị cũng leo xuống.

Bọn họ nâng tôi dậy, đầu tiên dìu tôi đến dựa vào một tảng đá, sau đó Thuận Tử đè chặt tôi, lấy túi thuốc, kiểm tra thân thể tôi một lượt.

Tôi nhìn thấy túi thuốc, trong lòng cũng an tâm đôi chút, thầm nghĩ may mà chuẩn bị đầy đủ. Phan Tử kiểm tra thấy tôi không bị gãy xương, bèn lấy ra một ít băng vài, giúp tôi băng bó miệng vết thương khá lớn, sau đó mắng: "Bảo cậu dừng mà cậu vẫn cố nhảy. May mà mạng cậu lớn, bằng không lỡ cậu chết thì tôi biết ăn nói thế nào với ông Ba đây?"

Tôi nghe vậy thì giận dữ mắng: "Anh còn nói à? Lúc ấy tôi đã lơ lửng giữa không trung anh mới kêu dừng lại. Bà nội nó chứ đây có phải cái băng ghi hình đâu mà đòi tua ngược lại được......." còn chưa nói xong thì ngực đã nhói một trận, người đau đến vặn vẹo cả lên.

Phan Tử thấy thế lại càng hoảng sợ, luống cuống đè tôi lại, khiến tôi không thể nhúc nhích. Tôi nghiến răng nghiến lợi, còn muốn mắng anh thêm vài câu nhưng thực sự là đau muốn chết, muốn mở miệng cũng không nổi, chỉ đành ngồi yên thở dốc.

Bàn Tử đứng cạnh đưa cho tôi bình nước, nói: "Cậu cũng lớn mạng đấy, rơi từ tít trên kia xuống, bên dưới lại toàn đá tảng, người thường rơi xuống chắc chắn không chết cũng tàn phế."

Tôi nhận bình nước, thầm nhủ đây gọi là số con rệp mới đúng. Vừa rồi chắc chắn là nhờ đụng vào hai sợi xích kia mới khỏi chết, cũng không biết là may mắn hay xui xẻo nữa. Gần đây tôi luôn gặp chuyện rơi từ trên cao xuống như thế này, nhưng đều không chết, thật đúng là mạng lớn.

Uống vào mấy ngụm nước, máu trong miệng đã trôi xuống, yết hầu cũng dễ chịu hơn một chút, tôi liền hỏi Phan Tử thứ vừa rồi rốt cuộc là cái giống gì. Anh nói lần này bọn họ đã nhìn rõ ràng, đó nhất định là một con quái điểu với cái đầu rất lớn, cao bằng đầu người. Tiếc là bắn không trúng, bằng không có thể xem nó rốt cuộc là cái giống gì rồi.

Bàn Tử nói: "Con mẹ nó, đúng là tà dị. Cái mặt người tôi nhìn thấy ở thần đạo có thể chính là thứ này. Đầu người mình chim, mà cũng có thể là cú mèo."

Thuận Tử nhìn lên trên, nói: "Quái lạ, đám quái điểu kia hình như không bay xuống đây."

Tôi cũng nhìn lên đỉnh đầu, quả thật cái áp lực vô hình vừa nãy đã biến mất, cũng không có thứ gì lao xuống đây nữa.

"Hay là dưới này có gì kỳ quặc nên chúng không dám xuống?"

Phan Tử cũng hơi hơi do dự, Bàn Tử nói: "Thế này đi, giờ chúng tôi đi vòng quanh xem xét trước đã, nếu chỗ này có vẻ có vấn đề thì chúng ta sẽ lập tức leo lên. Mọi người cứ đứng ở đây, còn Tiểu Ngô hãy nghỉ ngơi một lát đi."

Tôi gật đầu. Phan Tử nói với Bàn Tử, tôi với cậu đi, rồi hai người đi về hai hướng.

Chẳng mấy chốc, từ hướng Bàn Tử đang tìm kiếm bỗng có tiếng hô, hình như đã phát hiện ra thứ gì.

Phan Tử giương súng, nhìn theo hướng Bàn Tử, chỉ thấy Bàn Tử đã đi một đoạn rất xa qua chiếc cầu, ánh đèn pin cũng trở nên mơ hồ. Trong quầng sáng đèn pin của hắn, chúng tôi thấy sau lưng hắn có một mảng bóng đen rất lớn, tựa như có vô số người đứng trong bóng tối đằng xa. Những cái bóng kia trộn lẫn vào nhau thành một mảng, không đếm nổi rốt cuộc là có bao nhiêu.

Chúng tôi đều bắt đầu cảnh giác. 'Rắc" một tiếng, Phan Tử đã mở chốt an toàn khẩu súng, Thuận Tử cũng rút dao săn. Phan Tử hỏi Bàn Tử: "Có chuyện gì thế? Kia là cái gì?"

Bàn Tử ở bên kia cũng kêu to: "Các người lại đây nhìn thì biết."

Theo ước tính của chúng tôi khi đứng trên cầu thì con sông đào này phải rộng đến sáu mươi mét, cả chiều rộng lẫn chiều dài đều rất lớn. Nếu xét theo chiều rộng lòng sông, chỗ Bàn Tử đang đứng cũng không xa chúng tôi lắm, nhưng vì bốn phía là một màu đen đặc nên chúng tôi cơ bản không nhìn rõ vật thể mà đèn pin của hắn chiếu đến. Nhưng nghe giọng điệu của Bàn Tử thì có vẻ chỗ đó cũng không nguy hiểm.

Thuận Tử liếc nhìn tôi, hỏi tôi có đi nổi không, có muốn qua đó xem không? Tôi gật đầu, hắn liền dìu tôi đứng lên, đi khập khiễng tới chỗ Bàn Tử.

Dưới đáy con sông đào này toàn là những tảng đá đen gồ ghề, một vài tảng có kích thước khiến người ta phải phát hoảng, nhìn qua đủ biết vào thời điểm xây dựng, đây nhất định là một công trình vĩ đại. Mảng bóng đen to lớn dưới ánh đèn pin của Bàn Tử nằm ngay bên dưới trụ cầu.

Đánh vật một hồi để đến chỗ Bàn Tử, những cái bóng kia cũng rõ ràng hơn. Tôi lại gần, lấy đèn pin trong tay Bàn Tử chiếu tới, mới nhìn rõ thứ đó là gì.

Nơi Bàn Tử đang đứng, giữa lòng sông xuất hiện một vết đứt gãy lớn, bên dưới vết nứt này là một con rạch sâu chừng một mét. Rạch này rộng khoảng hai mươi mét, trong rạch là vô số tượng người, ngựa cổ đại màu đen, xen lẫn với mảnh vỡ xe ngựa thanh đồng sắp xếp ngay ngắn, liên miên không dứt. Nhìn kĩ vài pho tượng sẽ phát hiện bề ngoài đã bị ăn mòn nghiêm trọng, đường nét gương mặt không rõ, ngũ quan đã không thể phân biệt. Rất nhiều tượng còn cầm đồ đồng đã lốm đốm những vết hoen gỉ màu xanh.

Những bức tượng người này đa phần là đứng thẳng, sắp xếp rất dày, nhiều tượng đã vỡ vụn, ngã xiêu ngã vẹo thành một đống. Đứng ở chỗ tôi nhìn xuống, trong phạm vi quầng sáng, nhìn hút mắt cũng chỉ thấy những vật như thế này. Một mảng bóng đen rộng lớn âm trầm nằm bên dưới hoàng lăng, nhìn thoáng qua khiến người ta không khỏi rợn tóc gáy.

"Những thứ này là gì vậy?" Thuận Tử lần đầu tiên nhìn thấy, trợn mắt há mồm vì kinh ngạc.

"Cái này hình như là tượng tuẫn táng, còn kia là tượng xe ngựa, biểu trưng cho đội ngũ đón khách hoặc tống tiễn đế vương xuất hành........" Tôi lắp bắp nói "Quái, ở đây sao lại có mấy thứ này? Đáng ra phải đặt dưới huyền cung hoặc trong hố bồi táng mới đúng chứ?"

Bàn Tử biết mấy thứ này, cũng nhận ra điểm kì quái. Đây là hoàng lăng, không phải nơi để đùa giỡn. Số lượng vật phẩm đặt trong huyền cung và cách bài trí đồ tuẫn táng trong hố tuẫn táng đều tuân theo quy tắc nhất định, không thể tùy tiện như lăng mộ của quý tộc hoàng gia bình thường. Hoàng lăng coi trọng thứ nhất là khí, thứ hai là thế, đem đồ tuẫn táng chất đống ngoài trời có khác nào trên một khối bạch ngọc thượng đẳng lại lỗ chỗ mấy vết răng chuột, là điều tối kị trong tối kị, vào thời đó nếu để hoàng đế biết được chắc chắn sẽ bị tịch thu gia sản. Tuy lúc ấy Đông Hạ chỉ là một tiểu quốc bí ẩn nằm ven biên giới, nhưng nếu người xây lăng mộ là Uông Tàng Hải danh tiếng lẫy lừng thì chắc chắn không thể phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn như vậy được.

Bàn Tử leo xuống con rạch, một tay giương súng đề phòng, một tay cầm đèn pin chiếu vào một bức tượng không đầu, nói với tôi: "Nhìn phục sức thì hình như là thời Nguyên, là trang phục của dân tộc thiểu số." Nói rồi định với tay chạm vào.

Tôi nhắc nhở hắn: "Đừng có sờ lung tung, thứ này có vẻ thần bí, đặt ở đây không chừng có gì kì quặc."

Bàn Tử cãi lại: "Sợ quái gì, chẳng lẽ mấy thứ này có thể sống lại?" Nhưng lời tôi nói vẫn có tác dụng, hắn rụt tay về, đeo súng lên vai. Một tay cầm chắc đèn pin, một tay rút con dao săn trên thắt lưng, dùng sức chọc chọc vài cái vào bức tượng. Bức tượng hình người không hề có phản ứng, hắn bèn quay đầu lại nói: "Hàng thật đúng giá, là tượng đá hình người."

Phan Tử thấy vậy bắt đầu tò mò, cũng leo xuống con lạch, lại gần Bàn Tử. Tôi vẫn cảm thấy lo lắng, nói: "Các anh cẩn thận một chút."

Bàn Tử khoát tay, tỏ ý biết rồi khổ lắm nói mãi. Hắn nhét dao săn trở vào bao da, thử nâng bức tượng gần nhất, hỏi: "Tiểu Ngô, cậu là dân nhà nghề, thử nói xem thứ này có đáng tiền không?"

Tôi gật đầu, cho hắn biết: "Thứ này trông cũng khá, không cần phải hoàn chỉnh, chỉ có một phần cũng đầy người muốn mua. Tôi biết đầu một tượng binh mã có giá đến 200 vạn, nữa là còn nguyên vẹn. Mà tượng ngựa còn hiếm hơn tượng người nên càng quý, giá cả chắc chắn không tệ."

Bàn Tử tiếc rẻ nhìn quanh bốn phía, tỏ vẻ vô cùng đau xót, nói: "Đáng tiếc, đáng tiếc, thứ này lại khó mang theo."

Trong lòng tôi vẫn thấy kì quặc, mấy thứ này thực sự không nên xuất hiện ở đây. Người ta thường nói, đằng sau mỗi món đồ trong cổ mộ đều là cả một câu chuyện. Mấy thứ này đặt ở đây hẳn phải có ý nghĩa gì, hoặc để kể lại một câu chuyện, vậy rốt cuộc người thiết kế lúc ấy có dụng ý gì đây?

Chiếu theo khoảng cách hai bên bờ sông, con rạch chứa những bức tượng này nằm chính giữa và cũng là nơi sâu nhất của con sông đào. Vào thời điểm hoàng lăng mới xây xong, mấy thứ này hẳn là đều chìm dưới mặt nước, mà gương mặt nhạt nhòa của những bức tượng người cũng là bằng chứng cho thấy chúng bị ngâm trong nước một thời gian dài. Nói cách khác, khi hoàng lăng đã xây dựng xong, người đứng bên trên không thể biết đến sự tồn tại của những vật này.

Đặt những bức tượng này ở đây là có ý gì? Chẳng lẽ đây là những phế liệu xây dựng, những bức tượng thứ phẩm, thợ xây lười vác ra nên mới nhấn chìm những thứ rác rưởi này dưới lòng sông đào? Cũng không phải, sắp xếp ngay ngắn như vậy, không giống với cách chất đống phế liệu.

Đúng là không thể phỏng đoán tâm tư của cổ nhân, trong lòng tôi thầm than thở. Nếu tôi không ngã xuống đây thì đứng trên cầu không thể nhìn thấy những vật bên dưới, cũng coi như là có duyên. Phải chăng ông trời muốn chỉ cho tôi thấy điều gì chăng?

Đúng lúc này, Bàn Tử kêu lên một tiếng, nói: "Các người có phát hiện ra không, tất cả những bức tượng ở đây đều hướng mặt về một phía, động tác như đang đi, nhìn rất khác những bức tượng được rao bán trên chợ đồ cổ."

Tôi vốn không để ý, nhưng nghe Bàn Tử nói, tôi cũng nhìn lại một lần theo hướng hắn nghĩ thì thấy quả đúng là như thế.

Xưa nay tượng bồi táng được xếp quay về một phía vốn là chuyện thường tình, tôi cũng chưa thấy ở đâu sắp đặt mỗi tượng quay một phương loạn xà ngầu lên. Nhưng Bàn Tử nói đến động tác như đang đi lại rất kì, quả thực tôi chưa từng thấy. Tôi cầm đèn pin cẩn thận chiếu xuống chân mấy bức tượng, đột nhiên trào lên cảm giác kì quái.

"Những người này...." Tôi nhíu mày nói: "Hình như đang hành quân."

"Hành quân?" Phan Tử nhìn tôi hỏi lại.

Tôi gật gật đầu: "Nhìn cách ăn mặc của người ngồi trên xe ngựa kia xem, đây là đội ngũ hộ tống cho đế vương xuất hành. Cậu xem mấy con ngựa này, mấy cỗ xe này, động tác của những người này nữa, bọn họ đều đi về cùng một hướng. Những bức tượng được sắp xếp như vậy, động tác của bọn họ dường như muốn biểu thị một tình huống nào đó."

Chúng tôi đều nhìn về hướng đội quân tượng tiến đến, chỉ thấy những bức tượng quỷ dị này xếp thành một hàng dài, mất hút vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào, không thể nhìn thấy đích đến của chúng ở đâu.

Chương 32: Rạch tuẫn táng

Nếu không bị thương, có thể tôi đã đề nghị mọi người đi xem thử; nhưng nhìn phía xa chìm trong bóng tối đặc quánh, mấy lời này lập tức nuốt xuống bụng. Bàn Tử không cảm nhận được nỗi sợ của tôi, vẫn hỏi: "Cậu nói có lý, vậy mấy thứ này dẫn tới nơi nào? Hay chúng ta cứ đi xem thử, dù sao con sông này cũng không dài lắm."

Phan Tử lập tức lắc đầu phản đối: "Chúng ta không thể trì hoãn thêm nữa. Cậu Ba đang bị thương, nếu xảy ra chuyện gì thì chạy cũng không nổi. Chúng ta đừng có tốn thời gian ở đây nữa, ông Ba phái người chuyển lời, chúng ta còn chưa hiểu nó có ý gì kìa. Mua rắc rối vào người, không bằng nhân dịp này suy ngẫm thật kĩ xem ông Ba muốn nói cửa vào địa cung rốt cuộc ở đâu, vừa hay lũ quái điểu kia không bay được xuống dưới này."

Lời này nói trúng ý tôi, tôi lập tức gật gật đầu, sau đó ho khan vài tiếng, ra vẻ mình bị thương nặng lắm. Thuận Tử không tỏ thái độ gì, còn Bàn Tử thấy chúng tôi như vậy thì không khỏi hậm hực, nhún vai nói "Thôi được rồi."

Thuận Tử kéo bọn họ lên khỏi con rạch, mọi người cùng quay trở về chỗ tôi vừa ngã xuống. Phan Tử lấy trong ba lô ra một cái đèn bão, châm lên cho chúng tôi sưởi ấm. Tôi nhẩm tính, từ lúc đi đến đây chúng tôi đã một ngày chưa có gì bỏ bụng, dạ dày đã bắt đầu réo lên ùng ục. Vì thế, bốn người chúng tôi ngồi xuống cùng ăn chút lương khô.

Đến khi mở hành lý ra, chúng tôi mới phát hiện phần lớn lương khô của mình đều để lại trong ba lô của đám người Trần Bì A Tứ. Số lương thực chúng tôi mang trên người rõ ràng là không đủ, nhất là Bàn Tử, từ khi xuống đây hắn vẫn chưa có gì bỏ bụng. Nhưng gần như tất cả trang bị đều nằm trong tay chúng tôi: dây thừng, móc câu, ngòi nổ,... và rất nhiều vật dụng thám hiểm khác.

Phan Tử xem xét một hồi rồi nói với chúng tôi: "Xem ra Trần Bì A Tứ lúc phân phối trang bị cho chúng ta đã có ý sắp đặt trước. Toàn bộ trang bị đều nằm trên lưng chúng ta, lương thực thì ở chỗ bọn họ, như thế hai bên phải phụ thuộc lẫn nhau, không ai có thể chạy trốn một mình. Cái chiêu này tôi thực không chú ý tới."

Bàn Tử cười nhạo: "Anh thì chú ý đến cái qué gì. May là tôi cũng chẳng trông cậy vào anh với ông Ba nhà các anh. Mỗi lần đụng vào mấy người là tôi lại mua đắt bán lỗ, lúc ở trên xe lửa tôi đã đoán trước sẽ có ngày này mà."

Phan Tử cũng phun ra một tràng: "Mẹ kiếp anh cũng bơn bớt nói móc đi nhá, nhìn lại mình xem có tốt đẹp hơn ai, anh không kéo chúng tôi vào rắc rối tôi đã phải cảm tạ Phật tổ rồi."

Thuận Tử sợ bọn họ lại gây gổ cãi nhau, bèn vội vàng nói: "Các vị, thừa hơi thừa sức cãi nhau chi bằng mau ngẫm xem lời nhắn của ông Ba là có ý gì?"

Tôi cũng vỗ vỗ Phan Tử một cái để hắn đừng nổi cáu, rồi quay sang hỏi Thuận Tử: "Hoàn cảnh chú Ba tôi tới tìm anh là như thế nào? Nếu anh không kể chi tiết lại cho chúng tôi thì câu nói kia quả là quá mơ hồ. Chúng ta còn chưa đặt chân vào hoàng lăng, thật không biết nên nghĩ theo hướng nào."

Nghe tôi hỏi thế, Bàn Tử và Phan Tử cũng đã bình tĩnh lại, đồng loạt nhìn về phía Thuận Tử.

Thuận Tử ngồi xuống, khẽ nhíu mày: "Khoảng một tháng trước, tôi cũng dẫn khách lên núi như thường lệ, đương nhiên đoàn khách này không lợi hại như nhóm các vị, chỉ đi lòng vòng ngắm nhìn núi tuyết một chút thôi. Chú Ba các cậu trà trộn vào giữa đoàn khách ấy, lúc qua đêm trên núi, ông ấy bỗng dưng gọi tôi ra ngoài, thần thần bí bí, nói bây giờ ông ấy phải đi lên núi tuyết một mình, bảo tôi đừng nói với bất kì ai. Sau đó ổng cho tôi ít tiền, bảo tôi đại khái là trong thời gian này hãy ở dưới chân núi chờ một người tên Ngô Tà, sau đó lại dẫn các vị lên núi, chỉ cần đưa nhóm các vị đến trước mặt ông thì sẽ cho tôi một số tiền lớn. Sau đó ông ta bảo tôi nhắn lại cho cậu mấy lời vừa rồi, còn nhấn mạnh rằng chỉ cần là 'cậu' thì nghe xong lập tức sẽ hiểu."

"Chú ấy thật sự đã nói như vậy sao?" Tôi hỏi.

Thuận Tử gật gật đầu, vẻ mặt chắc như đinh đóng cột.

Tôi cảm thấy có điều kỳ quái, lời này có vẻ nhấn mạnh vào người nghe mà không phải nội dung câu nói. Chỉ cần là 'tôi' nghe xong lập tức sẽ hiểu, chẳng lẽ trên người tôi có phẩm chất đặc biệt nào đó khác hẳn với những người còn lại?

"Vậy làm sao anh biết tách Trần Bì A Tứ ra trước rồi mới nói cho chúng tôi mấy thứ này?" Bàn Tử hỏi.

Thuận Tử cười hì hì, lộ ra nét mặt hoàn toàn khác trước, nói: "Tôi cũng đâu phải thằng ngốc. Chú Ba đã cho tôi biết số người các cậu, còn nói nếu số người không khớp thì chỉ có thể nói lại cho một mình cậu nghe. Tôi vừa thấy nhóm các cậu đã có cảm giác bầu không khí trong nhóm hơi bất thường, cứ như có hai nhóm người đi chung với nhau. Lúc ấy tôi lại không biết các cậu muốn làm gì, đành phải giả ngu mà quan sát. Dù sao tôi cũng đã nhận tiền của người ta rồi, nếu làm không tốt khiến các cậu lỡ việc cũng không hay."

Tôi nhìn nét mặt của Thuận Tử, cảm thấy có gì đó xảo trá, trong lòng nổi lên cảm giác khó chịu. Thầm nghĩ thì ra từ lúc bắt đầu lên núi, cái vẻ ngoài thật thà phúc hậu của hắn đều là giả bộ? Ai da, đúng là không thể xem mặt mà bắt hình dong. Bảo sao càng đi hắn ta lại càng điềm tĩnh, thì ra đây mới là bộ mặt thật của hắn.

Phan Tử là người từng trải, lúc này mới trầm ngâm nói: "Không thể đơn giản như vậy, tôi thấy hình như anh còn biết chuyện gì khác nữa?"

Thuận Tử cười đầy ẩn ý: "Trước khi xuất ngũ, đơn vị của tôi đã đóng quân ở chính nơi này. Tôi đã leo lên không biết bao nhiêu ngọn núi tuyết, cha mẹ tôi là người Triều Tiên sinh sống lâu đời ở vùng này. Vào năm 718 loạn lạc, tổ tiên tôi từ Bắc Triều Tiên chạy đến đây, trốn sâu trong núi đã nhiều năm. Trong núi này, thời xưa có vô số truyền thuyết, chúng tôi cũng từng gặp nhiều chuyện lạ. Hàng năm có không biết bao nhiêu người mang đủ thứ mục đích lạ lùng lên núi, anh cứ nói tôi chẳng biết gì chứ thực ra tôi vẫn hiểu được lờ mờ, cho nên vừa thấy các người nhắm đến ngọn núi này, tôi đã đoán ngay ra các người muốn làm gì." Hắn dừng lại một chặp, liếc tôi một cái, ý vị sâu xa: "Nếu không có chú Ba các người dặn dò, lúc ở sườn núi tuyết lở kia, tôi đã cương quyết không cho các người đi tiếp nữa."

Phan Tử nhìn tôi, lại nhìn Bàn Tử, không biết phải nói gì.

Ngây người một lúc, Phan Tử rút một điếu thuốc, đưa cho Thuận Tử: "Thuận ca, chúng tôi có mắt như mù. Chúng ta bây giờ đã là người một nhà, mời anh một điếu."

Thuận Tử không nhận điếu thuốc, ngẩng đầu nói: "Tôi là người thực tế, đừng nói mấy lời vô nghĩa. Tôi giúp các người không phải vì yêu quý gì các người, mà chỉ vì tiền thôi. Chú Ba các người đã đồng ý trả cho tôi một số tiền lớn, đủ cho tôi dùng đến hai đời, cho nên tôi nhất định phải đưa được nhóm các người tới trước mặt ông ấy. Các người mau nghĩ ra ẩn ý trong câu nói kia đi."

Phan Tử bẽ mặt, đành đưa điếu thuốc lên miệng mình, nhìn tôi cười khổ.

Tôi hỏi Thuận Tử: "Vậy anh hãy nhắc lại nguyên văn lời của chú Ba lúc đó cho tôi nghe đi."

Thuận Tử hồi tưởng, nói: "Lúc ấy hình như ông ta nói thế này: 'Chờ Ngô Tà tới rồi, anh hãy nói cho nó biết cửa vào của địa cung nằm ở 'Huyền Vũ cự thi'. Sau đó tôi hỏi ông ta câu này có ý gì, ông ta bảo chỉ cần nhắc lại y như vậy, nếu là cậu thì chắc chắn sẽ hiểu."

"Vẫn như cũ" Tôi thở dài một tiếng, nghĩ bụng nghe cả câu thì mấu chốt vẫn là 'tôi', nhưng mấy lời rõ ràng là tôi cóc hiểu gì cả. Mẹ kiếp, chú Ba sao tự nhiên lại tin tưởng tôi thế này? Đây không phải là hại tôi sao?

Mấy người kia đều nhìn chằm chằm vào tôi, trong mắt lộ ra vẻ tha thiết. Tôi lắc lắc đầu, thở dài một tiếng.

Bàn Tử thấy tôi không nghĩ ra, bèn hỏi: "Hay gợi ý này có liên quan tới chuyện nào đó từng xảy ra trong nhà cậu? Chuyện gì mà chỉ có người Ngô gia các cậu mới biết ấy?"

"Không có chuyện đó đâu." Tôi nói: "Tôi hiểu tính chú Ba, ổng sẽ không dùng một ám hiệu quá mức phức tạp như thế, rồi để cho chúng ta phải suy đoán. Nếu ổng để cho Thuận Tử truyền lời, thì ý tứ trong những lời đó chắc chắn sẽ cực kì rõ ràng. Nhất định là có lối rẽ trong tư duy, chúng ta đã suy đoán nhầm hướng mất rồi."

"Nhưng ông Ba chỉ nói 'cậu' vừa nghe là hiểu liền, chứ không nói 'chúng ta' vừa nghe đã hiểu, vậy đó chắc chắn phải là một ám hiệu liên quan đến những điểm chung giữa hai người." Phan Tử nói: "Chi bằng thử nghĩ lại xem cậu và ông Ba có những điểm nào giống nhau."

Tôi cảm thấy cách này không có tác dụng là mấy, nhưng giờ đã cùng đường rồi, đành xòe ngón tay ra đếm. Điểm giống nhau giữa tôi và chú Ba sao? Thực ra cũng không nhiều lắm. Nhưng chỉ có tôi và chú Ba nên phải loại trừ đám người Phan Tử ra, ví dụ nếu nói tất cả mọi người đều là đàn ông thì Phan Tử cũng là đàn ông, vậy không tính. Nếu nói chúng tôi đều họ Ngô thì cũng tính là một điểm chung nhưng cái đó và ám hiệu kia chắc không liên quan gì.

Còn một điểm nữa là tôi và ổng thấy gái đều tớn mắt lên *cái đồ khẩu thị tâm phi =~=*, tuy nhiên cái này cũng hơi mơ hồ, bởi có đánh chết ổng cũng không chịu thừa nhận. Ngoại trừ mấy điểm này, tính ra chỉ còn một điểm giống nhau là tôi và ổng đều ở Hàng Châu, hiện giờ địa bàn sinh sống chủ yếu cũng là Hàng Châu.

Khoan đã! Tôi vừa nghĩ đến điểm này, tự dưng giật mình, giống như trong đầu vừa nảy sinh thứ gì đó. Một mối dây liên tưởng đột nhiên hiện ra trong đầu tôi –

'Huyền Vũ cự thi' – ám hiệu của chú Ba – Hàng Châu – 'tôi' nhất định có thể hiểu được –

Tôi đột nhiên bừng tỉnh. Bốn chữ kia, thì ra là có ý này!

Chương 33: Ám hiệu nhàm chán

'Huyền Vũ cự thi'. 'Huyền Vũ cự thi' chó chết!

Nghĩ thông rồi, tôi thấy tất cả mọi thứ đều sáng tỏ, không kìm được mà cười phá lên. Đây hoàn toàn là hiểu lầm, bốn chữ mà chú Ba nói căn bản không phải bốn chữ này, chẳng qua những quan niệm trong Táng kinh đã ăn sâu bám rễ trong đầu chúng tôi nên vừa nghe phát âm bốn chữ gần giống thế đã đinh ninh chính là nó. Hơn nữa đúng như tôi đã đoán từ trước, ám hiệu này thực chất không phải là ám hiệu. Chú Ba đã dùng một cách vô cùng tài tình, khiến cho câu này của ổng gần như nói trắng ra luôn. Có thể nhắc lại ngay trước mặt người khác, nhưng ý tứ thực sự thì chỉ có tôi mới hiểu.

Xem ra chú Ba đã sớm đoán biết, có thể những người đi cùng tôi vào trong hoàng lăng này chưa chắc đã là những người mà ổng an bài từ trước.

Mấy người kia nhìn sắc mặt tôi biến đổi rõ rệt thì biết ngay tôi đã ngộ ra điều gì, vội hỏi tôi đã nghĩ thông chưa.

Tôi bèn giải thích: "Đúng là chúng ta đã nghĩ sai hướng rồi. Chú Ba nói những lời này 'tôi' có thể hiểu. nguyên nhân chủ yếu không phải vì tôi với ổng có điểm gì giống nhau, mà do tôi đã lớn lên ở Hàng Châu từ nhỏ."

Mọi người vẫn chưa hiểu, Bàn Tử hỏi lại: "Vậy có nghĩa là mấy lời này có liên quan đến phong cảnh ở Hàng Châu hả? Không phải chứ, Bàn gia tôi đã đi qua Hàng Châu nhiều lần nhưng chưa từng nghe Hàng Châu có nơi nào tên là 'Huyền Vũ cự thi' mà?

Phan Tử lắc đầu: "Anh liên thiên cái gì vậy, tôi dám chắc nó không liên quan gì đến phong cảnh, người lớn lên tử nhỏ ở Hàng Châu cũng chưa dám chắc đã quen thuộc hết những danh thắng di tích ở đó nữa là. Anh xem ông Ba nhà chúng tôi sống ở Hàng Châu đã hơn mười năm mà chỉ biết mỗi cái Tây Hồ. Lần trước ông ấy dẫn chúng tôi lên núi Bảo Thạch uống trà mà rồi lại lạc đến tận đâu đâu, cuối cùng đi mãi đến tối mới thấy Ngọc Tuyền."

Tôi gật đầu, quả thực tôi cũng là người như vậy. Ai nói dân buôn đồ cổ phải thích mấy di tích cổ chứ, tôi mới đến thăm có vài nơi thôi.

Bàn Tử nhíu mày, nói với tôi: "Không liên quan gì đến phong cảnh à? Thế con mẹ nó là cái gì? Sao cậu không nói toẹt ra đi, tôi sốt ruột muốn chết rồi đây." Nói rồi lau lau mồ hôi.

Tôi cũng không úp úp mở mở nữa, nói với hắn: "Cái này rất đơn giản, người lớn lên ở Hàng Châu tuy không nhất thiết phải quen thuộc phong cảnh, nhưng chắc chắn có thể nghe hiểu thổ ngữ Hàng Châu. Đây mới là điểm mấu chốt."

Tất cả mọi người đều sửng sốt, ngây người ra một lúc, hiển nhiên cũng đã mơ hồ hiểu ra vấn đề, nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Bàn Tử hỏi: "Là cách phát âm?"

Tôi gật đầu. Trong số những người ở đây, chỉ có tôi là thông thạo thổ ngữ Hàng Châu. Phan Tử quanh năm ở Trường Sa, cũng có thể nghe hiểu tiếng Hàng Châu nhưng hiểu biết sâu sắc về thổ ngữ thì không có. Bàn Tử là người bắc, nghe giọng nói đủ biết cả năm quanh quẩn trong thành Bắc Kinh. Thuận Tử lại càng khỏi phải bàn, đến tiếng phổ thông còn nói chưa lưu loát. Nếu chú Ba dùng tiếng Hàng Châu nói một câu, quả thực chỉ có tôi mới hiểu nổi.

Đáng tiếc là Thuận Tử không giỏi tiếng Hán nên chỉ nhớ được cách phát âm, không nghe ra được ngữ điệu biến hóa ở nửa đầu và nửa sau câu nói, cho nên lời nói từ miệng hắn đi ra chỉ là một câu hoàn toàn không có ngữ điệu.

Phan Tử vỗ vỗ đầu, nói: "Mẹ kiếp, đúng là tôi không nghĩ đến cái này. Vậy 'Huyền Vũ cự thi' kia, nếu nói bằng thổ ngữ Hàng Châu thì có ý gì? Cái này cũng có vẻ khó đọc nha."

Tôi cười nói: "Để yên nghe tôi phân tích hết đã. Thật ra mật ngữ của chú Ba không phải bốn chữ, mà là sáu chữ 'Huyền Vũ cự thi chi địa'. Chữ 'Huyền" thứ nhất, tiếng Hàng Châu phát âm là "Viên" lại gần giống với 'Duyên'. Chữ 'Vũ' phát âm cũng na ná chữ 'hồ'. Nhưng ở Hàng Châu, từ 'hồ' này có thể đọc là hồ cũng có thể đọc là hà. "cự" đồng âm với 'cừ', 'thi' đồng âm với 'thủy', 'địa' đồng âm với 'để' —- Vậy gộp lại chính là 'duyên hà cừ thủy chi để' (dưới đáy rạch nước chạy dọc sông)

Tôi vừa giải thích xong, mọi người 'A" lên một tiếng, đều tỏ vẻ tỉnh ngộ. Bàn Tử gật gù, đương nhiên tôi dịch ra như vậy là hoàn toàn hợp lý, không có sơ hở nào cả.

Phan Tử 'hừ' một tiếng, lầm bẩm nói ông Ba đúng là ông Ba, nếu Trần Bì A Tứ mà nghe được mấy lời kia thì có đánh chết lão cũng không thể suy ra theo hướng này, chắc chắn sẽ tìm ý nghĩa của 'Huyền Vũ cự thi' đến nổ tung đầu luôn.

"Rạch nước dưới lòng sông?" Bàn Tử đã chuẩn bị lên đường "Nhưng nơi này làm gì có sông? Hay sông nằm trong hoàng lăng?"

Tôi nói: "Trong lăng chắc chắn không có sông, cùng lắm chỉ có suối thôi, bởi vì mực nước sông không thể khống chế, nước quá cao sẽ bị ngập, nước quá thấp thì lại phá thế, hơn nữa nước sông sẽ làm bại lộ vị trí của cổ mộ. Sông ở đây chỉ có thể là con sông đào này thôi."

Cơ mặt của Phan Tử đều co giật cả lên: "Chúng ta đi bậy đi bạ, hóa ra lại đi đúng đường sao?"

"Cũng chưa chắc chắn hoàn toàn." Tôi lắc đầu, dù sao còn chưa bước vào hoàng lăng, không biết tình hình bên trong thế nào, nhưng dựa theo dấu hiệu hiện tại cùng với những tư liệu đã từng xem qua thì phân tích của tôi vẫn có cơ sở.

"Nếu nói sông chính là con sông đào này, vậy rạch kia... con mẹ nó... không lẽ chính là cái chỗ chúng ta vừa xem qua kia..." Bàn Tử đứng dậy, nhìn về phía con rạch tuẫn táng chứa đầy tượng đá kia, quả thực trùng khớp với ám hiệu chú Ba để lại. Chúng tôi quay đầu lại nhìn, tim đập rộn ràng.

"Nhưng..." Phan Tử vẫn thấy không ổn, "Con 'rạch' kia không có 'nước'."

Tôi lắc đầu nói: "Lúc ấy chú Ba cũng chưa tiến vào hoàng lăng này. Ổng nói những lời này có lẽ cũng chỉ dựa theo những gợi ý tìm được ở bên ngoài, có thể dựa theo sách cổ hoặc địa đồ. Mà người vẽ ra địa đồ hoặc viết ra sách cổ đương thời cũng không lường trước sẽ có một ngày con sông đào kia bỗng dưng cạn khô."

Trên những tảng đá kè quanh sông này có dấu vết bị ăn mòn, chắc chắn sông này trước kia từng có nước. Nhưng trải qua hàng ngàn năm, nguồn nước dẫn vào sông, có thể là mạch nước ngầm hoặc là suối nước nóng, đã khô cạn. Nước sông không được bổ sung nên dần dần ngấm vào lòng đất, cuối cùng cũng khô cạn theo.

Bàn Tử đã mất hết kiên nhẫn, "rắc" một tiếng kéo chốt an toàn khẩu súng, nhìn chúng tôi hất đầu ra hiệu: "Các đồng chí, khó khăn lắm lợi ích cá nhân của chúng ta mới thống nhất làm một với lợi ích cách mạng, còn chờ cái gì nữa, con mẹ nó cùng lên đi."

Chúng tôi không tìm ra lí do gì để phản bác lời đề nghị của Bàn Tử lúc này, nhưng lập tức xuất phát thì đúng là quá nóng vội. Phan Tử kéo hắn xuống, nói: "Đã có manh mối rồi, tình thế trái lại không gấp. Anh xem cậu Ba bị thương nặng như vậy, còn chưa được nghỉ ngơi kia kìa. Anh muốn đi một mình hay muốn bảo chúng tôi vứt cậu ấy lại đây chờ chết?"

Bàn Tử ngẩn người, ngẫm lại thấy cũng có lý, nhưng hắn thực sự bị dục hỏa đốt người, bèn vỗ vai Thuận Tử: "Này, hay tôi với anh đi trước thám thính, tóm mấy con chim làm đồ ăn. Cứ để hai người họ ở đây nghỉ ngơi, đảm bảo thu hoạch không kém số tiền ông Ba kia trả cho anh."

Không ngờ Thuận Tử cũng lắc đầu, nói: "Nhiệm vụ của tôi là đưa cậu ta" chỉ vào tôi, "đến trước mặt ông Ba kia. Về sau các người sống chết thế nào tôi không quản, nhưng hiện giờ tôi phải trông chừng cậu ta."

Tôi nghe thế thì cười đắc chí, quay sang Bàn Tử: "Giờ đã rõ ai mới là VIP ở đây chưa?"

*Đù, vậy là lại thêm một mạng gia nhập đoàn kị sĩ hộ giá công trúa =)) Và Tà nó có vẻ rất khoái chí với địa vị này =))*

Bàn Tử xì một tiếng khinh miệt, khó chịu nói: "Được! Các người cứ ở đây nghỉ ngơi đi, Bàn gia ta tự đi một mình. Chờ đến khi ông kiếm được mấy món bảo bối mang về, xem các người có tiếc nhỏ dãi ra không. Ông nói trước cho mà biết, thứ gì ông tìm được là của ông, tuyệt đối không chia cho các người đâu!" Nói rồi vác súng lên hùng dũng bước đi.

Mới đi được vài bước, hắn đột ngột dừng lại rồi quay đầu trở về. Chúng tôi thấy thế thì phá ra cười, hỏi hắn sao thế, sợ rồi hả?

Bàn Tử hừ một tiếng, tung cước đá văng cái ba lô của mình, ngồi đối diện với cái đèn bão, nói: "Sợ cái con khỉ biển, các người đúng là muốn đuổi ông đi, Bàn gia ta đâu có ngu. Chờ lát nữa ông lấy được mấy món béo bở, ba người lại hè nhau xông vào cướp, dù ông có là mãnh hổ cũng khó địch lại bầy lang sói, để các người chiếm lợi, không khéo còn bị các người giết người cướp của nữa, ông không dại mà đâm đầu vào vụ làm ăn mù quáng này."

Phan Tử thấy Bàn Tử vẫn còn bực bội, mới thừa cơ chế nhạo: "Cái này gọi là lòng dạ tiểu nhân, anh nghĩ rằng tụi này ai cũng giống anh sao."

Tôi sợ hắn lại nổi điên lên, bèn ngắt lời cả hai: "Được rồi, đừng ai nói gì nữa. Giờ tính ra cũng là nửa đêm rồi, tuy ở dưới này không thấy sắc trời nhưng chúng ta cũng phải nắm bắt được thời gian mà nghỉ ngơi."

Phan Tử nhìn đồng hồ, cũng gật đầu, vặn đèn bão cho sáng thêm, xung quanh lập tức ấm áp hơn hẳn. Sau đó anh lấy túi ngủ ra bơm căng, mọi người đều chui vào làm một giấc.

Bàn Tử châm một điếu thuốc, nói hắn không buồn ngủ, để hắn gác ca thứ nhất. Tôi liếc hắn một cái, nói đến nửa đêm anh tuyệt đối không được tự ý đi chôm đồ. Vào huyền cung rồi anh muốn lấy gì thì lấy, còn bây giờ thì yên phận chút đi, con mẹ nó anh đừng để tôi coi thường.

Bàn Tử giận dữ nói hắn đâu phải hạng người đó? Hắn gác đêm, đảm bảo chúng tôi đều an toàn.

Đi đường mệt mỏi, lên đến đỉnh núi tuyết đã là chạng vạng tối, từ khi tiến vào cung điện dưới lớp băng cho tới bây giờ đã hơn mười tiếng. Hơn nữa chúng tôi hoạt động với cường độ tương đương với lao động chân tay một ngày một đêm, hết leo núi, chạy như điên lại nhảy xa, cùng với cú ngã lúc nhảy xa thất bại, tôi đã mệt rã rời, vừa chui vào túi ngủ lập tức thiếp đi.

Tôi có cảm giác mình ngủ rất say. Là người bệnh nên tôi không phải gác đêm, khi tỉnh lại thì xung quanh vẫn một màu tối đen, đèn bão đã tối đi rất nhiều, người gác đêm cũng chuyển sang Phan Tử. Anh đang tựa vào một tảng đá hút thuốc, cạnh đó là Bàn Tử ngáy pho pho như sấm.

Tôi nhìn đồng hồ, biết mình mới ngủ có 5 giờ, có điều những lúc bị thương nặng tôi đều ngủ rất ngon. Do cơ thể tái tạo mạnh mẽ nên người gần như rơi vào trạng thái nửa hôn mê, khi tỉnh dậy đầu óc nhẹ nhàng khoan khoái nhưng thân thể lại càng mệt mỏi, xương sống ở thắt lưng bắt đầu đau tệ hại.

Tôi xoa xoa mặt, chui ra khỏi túi ngủ, vặn vẹo mấy khớp tay chân rồi bảo Phan Tử đi ngủ đi, tôi sẽ canh gác một lát. Nhưng Phan Tử nói không cần, hồi ở Việt Nam đã có thói quen ít khi ở trên giường, mỗi ngày đều ngủ không quá ba tiếng.

Tôi cũng đành mặc anh, ngồi vào tảng đá bên cạnh, cũng muốn hút một điếu thuốc cho tỉnh táo đầu óc.

Hai người rơi vào im lặng trong chốc lát, bỗng Phan Tử bảo tôi thử đoán xem chú Ba hiện giờ ra sao? Có gặp chuyện gì bất trắc không?

Tôi thấy nét mặt anh chất chứa sự quan tâm và lo lắng thật lòng, trong lòng cũng cảm thấy xúc động. Theo lý mà nói, Phan Tử từng ra chiến trường, đã quen với mưa bom bão đạn, sinh tử ly biệt, đáng ra sẽ không có loại tình cảm sâu sắc như vậy. Nhưng ngược lại, lòng trung thành và tin tưởng của Phan Tử đối với chú Ba khiến cho cháu trai như tôi cũng thấy hổ thẹn. Không biết trước đây giữa Phan Tử và chú Ba đã xảy ra chuyện gì, nếu có cơ hội tôi thực sự cũng muốn hỏi.

Tôi an ủi anh: "Anh yên tâm đi, lão cáo già kia tuyệt đối sẽ không bạc đãi bản thân đâu. Ổng lớn mạng lắm, nếu có gặp chuyện không hay thì cũng chẳng đợi đến bây giờ mới xảy ra chuyện. Bây giờ chúng ta chỉ cần chiếu cố bản thân mình là được rồi, lúc này người cần phải lo lắng chính là chúng ta, bởi chúng ta chẳng biết gì cả."

Phan Tử gật đầu, thở dài một tiếng thiểu não nói: "Tiếc là đầu óc tôi không được nhanh nhẹn, những việc ông Ba làm tôi không tài nào hiểu nổi. Bằng không những chuyện nguy hiểm như thế này ông Ba không cần phải đích thân làm, cứ giao cho tôi là được."

Tôi cười khổ trong lòng, nghĩ bụng việc chú Ba đang làm cũng không đến nỗi quá mức nguy hiểm, mà ngược lại, tôi có cảm giác người gặp nguy hiểm nhất chính là chúng tôi. Chúng tôi luôn đi sau chú Ba, phán đoán ý tứ của ổng, sau đó bị ổng nắm mũi dắt đi. Cứ tiếp tục như thế, vận khí dù tốt đến đâu thì cũng có ngày gặp họa.

Ví dụ như lúc này đây, chú Ba có thể để lại manh mối về cửa vào huyền cung cho chúng tôi từ rất sớm, chứng tỏ trên người ổng có thứ gì đó giúp ổng biết trước kết cấu của địa cung này. 'Duyên hà cừ thủy chi để" đây là một câu thể văn ngôn, giọng điệu của chú Ba không giống vậy, câu này chắc chắn lấy từ trong sách cổ. Mà theo lời Thuận Tử thì chú Ba một mình đi vào núi tuyết xem xét, hiển nhiên ổng cũng không rơi vào tay đám người A Ninh. Nếu ổng thuận lợi đi vào miệng núi lửa này, rất có thể bây giờ đã ở trong huyền cung dưới hoàng lăng.

Có thể đoán sơ sơ thế này, vật đã giúp chú Ba biết trước kết cấu địa cung có lẽ chính là mục đích đi Tây Sa mấy tháng trước của ổng, cũng có thể giải thích vì sao công ty của A Ninh lại xuất hiện ở đây. Mục tiêu của bọn họ hẳn cũng không phải ngôi mộ dưới đáy biển lần trước, mà là Vân Đỉnh thiên cung trên này. Bọn họ hợp tác với chú Ba đi Tây Sa, chẳng qua là muốn vào mộ huyệt dưới đáy biển để tìm manh mối về hoàng lăng bí mật trong lòng dãy Trường Bạch mà thôi.

Mà khi ở trong hải mộ kia, A Ninh cũng tách khỏi chúng tôi một lúc rất lâu. Trong khi chúng tôi bị những bẫy rập và cơ quan trong hải mộ chọc cho suýt phát điên, mệt mỏi muốn chết, cô ả này đã làm những gì trong hậu điện? Có phải cũng giống như chú Ba, tìm được điểm mấu chốt để đi xuống hoàng lăng trong lòng đất này? Chúng tôi không thể biết được. Nhưng vừa rồi ở tiền điện nhóm đã gặp mấy thi thể trang bị kĩ càng đến tận chân răng, chứng tỏ đội ngũ của A Ninh đã xuống nơi này trước chúng tôi rồi. Căn cứ theo lời Thuận Tử, đội ngũ bọn họ quá lớn, chắc chắn không thể nào vượt qua được tuyến biên phòng. Thế mà họ lại có thể vào đến tận đây mà không mất một cọng tóc nào, chứng tỏ bọn họ biết một con đường bí mật mà không ai khác biết.

Điều này ít nhất cũng có thể chứng minh đám người A Ninh biết những chuyện mà chúng tôi không biết.

Chúng tôi và bọn họ ở hai thế hoàn toàn khác biệt nhau. Chúng tôi hoàn toàn 'không biết gì', không thể đoán trước trong huyền cung có thứ gì đang chờ đợi mình. Tình cảnh này đúng là cực kì gay go, nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục tiến lên, không thể lùi bước được nữa, lùi lại mới là hỏng bét.

Những lời này tôi không thể nói ra với họ, bởi vì đối với Phan Tử, chú Ba là tất cả. Chú Ba muốn anh làm chuyện gì thì anh nhất định phải làm, không cần biết đến mục đích. Đối với Thuận Tử, hắn hoàn toàn là người ngoài cuộc, đối với hắn đây chỉ là một phi vụ mua bán, hắn chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng. Mà Bàn Tử lại càng đơn giản, hắn do người 'gắp Lạt Ma' mời đến, trong lăng mộ có những gì mới là quan trọng, chú Ba của tôi, đối với hắn chỉ là một cái tên đầy phiền phức mà thôi. Những phân tích nảy sinh trong đầu tôi lúc này, xem ra chỉ hữu dụng với một mình tôi, cũng chỉ có mình tôi quanh quẩn giữa những bí ẩn mơ hồ mà thôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nảy sinh cảm giác hâm mộ đối với cuộc sống đơn giản của những người kia.

Lại nói lái sang chuyện khác, Phan Tử liền hỏi thân thể tôi thế nào rồi, tôi nói cũng đỡ một chút, được ngủ một giấc, cơ thể tôi đã khá hơn nhiều. Bây giờ không cần người đỡ cũng có thể gắng gượng đi lại, nhưng đương nhiên vẫn chưa thể đánh nhau được. Phan Tử nói hay là cậu nghỉ ngơi thêm một lát đi, khó tìm được nơi nào yên tĩnh như ở đây, mà cũng rất an toàn, chỉ sợ vào địa cung rồi sẽ không có cơ hội nghỉ ngơi nữa.

Tôi thấy cũng đúng, đã định chui vào túi ngủ tiếp, nhưng vẫn không sao ngủ lại được. Bàn Tử bên cạnh đang liên tục nói mớ bằng thứ tiếng mà tôi nghe không hiểu nổi, có vẻ như đang cò kè mặc cả với ai đó. Lúc hắn nói mớ ác liệt nhất, Phan Tử nhặt một viên đá nhỏ ném trúng đầu hắn, ăn đá xong Bàn Tử lập tức yên lặng trở lại. Nhưng chỉ được một lát lại bắt đầu lảm nhảm, càng ngày càng điếc tai. Lúc trước còn mệt mỏi nên tôi không nghe thấy gì, nhưng bây giờ muốn ngủ lại cũng thực khó khăn.

Nhắm mắt lại, cố gắng chịu đựng hai tiếng đồng hồ, Phan Tử lấy một hòn đá lớn hơn chọi cho Bàn Tử tỉnh hẳn. Lần này ai cũng đừng mong ngủ thêm, cả Thuận Tử cũng bị dựng dậy.

Sửa sang lại trang bị thật cẩn thận, ăn thêm một chút lương khô, chúng tôi lại đi về hướng con rạch bồi táng. Những pho tượng đá hình người màu đen đã hư hỏng vẫn đứng sừng sững, im lìm ở đó, đội ngũ kéo dài rồi biến mất trong bóng đêm vô tận hai đầu.

Tôi được đỡ xuống rạch tuẫn táng, thoáng cái đã đi vào giữa đám tượng đá. Đứng trên cao nhìn xuống những bức tượng này cũng không có cảm giác gì mãnh liệt, nhưng xuống rồi mới thấy chúng cao ngang ngửa tôi, nhìn quanh chỉ thấy vô vàn cái bóng xen kẽ nhau, khiến lòng tôi sinh ra một cảm giác vô cùng bất an.

Bàn Tử chiếu đèn pin về hai phía, nhìn tôi hỏi: "Ông Ba nhà các cậu bảo chúng ta đi theo hướng nước chảy, nhưng giờ chỗ này đã cạn nước, chúng ta nên đi thế nào đây?"

Phan Tử lại gần một bức tượng đá, sờ sờ vết nứt trên mặt, rồi chỉ về hướng mà các bức tượng quay mặt về, nói: "Xem vết nước chảy trên những tượng đá này, đầu bên kia hẳn là hạ lưu."

Bàn Tử cũng tiến lại, nhưng không nhìn ra nguyên cớ vì đâu mà Phan Tử khẳng định được như vậy, bán tin bán nghi nói: "Mạng người quan trọng, anh đừng có đoán bừa đó."

Phan Tử không thèm để ý đến hắn, nói chúng tôi cẩn thận một chút. Mọi người bắt đầu lần theo con lạch, tiến vào bóng đêm sâu thẳm trong lòng con sông đào.

Tôi không có chút ý niệm nào về chiều dài của con sông đào này. Lúc ở trên vách đá đốt pháo sáng quan sát, cả hoàng thành đều ở tít đằng xa, chúng tôi đại khái chỉ nhìn thấy đỉnh của khối kiến trúc, con sông đào này bị khu rừng chết xung quanh che khuất. Lúc đứng trên cây cầu, ánh sáng đèn pin lại không đủ để chiếu sáng toàn bộ bóng đêm, vậy nên chúng tôi cứ đi dọc theo rạch tuẫn táng đến nửa giờ vẫn chưa thấy điểm kết thúc của cái đáy sông vô cùng tĩnh mịch này.

Độ cao của rạch tuẫn táng không đồng đều, có vài đoạn tượng người bị vỡ vụn rất nghiêm trọng, giống như bị thứ gì cực lớn dẫm lên. Loại đá vô danh để tạc tượng này rất cứng, vậy mà cũng vỡ nát. Tôi thậm chí còn phát hiện dưới đáy con rạch thi thoảng lại bắt gặp đầu hoặc tay chân của tượng đá, hình như bên dưới rạch tuẫn táng còn chôn một tầng những bức tượng như thế này nữa.

Hoặc có thể con rạch này ban đầu cũng bị chôn vùi dưới lòng đất, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà công trình bị tạm dừng, thành ra có rất nhiều tượng đá không bị vùi lấp.

Càng đi càng thêm tối, ban đầu đèn pin chiếu vào bờ sông còn có một tia phản quang, ít nhất còn có vật tham chiếu. Cứ đi mãi đi mãi, đến cả bờ sông cũng không chiếu tới nữa, tứ phía đều là bóng tối vây hãm, chúng tôi cũng tự động giảm tốc độ. Phan Tử nhắc nhở chúng tôi tỉnh táo một chút, tuyệt đối không được phân tâm.

Lúc này, Bàn Tử đang đi tuốt đằng trước bỗng dừng lại. Chúng tôi định tiến lên xem sao thì thấy hắn giơ tay ra dấu cho mọi người dừng lại.

Tôi lại gần hắn, nhìn theo ánh đèn pin thì hóa ra đã đi tới cuối rạch tuẫn táng rồi. Những hàng tượng đá đã biến mất, trước mặt là một khối đá cực lớn dùng để kè bờ sông, chắc là đã tới đầu kia của sông đào. Trên kè đá bên bờ sông hình như trạm trổ thứ gì đó cực lớn trông giống tượng Phật khổng lồ ở núi Nhạc Sơn (1). Do đèn pin không thể chiếu sáng được toàn cảnh nên không biết là cái gì. Chỉ thấy dưới đáy bờ kè có một cái động vuông vắn bị đá vụn che lấp, hiện giờ phần lớn số đá vụn đó đã bị dịch sang một bên, lộ ra một cái miệng hang tối đen như mực.

Giống như bài đạo lúc trước chúng tôi chui vào, cái động này cũng là một trong những thông đạo do nhóm thợ xây lăng năm đó lén đào ra, đây là lối thoát duy nhất của bọn họ nếu có ngày địa cung bị phong bế.

"Lại có một đường hầm đào ngược ra à?" Phan Tử kinh ngạc nói: "Cửa ra sao lại ở đây? Chuyện này không thể xảy ra được."

"Sao lại không thể?" Bàn Tử hỏi: "Động đâu phải do anh đào."

Phan Tử nói: "Nơi này lúc đó còn ngập trong nước, anh cho những công nhân này đều là cá à?"

Tôi khoát tay bảo bọn họ đừng cãi nhau nữa, lúc này Thuận Tử kêu lên một tiếng, gọi chúng tôi lại: "Lại đây xem, có thứ gì lạ lắm."

Nói đoạn chiếu đèn pin vào, chúng tôi nhìn vào chỉ thấy trên tảng đá cạnh cái động có người khắc lại mấy chữ.

——————————————–

(1) Tượng Phật khổng lồ ở núi Nhạc Sơn:

Chương 34: Bài đạo dưới nước

Động vuông cao tầm nửa thân người, đào rất cẩu thả. Cạnh đó đều là đá vụn lổn nhổn to cỡ quả dưa hấu, bên trong cũng rất nhiều, rõ ràng có người từng lấp kín cửa động này. Trong động tối đen như mực, không biết dẫn tới tận đâu, có vẻ giống cửa xả nước của đập thủy điện mà tôi thường thấy ở miền nam.

Trong đống đá vụn bên cạnh miệng động, có một khối đá tương đối bằng phẳng, bên trên nguệch ngoạc khắc mấy chữ, rõ ràng được khắc hết sức vội vàng, hơn nữa còn rất nông. Nếu đó không phải là chữ cái tiếng Anh, đặt vào khung cảnh hoàng lăng trông cực kì chướng mắt thì Thuận Tử chưa chắc đã phát hiện ra. Đáng tiếc không thể ghép nối mấy chữ kia lại để biết ý nghĩa của nó là gì.

Đây là chữ do chú Ba khắc lên để đánh dấu đường cho chúng tôi sao? Lúc ấy tôi đã nghĩ ngay theo hướng này, nhưng chú Ba tôi không thạo chữ Tây, đầu óc ổng làm sao mà nghĩ ra cách khắc chữ Tây làm ám hiệu được? Đây không phải tác phong của ổng.

Bàn Tử tò mò đến gần ngó một cái, bỗng 'ồ' lên một tiếng, ngoắc tay với tôi: "Tiểu Ngô à, mấy chữ nước ngoài vặn vẹo này hình như chúng ta đã gặp ở nơi nào đó rồi."

Tôi cũng lại gần, mới liếc qua một cái, bỗng dưng giật nảy mình.

Không phải hình như, mà mấy kí hiệu này chúng tôi đích xác đã từng gặp. Khi tôi và Bàn Tử ở trong huyệt mộ dưới đáy biển, leo xuống đáy cái ao đặt tấm bia đá, Bàn Tử đã trông thấy những kí hiệu như thế này được khắc trên thành ao. Vừa thấy mấy kí hiệu này, Muộn Du Bình đột ngột lao xuống ao, sau đó hắn bắt đầu nhớ lại những chuyện đã xảy ra dưới ngôi mộ đó. Tại sao chúng lại bất ngờ xuất hiện ở đây?

Lúc ấy, tôi vẫn nghĩ kí hiệu này là do năm đó khi chú Ba đưa đám người Văn Cẩm xuống hải mộ, một trong số họ đã khắc nó lên. Nhưng mấy chữ cái này lại đột ngột xuất hiện ở đây, chắc chắn có gì đó không ổn.

Xem vết khắc thì có vẻ là dùng cuốc chim bổ lung tung lên, hơn nữa dấu vết còn khá mới, nếu không phải do chú Ba để lại thì cũng là của Muộn Du Bình hoặc A Ninh, bởi vì ở đây cũng chỉ có mấy người này là mang cuốc chim thôi. Kẻ để lại kí hiệu này, chắc chắn đã đi vào trong động kia.

Bỗng một ý niệm lóe lên trong đầu tôi, thầm nghĩ có khi nào mấy chữ cái tiếng Anh trong mộ huyệt dưới đáy biển kia cũng do Muộn Du Bình khắc xuống, cho nên khi hắn nhìn thấy mấy kí hiệu đó mới nói: "Tôi đã từng đến đây."

Khả năng này cũng khá lớn, khi nào hắn lại thò mặt ra, tôi phải hỏi lại mới được.

Phan Tử thấy tôi ngẩn người, bèn hỏi tôi có chuyện gì. Tôi kể cho bọn họ nghe chuyện tôi và Bàn Tử đã từng gặp mấy kí hiệu này dưới đáy biển, Phan Tử cũng cảm thấy ngạc nhiên. Nhưng rồi anh nói: "Tôi đi theo ông Ba đã mười năm, nói khiêm tốn cũng đổ không dưới năm mươi cái đấu, trong đó đấu lớn cũng có vài cái nhưng chưa thấy ông Ba để lại kí hiệu bao giờ. Hơn nữa ông Ba đến mấy chữ cái ABCD còn không nhớ được, mấy kí hiệu này chắc chắn không phải do ông ấy để lại."

Tôi thầm nghĩ vậy thì chỉ còn A Ninh hoặc Muộn Du Bình, đoạn quay sang nói với bọn họ: "Nói gì thì nói, xem ra chúng ta đã đi đúng đường. Động này đã có người đi vào, cửa vào địa cung hẳn là ngay bên dưới cái động này, chúng ta có nên tiến vào ngay bây giờ không?"

"Đi luôn!" Bàn Tử lập tức tán thành: "Còn chờ cái gì nữa? Cả đội quân đã đi trước chúng ta rồi kìa. Bàn gia ta xưa nay vẫn đi tiên phong, lần này đi chung với mấy đứa xui xẻo các người nên mới chậm chân hơi người ta một bước. Chúng ta đừng lề mề nữa, đợi lát nữa người ta xong việc đi ra, chúng ta chỉ có nước muối mặt đi cướp đồ của họ."

Phan Tử nhìn tôi nói: "Cậu đừng hỏi bọn tôi, thân thể cậu thế nào rồi?"

Tôi gật đầu, ý nói không thành vấn đề: "Bàn Tử nói rất đúng, chúng ta không thể dây dưa thêm nữa. Dù sao nếu đụng phải bánh tông thì tôi không bị thương cũng đi đời, giờ bị thương thế này cùng lắm là chết mau hơn một chút thôi, không sợ."

Bàn Tử bên cạnh đã tháo ba lô của mình xuống, nghe tôi nói vậy thì 'xì' một tiếng: "Hừ, sao cậu không nói chuyện gì may mắn một tí? Cũng không chịu nhìn xem chúng ta sắp đến chỗ nào?"

Tôi trừng mắt liếc hắn một cái, đốp lại: "Đi với anh có dán hai môn thần sau ót cũng vô dụng, anh hãy quản hai cái tay anh cho tốt đi đã."

Chúng tôi đều tự sắp xếp trang bị cho mình. Vừa rồi đóng gói trang bị theo kiểu hành quân, bây giờ chúng tôi nhét hết đèn bão và toàn bộ nhiên liệu vào trong bao, sau đó lấy hết pháo lạnh, gậy huỳnh quang và thuốc nổ ra, buộc ở thắt lưng. Bàn Tử và Phan Tử đều tháo chốt an toàn của súng, rút hộp đạn, gỡ hết đạn trong băng ra nạp đầy vào súng; dao săn, chủy thủ cũng đã sẵn sàng.

Súng trường K56 quá dài, đeo vào động không thể xoay người được. Vì thế Bàn Tử đưa súng cho Thuận Tử giữ, còn mình thì cầm cái cuốc chim. Mọi người kiểm tra lại độ sáng của đèn pin, Bàn Tử rút bùa Mô Kim, cầm trên tay ngẩng mặt lên trời bái lạy.

Thuận Tử cũng là người dùng súng thành thạo, vừa nâng súng lên 'răng rắc' vài cái đã quen tay, đầy cảm giác hoài niệm, sau đó quay sang nói với chúng tôi: "Các vị, tôi không hiểu lắm về nghề của các vị, nhưng vẫn phải nhắc nhở một câu. Trong những cái động được đào trên núi Trường Bạch này, phải coi chừng bọn tuyết mao tử. Nếu thấy có gì không ổn thì trước hết phải lấy bông bịt lỗ tai lại. Mùa này đầu chúng còn mềm nên chỉ chui được vào lỗ tai, đợi đến mùa hè, lớp vỏ ngoài đã cứng cáp rồi thì còn có thể xuyên qua da người, chỉ thò ra hai sợi râu. Các người có kéo thì cũng chỉ có sợi râu đứt ra, còn con trùng vẫn ở bên trong, phải khoét sâu vào miệng vết thương mới lấy ra được. Còn nữa, thứ này cũng hay chui vào hậu môn, lúc ngồi phải cực kì cẩn thận."

Bàn Tử chán nản liếc nhìn Thuận Tử, vô thức giữ chặt dây lưng, nói: "Bây giờ côn trùng cũng có sở thích này sao?"

*Phụt, lão béo liên tưởng sâu xa quá =))*

Thuận Tử nói: "Tôi không đùa với các người đâu, lỡ dính trấu thì tự nghĩ cách mà lôi ra, đừng có hỏi tôi."

Chúng tôi cảm thấy nửa người dưới phát rét, ai nấy đều gật gật đầu. Bàn Tử lại tiếp tục làm đầu tàu gương mẫu, chui người vào động, chúng tôi cũng nối đuôi nhau chui vào, bắt đầu tiến vào thế giới mới mẻ chưa ai khám phá trong lòng đất sâu.

Cái động vuông vắn này phải uốn người mới vào được, động được đào song song, chúng tôi vừa đi vừa nhìn xung quanh xem xét, do trần động thấp lè tè nên đi rất chậm. Đá ở nơi này cực kì rắn chắc, nhìn những dấu vết đục đẽo thì đường hầm này rõ ràng được đào bằng phương pháp nguyên thủy nhất. Tôi nghĩ, để xây được một hoàng lăng quy mô lớn thế này phải mất bao nhiêu thời gian? Kiểu gì cũng phải trên hai mươi năm, rất nhiều hoàng đế vừa đăng cơ đã bắt tay vào xây lăng mộ rồi. Hơn hai mươi năm, đào đường hầm này cũng là hết sức miễn cưỡng, xem ra năm đó nhóm người bỏ trốn phải có số lượng rất lớn.

Càng đi vào sâu, càng phát hiện nhiều dấu vết của những người đã từng đi qua đây. Dấu giày leo núi vẫn nối tiếp không dừng, cũng không thấy tuyết mao tử đâu cả, nhưng tôi lại phát hiện trên nóc đường hầm có những ngã rẽ kì quái.

Những cái động này cũng không lớn lắm, chỉ đủ chứa một người, hơn nữa còn ngoằn ngoèo uốn khúc 180 độ, sau một đoạn hướng thẳng lên trên sẽ đổi hướng chúc ngược xuống dưới, giống như một đường ống uốn lượn hình số 9. Những cái động như thế, đại khái cứ cách mười mét lại có một cái.

Từ khi bước chân vào nghề này, tôi đã bò qua không biết bao nhiêu cái động nhưng chưa từng thấy cái nào kết cấu như vậy. Nhìn dưới góc độ kiến trúc, khối lượng công việc khi đào những chuỗi động này tương đương với đào một đường hầm hoàn chỉnh. Những cái động này tất nhiên phải có lí do tồn tại tất yếu, bằng không thì quá lãng phí sức lực, nhưng hiện giờ quả thực tôi không tài nào nhìn ra công dụng của chúng là gì.

Phan Tử ở đằng sau tôi hỏi: "Cậu Ba, cậu có thấy đường hầm này trông quen quen không?"

"Quen sao?" Tôi dừng lại một lát, quay đầu hỏi anh sao lại hỏi vậy.

Phan Tử nói: "Hồi chúng ta đến miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông có đi qua động xác, đường hầm dẫn vào động chẳng phải cũng giống thế này sao? Lão già dẫn đường chẳng phải đã nấp vào một cái động trên trần để hại chúng ta sao?"

Nghe anh nói vậy, tôi cũng nhìn kĩ lại những cái động con trên đỉnh đầu. Hồi ở Sơn Đông tôi sợ chết khiếp đi được, làm gì còn tâm trí mà để ý nhìn lên trần cái động xác ngập nước kia, nên bây giờ cũng chịu không so sánh được. Nhưng Phan Tử đã nói thế thì chắc không sai nên tôi cũng sinh lòng nghi hoặc, bèn hỏi anh: "Anh chắc chắn chứ?"

Phan Tử cũng không dám chắc chắn, đáp: "Chúng ta nghe lão già kia nói mới biết trên trần động còn có động nữa, chứ lúc mình đi vào trong động tối đen như mực, nào có phát hiện ra."

Tôi dừng lại, nhìn kĩ những cái động rẽ nhánh trên đầu, lập tức hiểu ra tác dụng của nó, bèn nói: "Lúc ấy, cái động xác kia cũng ngập nước nhỉ?"

Phan Tử gật đầu, nói đúng rồi. Tôi lại tiếp tục: "Những động rẽ nhánh phía trên này thật ra chỉ để hít thở. Anh xem, khi nước tràn vào bài đạo này, do kết cấu gấp khúc nên động nhánh sẽ chứa đầy không khí. Vậy cứ bơi một đoạn lại ngoi lên chui đầu vào động nhánh hớp một ngụm dưỡng khí là có thể bơi tiếp."

Phan Tử tỏ vẻ kinh ngạc, nói: "Đúng là một biện pháp tài tình. Nói vậy năm đó cái bài đạo này quả thực chìm trong nước sao?"

Tôi nói: "Gần như thế. Xem ra, cái đạo động ngập nước ở miếu Hạt Dưa kia, không chừng cũng do người của Uông Tàng Hải đào ra." Ngẫm lại thì thấy không đúng lắm, cái đạo động kia đã có từ lâu lắm rồi, chú Ba tôi đoán là từ thời Chiến quốc, có thể Lỗ thương vương đã đào nó lúc vào núi xây lăng. Không lẽ sau khi nhìn thấy động xác kia, Uông Tàng Hải đã học hỏi kĩ thuật của cổ nhân? Khả năng này cũng khá lớn.

Đi một lúc khá lâu, cũng không biết đã được bao xa, bài đạo dần dần rộng mở, rốt cuộc cũng thấy được lối ra. Chúng tôi bò ra ngoài, trước mặt tất nhiên là một con sông, sâu chừng mười mét, rộng năm, sáu mét, lòng sông đã cạn khô.

Tôi xem xét tình hình con sông này một chút, nói: "Đây là kênh dẫn nước, nước trong sông đào kia chắc chắn được dẫn từ đây ra. Giữ cho nước lưu thông sẽ không bốc mùi hôi thối, hơn nữa cũng có thể đề phòng nước chảy ngược lại."

Hai bên sông đều có bờ đất rộng đủ cho một người đi, đoạn trên còn dựng một cây cầu đá. Chúng tôi cẩn thận nhích lại gần, đi sang bờ bên kia, Bàn Tử lại hỏi phải đi tiếp thế nào?

Tôi nói: "Sông này thông với sông ngoài kia, có lẽ chỉ tính là một con sông, chúng ta cứ đi theo hướng nước chảy thôi."

Phan Tử ngồi thụp xuống, nhìn vết nước chảy, chỉ về một hướng, nói: "Chỗ đó."

Chúng tôi tiếp tục hướng về phía trước, không bao lâu sau, trên vách đá cạnh bờ sông xuất hiện một cái động vuông vắn.

Bàn Tử châm một cây pháo lạnh ném ra, chiếu sáng nền đá màu đen phía ngoài cửa động, hiển nhiên đây là tường đá phong cửa địa cung. Bàn Tử chui vào, liên tục châm những cây lạnh ném ra xung quanh, sau đó gọi chúng tôi, chúng tôi mới chui ra khỏi đường hầm.

Bên ngoài cửa động là một gian mộ thất xây bằng nham thạch đen, không cao lắm, người có thể miễn cưỡng đứng thẳng nhưng rất rộng. Bốn phía mộ thất đều bày vô số vại sành sắp xếp cực kì ngay ngắn, có thể đây là những bình rượu bồi táng. Mỗi vại cao cỡ nửa người, ước tính số lượng lên đến hàng ngàn, xem ra Vạn Nô hoàng đế đúng là một con sâu rượu.

Trên vách tường màu đen bốn phía có khắc mấy phù điêu đơn giản tả cảnh hoàng đế đang thiết yến. Phù điêu này bảo quản cũng không được tốt, có thể là vì nó thông ra bên ngoài. Khí núi lửa ở nơi này tuy không đến nỗi chết người như Phan Tử nói, nhưng khả năng ăn mòn chắc chắn mạnh hơn không khí bình thường, bích họa ở đây có thể bảo tồn đến thế này đã là cả một kỳ tích. Đáng tiếc là những hình ảnh hiếm hoi sót lại giờ chỉ còn nhìn được mang máng.

Trên hai bức tường nằm ở hai phía trái, phải của mộ thất có một tảng đá chẹn cửa, đằng sau là hành lang tối om om. Một cơn gió lạnh buốt từ trong đó thổi ra, Bàn Tử bèn nhặt hai cây pháo lạnh, ném một cây vào trong đó nhưng vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng.

Chương 35: Hầu đầu thiêu

Phan Tử thấy sắc mặt tôi không ổn, bèn bảo tôi nghỉ ngơi một lát. Tôi quả cũng hơi quá sức, liền ngồi lên một vò rượu lớn mà thở dốc, còn những người khác sắp xếp lại trang bị. Thuận Tử chưa từng đến những nơi như thế này, bèn nhặt lên một cây pháo lạnh, tò mò ngắm nghía xung quanh, nói: "Đúng là trăm nghe không bằng một thấy, không ngờ trong lòng núi Trường Bạch lại chôn vùi một nơi như thế này. Lần này xem như tôi được mở rộng tầm mắt."

"Xuống sâu thêm, sẽ còn gặp nhiều thứ anh chưa từng thấy." Phan Tử nói: "Tôi đoán những vật phẩm năm đó Đại Kim cướp đoạt từ Nam Bắc Tống, cộng thêm những bảo bối Nam Tống tiến cống hàng năm, nếu không rơi vào tay Thành Cát Tư Hãn thì chắc chắn phải ở chỗ này."

"Đừng có tưởng bở." Bàn Tử nói: "Năm đó phần lớn đồ tiến cống của Nam Tống là vải vóc lụa là, những thứ này không dễ bán, mà cũng khó ra tay, tôi thấy dù có lấy ra được thì cũng mục nát cả rồi. Chúng ta đừng một mực tơ tưởng ngọc ngà châu báu trong địa cung, nên cân nhắc lợi ích trước mắt vẫn hơn." Nói rồi đi săm soi mấy bình rượu, định di chuyển thử một bình xem dưới đáy có khắc chữ gì không.

Tôi nói với hắn: "Anh đừng táy máy, loại bình này rất thô ráp, có đem cho người bán lòng dê để chẹn dưa người ta cũng không thèm."

Bàn Tử cãi: "Ai bảo tôi nghĩ đến mấy cái bình này? Đừng tưởng Bàn gia đây chỉ khoái minh khí nhé." Hắn lấy dao găm rạch lớp giấy dán kín miệng bình, tức thì một mùi hương kì lạ nhẹ nhàng bay ra, nói thơm không thơm, nói hôi cũng không hôi, ngửi nhiều còn thấy nghiền, không biết là thứ rượu gì.

Trong cổ mộ cất giấu rượu, tôi xem sách cổ đã thấy nhắc đến rất nhiều, nhưng đây mới là lần đầu được thấy tận mắt. Cho nên tôi cũng nổi tính hiếu kì, lại gần xem thử.

Rượu màu đen, vô cùng tinh khiết, phần nước bên trong gần như không đã bay hơi hết nên chỉ còn lại có nửa bình. Người sành rượu đều biết đây là đặc trưng của rượu ủ lâu năm, nửa bình này chính là phần rượu tinh túy nhất, thực là mê người. Nhưng nói thế nào thì rượu này cũng để quá lâu rồi, không biết đã quá đát chưa.

Tôi nhớ rõ thứ rượu cổ nhất ở Trung Quốc là rượu khai quật được ở Hà Nam năm 1980 trong một ngôi mộ cổ cuối thời nhà Thương (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XI TCN). Hiện tại đã được đưa vào viện bảo tàng cố cung, sơ sơ cũng được hơn 3000 năm tuổi. Nghe nói khi bật nắp vò rượu ra mùi hương đã quật ngã vài người, cũng không rõ mấy người này có uống thử hay không nữa, nếu không thì đã có cái mà tham khảo.

Bàn Tử dùng dao chấm một cái, định thử một ngụm thì bị tôi giữ chặt lại: "Anh chán sống rồi hả? Đồ quá đát cẩn thận ăn vào đau bụng đó."

Bàn Tử nói: "Cậu chả hiểu cái khỉ biển gì cả, rượu ủ trong hầm có để mấy ngàn năm cũng không lo hỏng. Nghe nói ăn bã rượu nghìn năm dưới đáy bình còn có thể trường sinh bất lão, nghe đâu tổ tông chúng ta có người còn đi đổ đấu chỉ vì mấy bình rượu này. Mình chỉ nếm thử một tí chắc không sao đâu, cùng lắm thì đau bụng một trận."

Còn chưa nói hết câu, Phan Tử đã bước tới tung một cước đá cho vò rượu kia ngã chổng kềnh, chất rượu màu đen cùng với bã rượu dưới đáy chảy tràn ra đất. Một mùi hương nồng đậm lập tức xông thẳng vào mũi, bàn Tử vừa định nổi giận thì Phan Tử đã nói: "Đừng nóng, anh xem trong đống bã rượu kia có cái gì?

Tôi và Bàn Tử ngoảnh lại thì thấy giữa đống bã rượu màu đen trông như bùn lầy có rất nhiều sợi màu đỏ sậm, giống như sợi bông xổ ra từ những cái chăn cũ, thứ này chúng tôi rất hay gặp trong những quan tài bị ngâm nước.

Bàn Tử lấy dao găm gảy gảy mấy cái, sắc mặt biến đổi. Tôi qua ngó một cái thôi cũng thấy da đầu tê rần, cảm giác cực kì ghê tởm, chỉ muốn nôn ra một trận.

Những sợi màu đỏ này là một khối thi thể trẻ con còn chưa rữa nát, thịt gần như đã tan vào với rượu nhưng da và xương vẫn ở dưới đáy nên mới hình thành một mớ trông như sợi bông rách nát.

Phan Tử thấy chúng tôi trợn mắt há mồm, bèn ngồi xuống, nói: "Đây là một loại rượu ở Quảng Tây có tên 'Hầu đầu thiêu', thứ này không phải người mà là khỉ con chưa đầy tháng. Có thể là rượu do triều đình Nam Tống tiến cống khi nước Đại Kim của người Nữ Chân còn cường thịnh, ủ trong hầm đến giờ." Nói rồi vỗ vai Bàn Tử, dùng dao găm khêu một ít 'sợi bông', làm một động tác cung kính mời: "Có trường sinh bất lão hay không thì tôi chịu, nhưng nghe nói công hiệu tráng dương cũng không tồi. Anh thử xem, đừng khách khí."

Bàn Tử ghê tởm hất con dao ra, mắng vốn mấy câu, rồi hỏi Phan Tử: "Thằng oắt này sao mà hiểu rõ thế? Con mẹ nó, hay anh đã từng uống cái thứ rượu này rồi hả?"

"Lúc vào núi Nam Cung ở Thiểm Tây tôi đã gặp những hũ rượu như thế này, khi đó Đại Khuê cùng với một người khác lấy thử một hũ đem ra. Từ đầu tôi đã thấy có gì đó không ổn nên không dám chạm vào, nhưng hai người kia không nghe. Kết quả uống đến cạn bình mới phát hiện thứ ở dưới đáy, sau đó vì chuyện này mà Đại Khuê phải nằm viện hai tháng."

Nói đến Đại Khuê, Phan Tử lại có vẻ bồi hồi: "Tôi cũng chẳng ghét bỏ gì anh, nếu có ý hại anh tôi đã chờ anh uống một ngụm rồi mới đá ngã cái bình cho anh mất mặt chơi."

Bàn Tử mặt mày nhăn nhó, muốn nổi cáu cũng không tìm ra cớ gì, trông rõ buồn cười.

Lúc này pháo lạnh đã lần lượt tắt, bóng tối lại bao phủ. Chúng tôi bật đèn pin, không khí xung quanh thoáng cái như nén chặt lại.

Nghỉ ngơi một lát, lại một lần nữa xung phong mở đường, Bàn Tử đòi lại cây súng trường bảo bối của hắn, lại kéo chốt an toàn ra, đây thực chất là một động tác quen tay của mấy người mang súng nhằm lấy thêm cho mình ít can đảm. Hắn nhìn hai mộ đạo hai bên, khẽ hỏi: "Đi hướng nào?"

Chúng tôi đều định thần lại, đúng lúc này Thuận Tử chỉ sang bên trái, nói: "Bên này có vẻ ổn hơn."

Bình thường, khi gặp những tình huống thế này thì đều là Phan Tử hoặc tôi trả lời. Bây giờ Thuận Tử vốn nhu thuận lại liều lĩnh nêu ý kiến, khiến Bàn Tử không hiểu ra sao, bèn hỏi lại: "Vì sao?"

Thuận Tử chiếu đèn pin xuống mặt đất trước con đường bên trái, chúng tôi nhìn lên thì thấy ở một chỗ khuất tầm mắt cạnh hành lang có khắc vài kí tự tiếng Anh.

"Vừa rồi tôi tình cờ trông thấy, tôi nghĩ có người muốn chỉ đường cho các vị." Hắn nói với chúng tôi.

Chương 36: Kí hiệu

Tôi ngồi thụp xuống, cố gắng đọc mấy kí tự tiếng Anh này thêm lần nữa, nhưng vẫn không có kết quả. Những đường nét này quá mức lộn xộn, tuy có thể nhận ra nó chính là từ chúng tôi đã thấy ở cửa động vuông ban nãy, nhưng rốt cuộc hợp thành chữ gì thì không thể dịch ra nổi, khiến tôi thậm chí bắt đầu hoài nghi đây không phải chữ cái tiếng Anh.

Bàn Tử cũng tỏ ra hiếu kì, hỏi: "Anh chắc chắn cái này không phải do ông Ba nhà anh lưu lại chứ?"

Phan Tử gật đầu, tỏ ý khẳng định tuyệt đối: "Ông Ba không màu mè như thế, nếu phải lưu lại kí hiệu, bình thường chỉ cần nhìn một cái là đoán ra. Đây chắc chắn không phải ký hiệu do ông Ba để lại, tôi thấy nên cẩn thận một chút. Kí hiệu chưa chắc đã dùng để chỉ đường đâu."

Tôi hiểu ý của Phan Tử, nếu kí hiệu này không dùng để chỉ đường thì có thể là một loại cảnh báo nguy hiểm. Nhưng lúc ở ngôi mộ dưới đáy biển kia, sau khi trông thấy mấy kí hiệu này cũng không xảy ra chuyện gì nguy hiểm. Hơn nữa hành lang có hai nhánh, không rẽ vào nhánh này thì cũng vào nhánh kia, cả hai đều không chắc chắn, chọn nhánh nào cũng như nhau cả, lúc này do dự cũng vô ích.

Vậy là Bàn Tử vẫn xung phong đi đầu, tôi bám theo sau, tiến vào hành lang. Bên trong rất rộng, đủ cho hai con xe cam nhông sánh vai tiến vào. Bàn Tử chui vào, nói đây là la đạo, chính là đường dành cho xe la kéo lúc xây dựng công trình. Khả năng này rất lớn, bởi vì tôi chưa bao giờ thấy mộ đạo nào rộng đến thế. Trên mặt đất còn có thể nhìn thấy lờ mờ những vết bánh xe từ thời đó, nhưng lạ thay bên trong hành lang này rất lạnh, nhiệt độ không biết đã giảm bao nhiêu nhưng lại có gió lạnh từ bên trong thổi ra, hình như nó thông ra ngoài trời. Chúng tôi đều biết cổ mộ nào cũng chú trọng sự kín đáo, vậy gió này từ đâu thổi tới?

"Đây là tự lai phong" Phan Tử cũng bị bầu không khí ở đây ảnh hưởng, hạ giọng nói với tôi: "Các cụ chúng ta ngày xưa gọi cái này là quỷ thở, trong những ngôi mộ lớn thường xuyên gặp chuyện này, không có gì nguy hiểm đâu."

"Có căn nguyên gì không? Nó sinh ra như thế nào?" Tôi hỏi.

Phan Tử lắc đầu: "Từ xưa truyền lại chỉ có thuyết pháp, cũng chẳng ai nghiên cứu làm gì, hơn nữa mấy cái chuyện thế này tốt nhất đừng có nghiên cứu."

Tôi thầm nghĩ cũng phải thôi, vào thời đó dân trộm mộ đều là vì miếng cơm manh áo, chỉ cần biết có nguy hiểm hay không, chứ còn các hiện tượng kì quái sinh ra như thế nào thì cũng không hơi đâu mà bận tâm.

Hành lang đoạn đầu còn bằng phẳng, một lúc sau đã bắt đầu phát hiện tình trạng sụt lún, mặt đá vỡ vụn. Vô số phiến đá đen lộ ra trên mặt đất, khiến con đường trở nên cao thấp nhấp nhô, đây là thiệt hại tự nhiên gây ra do sự vận động của vỏ trái đất. Hai bên hành lang cách một đoạn lại có một cái xà hình vòm gia cố, bên trên đều khắc hình rồng uốn quanh, rất nhiều cây xà đã bị rạn nứt. Tôi nghĩ nếu không có mấy cái trụ này gia cố thì hành lang đã sụp từ đời tám hoánh nào rồi.

Dọc đường không ai mở miệng, mọi người đều lặng lẽ đi hết bảy, tám mươi mét. Bỗng Bàn Tử đột ngột dừng lại, nói: "Cửa à?"

Chúng tôi dừng lại, chiếu đèn pin về phía trước, chỉ thấy cuối hành lang xuất hiện một cánh cửa mộ bằng đá đen. Mái cong và ngói úp bên trên cánh cửa đều trạm trổ hoa văn vân long, thảo long và song sư hí cầu. Bản lề cửa hình như làm từ kim loại, trên cánh cửa bên trái khắc hình một con dê, bên phải khắc hình một thứ gì đó không rõ tên. Đến gần ngắm nghía mới biết cửa đá đóng rất chặt, khe cửa lẫn chốt cửa đều dùng đồng lỏng bịt kín, nhưng trên bụng con dê ở cánh cửa bên trái đã bị người ta nổ ra một cái lỗ to bằng miệng chậu, gió lạnh chính là từ đây thổi ra.

"Đây không phải cửa." Tôi đẩy thử: "Không mở ra được thì không phải cửa. Đây là phong thạch, chỉ là một khối đá lớn chồng lên chỗ này, sau đó dùng đồng nóng chảy bịt kín lại thành một khối hoàn chỉnh, tạo hình cánh cửa. Bàn Tử nói đúng, hành lang này là la đạo, xây rộng như thế để la dễ dàng vận chuyển những khối đá này."

Bàn Tử ngồi thụp xuống, ngắm nghĩa cái lỗ bị phá ra trên cánh cửa. "Trong mộ đạo có phong thạch, xem ra mộ đạo này rất quan trọng, có thể thông đến trung tâm địa cung. Coi như chúng ta đã đi đúng đường, dấu hiệu kia có lẽ thật sự muốn chỉ đường cho chúng ta. Hơn nữa nổ ra một cái lỗ to tổ chảng thế này chứng tỏ bọn họ đã vào rồi." Nói rồi thò nửa cái đầu vào, cầm đèn pin chiếu khắp xung quanh.

Chúng tôi hỏi hắn thế nào, bên trong có gì không?

Hắn nói: "Vẫn là đường đi thôi, bên trong còn một tảng phong thạch nữa, xem ra Vạn Nô hoàng đế từ nhỏ đã có cảm giác thiếu an toàn."

Tôi nói: "Nhảm ruồi. Đến cửa nhà anh còn có ba lần khóa, phong thạch ít nhất cũng có ba khối, đó là ba nghìn thế giới, anh hiểu không?"

Bàn Tử không nghe thấy tôi nói gì, hắn ném cái đèn pin vào bên trong, co người chui qua cái lỗ, bước về phía tảng phong thạch trước mặt. Tôi nghe tiếng hắn lắp bắp một mình: "Đệch, lạnh sun người."

Phan Tử đưa khẩu súng cho hắn cầm rồi cũng chui sang theo hắn. Tôi bám ngay sau Phan Tử, còn Thuận Tử đi sau cùng, cả đám chui hết vào động. Quả nhiên đằng sau vẫn là mộ đạo, nhiệt độ hạ thấp, người tức khắc có cảm giác run rẩy. Phía trước vẫn còn một khối phong thạch, nhưng khối đá này có vẻ đơn giản, không thấy mái cong trang trí bên ngoài. Trên mặt tảng phong thạch này cũng bị nổ ra một cái lỗ còn to hơn cái lỗ đầu tiên.

Chúng tôi không dừng lại, tiếp tục tiến tới, phía sau vẫn như thế, mộ đạo cứ thế kéo dài, trước mặt lại là một tảng phong thạch, bên trên có một cái lỗ lớn.

"Khốn kiếp. Con mẹ nó, vẫn chưa hết à." Bàn Tử rủa xả.

Tôi đáp: "Chuyện thường thôi, phong thạch thông thường đều nặng bảy tám tấn, mộ đạo hơi dài một chút sẽ có sáu, bảy tầng phong thạch. Tình hình xem ra khá thuận lợi, độ dày phong thạch cũng chỉ có một nửa. Tổ tiên chúng ta ngày xưa không có thuốc nổ, gặp những cổ mộ có phong thạch chắn đường thế này thì chỉ có nước bó tay."

Trong khi chuyện phiến, chúng tôi đã chui qua khối phong thạch cuối cùng. Trước mắt chúng tôi xuất hiện một ngã tư đường. Một mộ đạo khác cắt qua trước mặt, giao vuông góc với hành lang chúng tôi đang đứng, mà cái mộ đạo này rộng gấp rưỡi hành lang, chiều cao còn lớn hơn rất nhiều.

Chúng tôi lục tục đi đến giữa ngã tư đường, phát hiện mộ đạo này có màu đỏ hồng chứ không đen thui như vừa nãy, phía trên vẽ những bức bích họa rất đẹp, dường như nối liền với nhau, kéo dài đến những nơi mà ánh sáng đèn pin không chiếu tới được. Thậm chí trên đỉnh mộ đạo cũng là những bích họa màu sắc rực rỡ.

Tôi xuýt xoa tán thưởng: "Đây nhất định là mộ đạo chính thông thẳng đến quách điện rồi, cũng chính là trục đối xứng của cả tòa huyền cung dưới lòng đất, nếu không sẽ không trang trí hoa lệ cỡ này."

"Đừng có vỗ tay tán thưởng. Chúng ta là trộm, vấn đề muôn thuở vẫn là đi hướng nào?" Bàn Tử hỏi: "Mau tìm xem quanh đây có dấu hiệu chỉ đường nào không?"

Sau mấy lần đi xuyên qua những đường hầm chật chội, chúng tôi đã sớm mất đi cảm giác về phương hướng. Muốn phân biệt mộ đạo chính này đầu nào thông đến trung tâm địa cung, đầu nào thông đến cửa mộ thì buộc phải dựa vào dấu hiệu của người đi trước, bằng không chỉ có nước tung tiền xu mà đoán hướng.

Chúng tôi chiếu đèn pin xẹt qua xẹt lại tìm kiếm kí hiệu, những bức bích họa màu đỏ phản chiếu lại một thứ ánh sáng khiến người ta có cảm giác hết sức bất an. Bích họa nơi này cùng một kiểu với tấm bích họa chúng tôi thấy trong khe suối nước nóng khi mới lên núi, tất cả đều là mỹ nữ cùng với xe tiên cưỡi trên mây, hình như không có ý nghĩa gì đặc biệt. Đương nhiên nếu mời nhà khảo cổ đến đây chắc chắn sẽ nói ra vài điều hay ho, nhưng dưới con mắt của chúng tôi, bích họa không có tính chất tự thuật thì đơn thuần chỉ để trang trí, cái ý nghĩa tượng trưng gì gì đó chúng tôi không nhìn ra nổi.

Mới tìm được một lúc, Phan Tử bên cạnh đột nhiên "ồ" lên một tiếng, gọi chúng tôi lại.

Chúng tôi vây quanh xem xét, quả nhiên phát hiện một kí hiệu khắc ở một góc tường mộ đạo.

"Con mẹ nó, chúng ta gặp đồng chí Lôi Phong sống (*) của giới đổ đấu rồi, thế là đỡ rách việc." Bàn Tử nói: "Chúng ta cứ lần theo đường này là đến nơi."

Tôi lắc đầu, bởi vì kí hiệu này trông không giống mấy kí hiệu chúng tôi đã tìm được trước đó.

(*) Nguyên văn: Hoạt Lôi Phong (活雷锋)Lôi Phong nổi tiếng vì bản tính tốt bụng, thích giúp đỡ người khác, 'Lôi Phong sống' ý muốn ca ngợi người tốt làm việc tốt thôi.

Chương 37: Kí hiệu mới

Tôi đã không còn nhớ rõ hình dạng kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, nhưng hai kí hiệu khắc trên thành con sông đào và trên cửa vào hành lang thì vẫn còn nhớ như in, chắc chắn kí hiệu mới này hoàn toàn khác với hai cái đó. *nghi vấn hack – phải chăng cả 3 cái kí hiệu mới gặp này đều là chữ Nữ Chân và không phải của anh Bình để lại :v*

Bàn Tử và Phan Tử nhắc đến chữ cái tiếng Anh đều ù ù cạc cạc, chỉ cần là tiếng Anh thì bọn họ coi chữ nào cũng như chữ nào, cho nên vừa rồi mới không để ý. Nhưng tôi đã học xong đại học, từng thi bằng CET (*), thành tích có cùi mía đến đâu thì ít ra cũng biết đây là hai từ khác nhau.

(*) Nguyên văn là "tứ lục cấp" (四六级), tức cuộc thi tiếng Anh cấp quốc gia lớn nhất của Trung Quốc, tên tiếng Anh là Colledge English Test, viết tắt là CET. Kết quả thi chia làm 2 mức chuẩn là 4 và 6, 4 là mức cơ sở, 6 là mức nâng cao, do đó nó còn có tên gọi là tứ lục cấp.

Tôi vẫn nghĩ đây chỉ đơn thuần là một kí hiệu chỉ đường, cùng loại với những hình vẽ đơn giản, chỉ có ý nghĩa 'đi theo hướng này' mà thôi. Nhưng nếu chỉ đơn thuần dùng để chỉ đường thì kí hiệu không nên thay đổi mới phải. Dựa vào tâm lý thông thường của con người thì sau khi tiến vào mộ đạo, sự chú ý sẽ hoàn toàn đặt vào cảnh vật xung quanh, lúc khắc kí hiệu không thể có chuyện cố ý thay đổi cho đa dạng. Hơn nữa kí hiệu được khắc rất vội vàng chứng tỏ người để lại kí hiệu cũng không nhàn nhã thong thả gì, khả năng hắn có hứng muốn thay đổi kí hiệu lại càng nhỏ.

Vậy chỉ còn một lí do nữa, đó là những kí hiệu này không mang cùng ý nghĩa. Người này vừa dẫn đường, mà hình như cũng vừa muốn báo cho chúng tôi tin tức gì đó.

Vấn đề ở chỗ tin tức kia rốt cuộc là gì? Những chữ này không phải tiếng Tây, nhưng lại là từ đơn do chữ cái tiếng Anh ghép thành, thực sự không nhìn ra là thứ tiếng gì, chỉ biết chắc chắn không phải những thứ tiếng thường gặp như Pháp hay Đức, bởi vì thứ tự sắp xếp chữ cái rất vô tổ chức.

Vả lại khi chúng tôi nhìn thấy kí hiệu dưới đáy sông và trước cửa vào hành lang, lúc tiến vào cũng không gặp nguy hiểm gì, vậy nếu đặt giả thiết kí hiệu đó mang ý nghĩa: có thể an toàn đi vào, thì cái kí hiệu lạ lùng khắc ở đây chắc chắn sẽ mang ý nghĩa khác hẳn. Chắc gì đây không phải một loại cảnh báo, ý nói hướng mộ đạo này có nguy hiểm đáng sợ gì đó?

Đám Bàn Tử nghe tôi thao thao một tràng cũng hiểu kí hiệu này có vấn đề. Chúng tôi đứng yên tại chỗ, tạm thời không dám manh động.

Nhưng đến được nơi này cũng coi như một bước đột phá không tồi, có thể nói đã thành công một nửa. Bây giờ đi về hướng nào của mộ đạo cũng không còn quan trọng, cho dù không có kí hiệu chỉ đường, chúng tôi vẫn không hề lo lắng.

Chẳng qua sau khi tiến vào địa cung, đặc biệt là mộ đạo chính thì mọi việc nhất định phải cẩn thận hết sức thôi. Bởi lẽ nếu trong cổ mộ có cơ quan bẫy rập thì chắc chắn sẽ đặt ngay khúc này, tốn chút thời gian ở đây cũng là phải đạo.

Phan Tử nói với tôi: "Cậu Ba, trong số chúng ta chỉ có cậu là biết tiếng Tây, nếu đến cả cậu cũng không đọc được thì cả lũ bó tay rồi. Hay là cậu phiên dịch mấy chữ tiếng Anh này ra tiếng Trung cho chúng tôi nghe, dù không hiểu ý cả câu nhưng chúng ta cũng có thể đoán mò mà?"

Phan Tử đến một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết, có lẽ anh ấy tưởng tiếng Anh thực ra cũng giống tiếng Trung, mỗi chữ cái mang một ý nghĩa *=))))* Tôi cũng lười xóa mù chữ cho anh, bèn nói: "Muốn đoán chi bằng đoán xem kí hiệu này do ai để lại, mục đích để lại là gì, như thế xác suất đoán trúng ý nghĩa còn lớn hơn."

Bàn Tử nghi hoặc nói: "Ai để lại thì chịu chết rồi, nhưng mục đích còn phải đoán nữa sao? Cái này không phải để dẫn đường cho chúng ta à?"

Tôi lắc đầu: "Ban đầu tôi cũng nghĩ vậy, nhưng giờ xem ra không phải. Nếu thực sự viết cho chúng ta thì ít nhất cũng nên dùng kí hiệu mà chúng ta đọc được chứ. Người khắc mấy kí hiệu này dùng hình thức cực kì tối nghĩa, xem ra mục đích không phải là giúp chúng ta. Chúng ta có thể đã ăn may, kí hiệu này rõ ràng là để lại cho người khác."

Phan Tử ngẫm nghĩ một lúc, cảm thấy có vẻ hợp lý, lại hỏi: "Vậy người khác là ai?"

"Đám người của A Ninh đông như kiến, có thể họ chia ra vài nhóm để hành động. Kí hiệu này có thể là ám hiệu giữa mấy tiểu đội của bọn họ." Bàn Tử đáp.

Tôi gật đầu, tỏ ý khả năng này có thể xảy ra, nhưng không có căn cứ, tình huống thực tế không thể phán đoán. Tôi nói: "Cũng có thể còn nguyên nhân khác nữa, bây giờ có đoán cũng vô ích."

Điều tôi quan tâm nhất chính là tin tức ẩn chứa trong kí hiệu, kí hiệu này hẳn là cùng loại với kí hiệu trong bản đồ thám hiểm quốc tế. Có những con đường mòn xuyên qua rừng rậm nguyên sinh, trên bản đồ luôn phân chia thành nhiều cấp bậc nguy hiểm. Một kí hiệu ngoài việc cho anh biết chỗ này có thể đi được thì còn nói rõ trên con đường này có thể gặp phải thứ gì, ví dụ như trên đoạn sông có hà mã sẽ có ám hiệu mang ý nghĩa 'hà mã' chẳng hạn.

Đi đến đây kí hiệu đột ngột thay đổi, khiến người ta không thể không thắc mắc ý nghĩa đặc biệt của kí hiệu kia. Phải chăng đây là cảnh báo trong mộ đạo này có bánh tông? Cái này thực sự làm cho người ta buồn bực.

Tôi chợt nghĩ tới dòng chữ cảnh báo trên xe Jeep 'Có gấu xuất hiện, chú ý!' Có lẽ người lưu lại kí hiệu cũng có cách thức làm việc giống khi thám hiểm. Kí hiệu này có lẽ muốn nói 'Có bánh tông xuất hiện, chú ý!'. Tôi lập tức tưởng tượng nếu như có thể sống sót trở ra, mình có nên dán cái kí hiệu này lên con xe Jinbei ở nhà (1) cho nó cá tính không.

Phan Tử không biết tôi đang nghĩ nhăng nghĩ cuội, đột ngột mở lời: "Cũng không đúng, tôi cảm thấy ý nghĩa của kí hiệu này không phải là nhắc nhở có gì đó nguy hiểm. Cậu nghĩ mà xem, trong mộ đạo có nguy hiểm hay không thì phải vào mới biết chứ, không lý gì bọn họ đi vào rồi lại quay trở về mà khắc mấy kí hiệu này. Nói cách khác, kí hiệu này khắc vào thời điểm người đó chuẩn bị tiến vào mộ đạo, ý nói mình đã đi về hướng này, cho người đến sau biết hành trình của mình, còn bên trong có thứ gì thì lúc khắc người đó chắc chắn không biết. Cái này kể cũng đáng chú ý, gọi là 'truy tung ngôn ngữ'.

Tôi chưa từng nghe qua thứ này. Bàn Tử hỏi lại: "Truy tung ngôn ngữ là cái gì?"

Phan Tử nói: "Hồi tôi tham chiến ở Việt Nam, khi còn trong quân ngũ có học một khóa văn hóa. Do hoạt động trong rừng nên phải học rất nhiều về cứu hiểm, 'truy tung' ngôn ngữ chính là một khi lạc giữa rừng rậm, trong lúc tìm đường anh đồng thời phải đánh dấu lại lộ trình của mình. Phương pháp đánh dấu này cũng có những quy luật đặc biệt, sau này đội cứu viện nhìn thấy dấu hiệu của anh có thể biết anh đã gặp phải chuyện gì ở đây. Ví dụ như đồ ăn đầy đủ đánh dấu một kiểu, đồ ăn hết trơn đánh dấu một kiểu, trong đội có người gặp nạn lại đánh dấu một kiểu khác. Đội cứu viện đi theo những dấu hiệu này, dọc đường có thể biết được tình hình gần đây của anh. Nếu sự tình chuyển biến cực xấu, họ có thể dùng kí hiệu này làm căn cứ nghĩ sách lược cứu viện. Nghe nói thứ ngôn ngữ này là do người Mỹ phát minh ra khi đánh Việt Nam."

Bàn Tử hỏi hắn: "Anh đã được học rồi, vậy có hiểu gì không?"

Phan Tử lắc đầu nói: "Tôi nói là có lẽ thôi. Những ám hiệu này hoàn toàn không giống những cái tôi được học lúc ấy, tôi chịu không nhận ra nổi, nhưng dám cá đây là một loại truy tung ngôn ngữ. Chúng ta không cần phải cố gắng giải mã nó, kí hiệu thay đổi có lẽ chỉ cho thấy hắn bị mắc kẹt trong này."

Bàn Tử thở dài, nói: "Tình hình không ổn nha. Nếu thực sự là 'truy tung ngôn ngữ', chứng tỏ kẻ để lại kí hiệu này, con mẹ nó, cũng không chắc chắn vào lựa chọn của mình. Hắn chỉ chuẩn bị cho đội thứ hai thôi, nói cách khác, hắn không dám tin mình đi vào đây còn có thể sống sót trở ra."

Phan Tử nói: "Phải! Cho nên có nói nữa cũng chẳng để làm gì. Tôi thấy nếu kí hiệu này đã không dành cho chúng ta thì chúng ta cứ coi như không thấy nó là xong. Nhiệm vụ chính của chúng ta bây giờ là tìm được ông Ba, kí hiệu không phải do ông Ba khắc, nói cách khác ông Ba không nhất thiết đi hướng này, chúng ta đi theo cho dù thuận lợi đến mấy cũng không gặp được ông Ba. Chúng ta cứ đi con đường của riêng mình, trước kia tôi đã từng đổ không ít đấu, nào phải chưa từng gặp tình huống như thế này, tôi không tin chúng ta không thể tự mình dò được mộ đạo."

Luận điệu này đúng là hợp ý Bàn Tử, hắn gật đầu lia lịa, nói với chúng tôi: "Lão Phan, câu này bắt đầu giống tiếng người rồi. Chi bằng chúng ta chia làm hai ngả, anh với Tiểu Ngô đi bên kia, tôi với Thuận Tử đi bên này, chúng ta xem xem ai may mắn hơn. Dù sao cũng là đường thẳng, nếu đi đến cùng mới phát hiện sai hướng thì cứ lộn ngược lại là xong, nhóm còn lại đi đúng hướng sẽ chờ bên ngoài quách điện. Chứ cứ đứng chôn chân ở chỗ này mà do dự cũng không phải cách hay."

Tôi cảm thấy làm thế không ổn, bèn nói: "Nói vậy không sai, chỉ e mộ đạo chính này không dễ đi thôi. Anh nhìn mấy phiến đá bốn thước dưới chân mà xem, loại mộ đạo này rất dễ chứa tên lạc hoặc cơ quan dạng bản xoay. Lỡ đâu hai nhóm đi đến tận cùng đều chết trong mộ đạo thì chúng ta vừa chia tay coi như vĩnh biệt luôn."

Bàn Tử cười nhạo tôi: "Nói vậy thì cậu không nên đến đây mới phải, cậu ăn no rửng mỡ còn xuống đây làm gì. Một khi đã xuống địa cung thì không nên sợ mấy chuyện này."

Tôi tự nhủ đó là ông phòng xa thôi, chứ nguyện vọng đời ông vẫn là làm một thị dân quèn hầu bao bạc triệu. Không biết năm nay gặp phải cái vận chó má gì mà toàn đụng bánh tông, đến nỗi bây giờ trơ ra cóc sợ nữa, nhưng muốn cẩn thận một tí cũng không được, đây là chuyện gì chứ.

Phan Tử cũng nghĩ giống tôi, bèn nói với Bàn Tử: "Không, cậu Ba nói rất đúng. Còn một lý do nữa là đoàn của A Ninh chắc chắn ở quanh đây thôi, chúng ta không phòng bánh tông thì cũng phải phòng người chứ. Hai đánh một không chột cũng què, hơn nữa chẳng may một nhóm biến mất không trở về, nhóm còn lại biết phải làm sao? Chúng ta đi cùng nhau vẫn tốt hơn, còn có đèn chiếu sáng."

Thuận Tử từ đầu vẫn ngậm hột thị giờ cũng tỏ thái độ: "Dù thế nào tôi cũng phải đưa cậu chủ Ngô tới nơi, tôi chắc chắn sẽ đi theo cậu ta."

Bàn Tử giơ tay đầu hàng ba người chúng tôi: "Hai người theo chủ nghĩa sùng bái cá nhân đấy à. Con mẹ nó, tôi bị cô lập à. Thôi coi như tôi xui xẻo, các người nói gì thì tôi nghe đó, cùng lắm là chết chung chứ gì."

Phan Tử nói: "Trước hết chúng ta cứ đi theo kí hiệu này, sai đường thì quay lại, hành sự cẩn thận là được."

Chúng tôi gật đầu ưng thuận. Lòng tôi cũng hiểu rõ, dù sao chuyện đã đến nước này, chúng tôi cứ chôn chân ở đây tranh cãi đến mùa quýt cũng không xong, bây giờ đi hướng nào, đi như thế nào hoàn toàn dựa vào vậnmay.

Mọi người đứng dậy, Phan Tử liền lôi ra một cây gậy gấp dò đường giống như gậy của người mù, dò dò trên mặt đất, chúng tôi liền đi theo hướng có khắc kí hiệu kia.

Mỗi bước đi đều vô cùng cẩn trọng, trong lòng tôi thực ra đã ngán đến tận cổ cái nơi vừa đi vừa nớp nớp lo sợ thế này, nhưng đâu còn cách nào khác. Đã vào đến đây thì không thể tránh khỏi bước này, bằng không bao nhiêu khổ cực phía trước chẳng phải là phí hoài sao.

Cứ ngỡ sẽ phải mất ít nhất nửa giờ dò dẫm trong mộ đạo, ai ngờ đoạn mộ đạo này ngắn ngủn, đi chưa nổi hai trăm mét đã đột ngột mở rộng, cuối mộ đạo xuất hiện một ngọc môn cực lớn.

Tôi liếc mắt một cái đã nhận ra đây chính là đại môn của minh điện, bởi vì cửa mộ sẽ không dùng loại đá đẹp cỡ này. Phần dưới cánh cửa đã bị nổ bay, lộ ra một cái động trống không. Rõ ràng đã có người vào đây, không biết đó là đám người A Ninh hay là ai khác.

Tôi mừng thầm trong bụng, nói vậy chúng tôi đã đi đúng đường rồi, phía sau cánh cửa này chính là phần trung tâm của địa cung. Trong đầu tôi lập tức hiện ra rất nhiều kết cấu lăng mộ kinh điển. Tuy đây là hoàng lăng Đông Hạ nhưng lại do người Hán làm chủ thầu xây dựng, hẳn là cũng không khác nhiều so với mộ táng ở Trung Nguyên, khi tiến vào sẽ trông thấy những gì? Tôi bất giác hồi hộp, không biết quan tài của Vạn Nô vương trông như thế nào nhỉ? Xung quanh có quan tài bồi táng hay không?

Ngọc môn của mộ thất tám chín phần sẽ có cơ quan, tường đá hai bên rất có thể rỗng ruột, bên trong chứa bột đá độc. Hơn nữa loại cơ quan này thường là không thể phá giải, bởi vì mộ thất một khi đóng lại sẽ không tính đến chuyện mở ra, cho dù có là công nhân xây dựng cánh cửa cửa này thì sau khi cửa đóng cũng không thể vào được.

Nhưng cửa này đã bị nổ tung, nếu có cơ quan thì cũng bị phá hủy tan tành rồi, cái này chắc khỏi cần lo lắng. Mấy người chúng tôi khom lưng, nối đuôi nhau chui vào, tiến nhập mộ thất đằng sau cánh cửa. Bàn Tử cẩn thận châm một cây pháo lạnh để chiếu cho sáng hơn, ngay lập tức chúng tôi có thể nhìn rõ bố trí bên trong mộ thất.

Trong khoảnh khắc pháo lạnh bùng lên, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng khiến ai nấy đều nín thở. Mọi người không ai ngờ mình sẽ chứng kiến cảnh tượng như thế, gần như đều đông cứng tại chỗ không thể nhúc nhích.   

(1) Đầy đủ: Kim Bôi Tiểu Diện Bao (金杯小面包) Tên nhãn xe của Ngô Tà, trông như thế này này:

Chương 38: Người chết trên đống vàng

Mộ thất này so với hầm rượu ban nãy, cả về chiều cao lẫn chiều rộng đều gấp mười lần. Bốn cây cột trụ khổng lồ đặt ở bốn góc mộ thất điêu khắc đầy phù điêu, trên nền mộ thất ngồn ngộn của cải, khi pháo lạnh bùng cháy, chúng tôi mới phát hiện ra đó là những núi dụng cụ bằng vàng bạc, đá quý, lưu ly, trân châu mỹ ngọc. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên khiến chúng tỏa sáng lấp lánh, quả thực khiến người ta lóa mắt.

"Ôi má ơi........." Mắt Bàn Tử trợn trừng, lớn hơn mắt bò, gương mặt vặn vẹo.

Tôi cũng quá đỗi kinh ngạc, gần như không thể đứng vững. Phan Tử lẩm bẩm: "Tôi bảo rồi mà, quốc khố của người Nữ Chân lẫn vật phẩm tiến cống hàng năm của Nam Tống đều ở đây. Con mẹ nó, đây đã nói là chỉ có chuẩn."

Bước chân vào cái nghề này bao lâu, những thứ tôi nhìn thấy trước đây so với nơi này đúng là đồng nát sắt vụn. Tôi nghĩ bây giờ mình cũng không trốn được số mệnh, không ngờ trong hoàng lăng của một quốc gia nhỏ bé nơi biên giới hoang vu lại có chừng này bảo bối. Chẳng lẽ đúng như lời Phan Tử nói, sau khi Đại Kim diệt vong, toàn bộ bảo bối của nó đều được cất giấu ở nơi này. Vấn đề bây giờ không phải là phát tài nữa, mà chỉ cần nhặt bừa vài món trong đống kia mang ra cũng đủ sống sung sướng cả đời.

Bàn Tử chỉ muốn lăn xả vào đống vàng bạc kia. Lòng tôi cũng đang gào thét muốn xông lên nhưng vẫn còn một tia lí trí, bèn giữ chặt Bàn Tử, không để hắn vì mờ mắt mà làm liều. Rất nhiều kim khí trong các mộ táng trên bề mặt đều phủ một lớp kịch độc, lăn vào giữa đống vàng rồi trúng độc mà chết thì cũng quá nhảm, mấy thứ này tốt nhất là không nên đụng vào.

Nhưng tôi mải giữ Bàn Tử mà quên béng mất Phan Tử, chưa gì ảnh đã lao vào đống vàng, vốc lên một nắm to kim khí, ngây ra mà nhìn. Ánh sáng phản xạ từ đống vàng chiếu lên khiến mặt anh vàng chóe, cả người phát run. Sau đó anh buông tay, mấy món đồ kia theo kẽ tay anh rơi xuống đất, kim loại va chạm phát ra tiếng leng keng.

Tôi thấy Phan Tử động vào kim khí mà không việc gì, biết kim khí kia không có độc, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng chốc biến mất. Tôi không nhịn được nữa, cũng nhảy vào sờ loạn một phen, cái cảm giác nặng trịch này khiến tôi không tự chủ được mà cười lên ha hả. Tôi không nhớ có ai đó đã nói: Sự ham mê vàng của con người đã ăn sâu vào gen, biến thành bản năng bẩm sinh không thể kháng cự. Con mẹ nó, hắn nói không sai tí nào.

Cho dù là người như tôi, tuy bề ngoài vẫn ra vẻ đạo mạo nhưng mỗi khi nhìn thấy vàng bạc châu báu thì sâu trong tâm khảm vẫn rung động mãnh liệt, tôi nghĩ dù có tự lừa dối mình cũng chẳng được. Tôi thích đống của cải này.

Mấy người chúng tôi lập tức quên sạch sẽ mọi chuyện, vội vàng chạy ào đến đống của cải này vơ vét một mớ, lại chạy đến đống kia nhặt lên một cái phát quan khảm đầy đá quý ngắm nghía thật lâu. Mấy thứ này thực sự đều là cực phẩm, chỉ cần lấy được một cái cho vào viện bảo tàng cũng thành bảo vật trấn viện. Giờ ở trong đây lại có cả một đống, cứ mặc sức sờ mó, mặc sức dẫm lên cũng không cảm thấy đáng tiếc.

Bàn Tử bên cạnh đã bắt đầu vơ vét của cải. Hắn đổ hết trang bị trong túi ra ngoài, không để lại thứ gì, rồi ra sức nhồi nhét vàng bạc vào. Nhét đầy rồi lại cảm thấy không ổn, liền dốc ra bằng sạch rồi nhặt mấy món khác nhét vào, nhồi nhồi nhét nhét lại còn hú lên mấy tiếng vô nghĩa.

Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra, bất kể có nhồi nhét kĩ đến đâu cũng không thể mang đi một phần vạn của đống bảo vật này. Vừa nhét thứ này vào túi xong lại phát hiện có thứ khác quý giá hơn ở bên dưới, nhét thứ quý giá hơn ấy vào rồi lại phát hiện ra thứ khác nữa mới là cực phẩm chưa thấy bao giờ, vì thế cứ phân vân, không biết chọn thứ nào.

Điên cuồng một lúc lâu, cho đến khi cả đám đều kiệt sức, sự hưng phấn cực độ đã nhường chỗ cho óc tỉnh táo, tôi mới cảm thấy có gì đó không ổn. Tại sao sau khi vào đây tôi không nghe thấy tiếng của Thuận Tử nữa chứ?

Tôi lau mồ hôi trên đầu, đứng lên khỏi đống châu báu, chiếu đèn pin khắp bốn vùng quanh thì thấy Thuận Tử đứng lặng đi trên một đống kim khí, không biết đang nhìn cái gì.

Tôi lại gần hắn, hỏi hắn làm sao vậy, thấy nhiều vàng bạc thế này mà không vui à?

Hắn lặng lẽ chỉ xuống bên dưới, tôi chiếu đèn pin theo hướng hắn chỉ, phát hiện giữa những đống kim khí, vây quanh là vô vàn châu báu có mấy người nằm co quắp, không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.

Tôi giật mình hoảng sợ, bao nhiêu hưng phấn hồi nãy phút chốc tan biến, da gà nổi đầy người.

Bàn Tử và Phan Tử thấy tôi và Thuận Tử đứng ngây ra tại chỗ, lại tưởng chúng tôi phát hiện ra bảo bối gì bèn vội vã chạy lại, thấy mấy cái bánh tông cũng không khỏi giật mình.

Chúng tôi leo xuống khoảng trũng giữa những đống kim khí, cầm chặt đèn pin chiếu thật cản thận, phát hiện kia quả thực là người chết, hơn nữa chết cũng đã lâu. Da thi thể mất nước, quắt queo đông cứng lại như vỏ quất. Lạ một nỗi, mấy người này đều mặc áo khoác nỉ đã mục nát, rõ ràng là trang phục của người hiện đại, bên cạnh còn có mấy ba lô hành quân kiểu cũ cũng đã mục nát đến độ không nhìn rõ hình dạng.

Bàn Tử nghi hoặc hỏi: "Chuyện quái quỷ gì đây? Mấy người này là ai? Đồng nghiệp với chúng ta chăng?"

Tôi lắc đầu, đeo găng tay vào rồi lục lọi quần áo và ba lô của mấy thi thể kia. Những bộ đồ này hẳn là kiểu y phục thịnh hành vào những năm 80, 90, đến bây giờ những người già tầm bốn mươi năm mươi tuổi ở vùng nông thôn Đông Bắc vẫn còn mặc. Lúc ở thôn Doanh Sơn chúng tôi cũng gặp khá nhiều người trung niên mặc thứ này, nhưng xem độ phân hủy thì những người này phải chết từ năm đến hai mươi năm rồi.

Phan Tử hỏi: "Hay họ là người hái thuốc hoặc thợ săn trên núi Trường Bạch đi lạc vào chỗ này, không ra được nên chết ở đây?"

"Không phải đâu." Tôi kéo quần áo của một khối nữ thi, nhìn vào lỗ tai thì thấy nữ thi này đeo một cái khuyên kiểu cũ, trên tay còn đeo đồng hồ đã rỉ sét từ lâu. "Anh xem, đây là đồng hồ Titoni kiểu cổ (1) của Thụy Sĩ, lúc đó dù là thị trưởng cũng chưa chắc đã mua được. Lai lịch của cô gái này không tầm thường đâu, trông chẳng giống người nông thôn tí nào."

"Hay đây là mấy du khách lạc đường trước năm 80?" Phan Tử lại hỏi: "Những kí hiệu chúng ta đi theo lẽ nào là do họ khắc lên?"

Tôi lắc đầu, không thể có chuyện họ khắc mấy kí hiệu này, bởi vì kí hiệu kia tôi đã từng trông thấy trong huyệt mộ dưới đáy biển, nhất định là do một người có liên quan khắc, không phải đám người A Ninh thì chỉ còn có Muộn Du Bình. Nói là du khách lạc đường thì cũng có thể, nhưng ai lại lạc đường đến tận đây cơ chứ? Mộ đạo địa cung, nếu gan không đủ lớn thì người thường chẳng ai dám xuống.

Nhưng nếu cô gái này có chút địa vị, ví dụ như là con gái của một vị lãnh đạo, hoặc là có quen biết giới quan chức địa phương thì một khi mất tích hẳn sẽ rất ồn ào, Thuận Tử tuổi cũng không còn trẻ, có thể sẽ biết. Nghĩ thế tôi bèn quay sang, tính hỏi hắn xem trong khoảng thời gian từ năm đến hai mươi năm trở về trước, vùng này có xảy ra vụ mất tích ầm ĩ nào không. Nhưng quay sang lại thấy Thuận Tử không chạy xuống theo chúng tôi mà vẫn đứng chôn chân trên đống vàng, nét mặt đã cứng đờ.

Tôi nghĩ bụng, quái, chẳng lẽ Thuận Tử cũng bị lưỡi thi thai quấn lấy giống Bàn Tử rồi hả? Nhìn kĩ thì cổ hắn trống không, nhưng người hắn lại run lên từng chặp, cũng cảm thấy có gì đó không ổn.

Bàn Tử hỏi hắn: "Làm sao vậy? Sợ người chết à? Vừa nãy có thấy anh sợ sệt gì đâu?"

Thuận Tử phớt lờ Bàn Tử, lê từng bước chân nặng nề tới bên một khối thi thể rồi ngồi thụp xuống, trông hắn căng thẳng như muốn ngã sấp.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu ra mọi chuyện.

Bàn Tử định chạy đi đập hắn mấy cái nhưng bị tôi khoát tay cản lại. Hắn thì thầm hỏi: "Hắn làm sao vậy? Trúng tà à?"

Tôi lắc đầu. Mấy khối thi thể này, nếu tôi đoán không nhầm thì có thể là nhóm người được cha Thuận Tử dẫn vào núi Trường Bạch mười năm về trước mà hắn đã từng kể cho tôi nghe. Mà khối thi thể Thuận Tử đang nhìn chăm chăm kia có lẽ chính là cha hắn, cho nên hành động của hắn mới căng thẳng đến thế.

Không ngờ hắn đã đoán đúng, đi theo chúng tôi thật sự có thể tìm thấy di thể của cha...

Nhưng đây chỉ là trùng hợp thôi sao? Nhóm người mười năm trước có thật là đi lạc vào chỗ này? Hay là còn có ẩn tình gì khác mà chúng tôi chưa biết?

————————————–

(1) Nguyên văn: Mai hoa biểu (梅花表), do hãng Titoni của Thụy Sĩ lấy biểu tượng là một bông hoa mai nên có tên này. Đồng hồ Titoni kiểu cổ có nhiều dạng, đại khái trông như thế này:

Ngoài lề tí, mình ngày càng thích Thuận Tử ~~~

Chương 39: Đội thám hiểm mười năm trước

Thuận Tử rốt cuộc cũng không khóc. Hắn chỉ bị kích động trong chốc lát, sau đó cũng bình tĩnh trở lại, cung kính sửa sang lại tóc tai cho cha. Thi thể đã mất nước nghiêm trọng, tóc vừa chạm vào đã rụng xuống lả tả. Chật vật sửa sang mất một lúc, cha hắn trông đã gần giống Cát Ưu (*). Tôi biết trong lòng hắn chắc chắn rất khổ sở, mười năm qua có lẽ hắn vẫn nuôi một tia hi vọng cha mình còn sống, nhưng bây giờ hi vọng đã tan biến, có thể nói hắn vừa nhẹ nhõm lại vừa tuyệt vọng.

(*) Cát Ưu: Diễn viên của Trung Quốc, có quả đầu trọc nổi tiếng. Ý Tà là cha Thuận Tử tuy rụng hết tóc nhưng cũng đẹp trai gần bằng diễn viên rồi.

Bàn Tử và Phan Tử không hiểu chuyện gì xảy ra, ngớ ra mà nhìn, mồ hôi lạnh tuôn trào. Tôi kể lại sơ sơ chuyện mình phỏng đoán với hai người bọn họ, hẳn là cũng không đoán sai.

Bàn Tử nghe vậy cũng rớt nước mắt, nói: "Ông già nhà tôi cũng đi sớm, cả đời làm cách mạng vì quốc gia, cuối cùng lại bị chụp cho cái mũ phần tử phản động. Tâm tình của Thuận Tử tôi có thể hiểu được, nhưng thôi cứ nghĩ theo hướng tích cực đi. Sau mười năm cha con còn có thể gặp lại nhau, vậy là ông trời coi như cũng chiếu cố anh rồi, hãy nghĩ thoáng ra một chút."

Bàn Tử vừa khóc, Phan Tử khóe mắt cũng rưng rưng, nói vậy là tốt lắm rồi. Các người đều có cha, chứ tôi đây còn chưa được nhìn mặt ổng lần nào. Tôi luôn coi ông Ba như cha mình, vậy mà giờ có biết ông ấy sống hay chết ra sao đâu.

Tôi thấy thế vội hỏi: "Hai người mắc chứng gì thế? Thuận Tử còn chưa khóc mà hai người đã bù lu bù loa lên rồi, mau nhìn xem tại sao bọn họ lại chết ở chỗ này đi."

Đã vào được đến đây thì không lý nào không ra được, bọn họ chết ở chỗ này chắc chắn là vì đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Giờ chúng tôi cũng đang đứng trong mộ thất, tôi không muốn cả đám nối gót bọn họ chút nào. Đồng thời tôi cũng cảm thấy mấy khối thi thể xuất hiện trong này có hơi kì quặc: không tính cha của Thuận Tử vì ông ấy chỉ là người dẫn đường, thì những người khác, theo như lời Thuận Tử, đều khăng khăng lên núi vào cái mùa không thích hợp để lên núi, chắc chắn không phải du khách bình thường. Phải chăng họ cũng có mục đích không thể cho ai biết? Vào đến đây không lẽ chỉ là trùng hợp? Tôi nhất định phải tìm hiểu rõ.

Chúng tôi lục lọi ba lô của những người này, trong đó vẫn còn đầy đủ vật phẩm. Từ cuốn tiểu thuyết đã mục nát đến long cả gáy, bút ký, bút chì, dây thừng gân bò, lều vải hành quân, đèn pin kiểu cũ, dao đa năng cũng cũ nốt (cái này vẫn còn dùng được), từ điển Hàn-Trung năm 1986, kẹo cao su, bật lửa kiểu cũ, bầu rượu, son môi, băng vệ sinh. Hòm thuốc vẫn còn băng gạc, cồn, bông và vài loại rượu thuốc, la bàn quân dụng, vân vân.

Tên cuốn tiểu thuyết là "Thép đã tôi thế đấy", sách đã cũ nên tôi cũng không dám lật bừa, lật một tờ đảm bảo long ra cả quyển. Bút ký cũng là những bản bút ký công tác cũ kĩ, hồi tiểu học tôi từng thấy cha dùng. Tổng cộng có ba quyển, mở ra thì thấy chúng đều ghi số điện thoại và vài khoản thu chi, thì ra thời đó người ta dùng bút ký vào những việc này. Ngoài ra không còn thứ gì cho biết thân phận của họ, và nhất là không ai mang theo chứng minh thư.

Chúng tôi bày la liệt mấy thứ này thành hàng, gần như các thiết bị đều đủ hết, tuy không tiên tiến được như chúng tôi nhưng để thoát ra ngoài thì không thành vấn đề, dù gặp phải hoàn cảnh hiểm ác hơn nữa thì những trang bị này cũng thừa sức ứng phó.

Vậy thì quái thật. Lòng tôi âm thầm suy xét, bất kể thế nào, dựa vào điều kiện tiên quyết là họ có đủ khả năng rời đi, những người này nếu chết cũng nên chết trên đường ra mới đúng, chứ không phải ngồi chết ở đây, trông như chủ động chờ chết vậy. Chẳng lẽ họ không nỡ xa rời những bảo bối ở đây? Cái này càng vô lý.

Nếu vậy, chẳng lẽ họ chết ở đây là do nguyên nhân kì quặc nào khác? Trong lòng tôi đột nhiên trào dâng cảm giác hoang mang, cứ như trong mộ thất này có thứ gì đó đang theo dõi chúng tôi, không khỏi rùng mình một cái.

Bàn Tử xem xét những thứ đồ đạc chúng tôi bày ra, đột nhiên 'A!" lên một tiếng, nói: "Này các đồng chí, có phát hiện trong đống vật phẩm này thiếu đi thứ gì không?"

Chúng tôi đang đuổi theo những suy nghĩ riêng, nghe Bàn Tử hỏi vậy cũng cẩn thận nhìn lại mấy thứ kia một lượt, nhưng tôi cảm thấy mọi đồ vật quan trọng đều đủ cả, thực sự không nghĩ ra là thiếu thứ gì, đành phải hỏi hắn: "Thiếu cái gì?"

Bàn Tử đáp: "Lương thực! Không có lương thực! Trong túi tất cả mọi người đều không có!"

Hắn vừa nói ra, chúng tôi đều giật mình, lại liếc qua đống đồ đạc một lượt. Quả nhiên tất cả đều là trang bị, không một vật gì có thể bỏ bụng.

Tôi nghi hoặc nói: "Đúng là không có lương thực, chứng tỏ cái chết của những người này không phải là điều ngoài ý muốn, bởi vì nếu gặp chuyện bất trắc thì không thể trùng hợp đến nỗi tất cả mọi người đều cạn lương thực được. Không đúng, vậy chẳng lẽ bọn họ đã.... ăn hết lương thực, sau đó chết đói trong đây?"

Nói thế cũng không đúng, từ khi hết lương cho đến lúc chết đói, chỉ cần uống đủ nước, một người bình thường cũng có thể cầm cự được một tháng (không nói những người cao hơn hai mét mà nặng có 45kg đâu nhá). Chỉ cần bọn họ có ý muốn thoát ra ngoài thì cũng không đến nỗi chết chùm. Những người này chết đói ở đây thì chỉ còn một cách giải thích, đó là họ không thể thoát ra được.

Nghĩ đến đây tôi chợt nhớ đến cánh cửa mộ đạo biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển, vội nhảy dựng lên, chạy qua đống châu báu rồi chiếu đèn pin về phía cửa mộ. Thấy cửa mộ kia vẫn còn nguyên đấy, không hề biến mất, tôi mới thờ phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn sợ nó đột ngột biến mất nên không biết tiếp theo phải làm gì.

Bàn Tử cũng biết rõ điều tôi lo lắng, bèn an ủi tôi nếu thực sự gặp phải chuyện đó thì trên người chúng ta vẫn còn thuốc nổ, đừng lo. Tôi nghe hắn nói vậy mới cảm thấy an tâm ít nhiều.

"Hay là thế này nhỉ," Nghĩ tới nghĩ lui vẫn không hiểu thì Phan Tử đột nhiên hỏi Thuận Tử: "Anh có biết đội thám hiểm mà cha anh dẫn đường gồm bao nhiêu người không?"

"Theo lời mẹ tôi thì hình như chỉ có bảy người. Nhưng đây chỉ là con số bà ấy thấy tận mắt, còn thực tế có bao nhiêu người thì chịu. Dù sao lúc xuất phát cha tôi cũng đi với bảy người."

"Ở đây có ........... 1 2 3 4 5 6, sáu khối thi thể, vậy có ít nhất hai người đã biến mất." Phan Tử nói: "Những người này chết ở đây, phải chăng là do hai người kia bị lòng tham che mờ mắt, giết sạch đồng đội còn mình thì chạy thoát."

Tôi lắc đầu tỏ ý phủ định, những người này không hề có dấu vết đánh nhau, xem tư thế lúc chết là cuộn mình nằm cùng một chỗ thì cũng không giống bị trúng độc, càng không giống chết do ngoại lực tác động. Điều khiến tôi có cảm giác bất thường và quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân chết của bọn họ nhất chính là nét mặt của các thi thể như đúc từ một khuôn, đó là một vẻ tuyệt vọng sâu sắc, tựa như lâm vào hoàn cảnh không còn lấy một tia hi vọng.

Đây là lần đầu tôi trông thấy những thi thể như thế, trong lòng cứ vướng bận mãi không tan. Tôi có một dự cảm rằng chuyện xảy ra ở đây vào năm đó nhất định không đơn giản, mà càng đi sâu vào phỏng đoán, tôi càng cảm thấy xung quanh bắt đầu bao phủ một màn sương lạnh buốt và bất an không sao diễn tả bằng lời. Cứ như trong đống châu báu này có thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi vậy, cái cảm giác sởn tóc gáy này càng ngày càng rõ rệt.

Ngẫm nghĩ nửa ngày cũng không thông, Bàn Tử và Phan Tử bắt đầu mất kiểm soát, muốn đi mó máy đống châu báu kia. Lúc này tôi bỗng dưng trở nên tỉnh táo lạ lùng, ngăn bọn họ lại, nói tôi thực sự không thể lờ đi mấy người chết giữa đống châu báu kia. Chúng ta trước hết đừng manh động, chớ quên mục đích mình vào đây là gì.

Nghe tôi nói thế bọn họ mới tỉnh ngộ, thoáng cái Bàn Tử đã nghĩ ra điều gì, bèn nói: "Tôi đúng là mê muội, đã quên mục đích mình xuống đây làm gì. Kí hiệu kia dẫn chúng ta tới đây, cửa cũng đã bị nổ tung, nhưng bên trong chỉ là một kho báu? Quan quách thì chẳng thấy đâu. Tôi nghĩ mình hiểu ý nghĩa của kí hiệu kia, chính là ở đây có minh khí, nó chắc chắn do đám người A Ninh lưu lại để nhóm thứ hai của họ tiến vào vận chuyển bảo bối."

Tôi nói: "Cửa rất có thể do mấy thi thể này phá, nhưng đây chỉ là một mộ thất chứa đồ bồi táng, quan tài chắc chắn không ở chỗ này, chúng ta phải đi về hướng ngược lại."

Tuy không hợp lí cho lắm nhưng tôi vẫn nghĩ đây là mộ đạo chính, một hướng dẫn ra cửa mộ, hướng còn lại tất nhiên dẫn vào trung tâm địa cung, nhưng giờ xem ra không đúng. Chẳng lẽ mộ đạo kia không phải là mộ đạo chính? Địa cung này rốt cuộc còn rộng đến chừng nào? Hay là giống như một mê cung? Nhớ lại mấy kí hiệu kia, chẳng lẽ đúng là do địa cung quá phức tạp nên bọn họ mới phải lưu kí hiệu?

"Mấy thứ kia xử lý sao đây?" Bàn Tử vẫn còn luyến tiếc.

Tôi nói: "Anh cứ nhặt bừa vài món đem về cũng đủ sống sung túc hết nửa phần đời còn lại. Đừng tham quá làm gì, đằng nào sau này vẫn có thể quay lại đây mà."

Bàn Tử nhìn mấy khối thi thể kia, hiển nhiên trong lòng cũng thầm nói 'đã mạo phạm', nhưng không thể tay trắng trở ra, vì thế hắn chọn mấy món kim khí nho nhỏ nhét vào túi. Thuận Tử khăng khăng muốn đưa thi thể cha ra ngoài, dùng ba lô gói thi thể lại rồi đeo lên lưng. Thi thể đã khô nên không còn nặng lắm, vác theo không quá khó khăn.

Cuối cùng, chúng tôi nhìn lướt qua từng đống từng đống kim khí mã não lóng lánh ánh vàng một lượt, hạ quyết tâm dứt khoát quay đầu, nối đuôi nhau chui qua cái lỗ dưới cửa mộ.

Vừa mới ra khỏi cửa, tôi đã nghe Bàn Tử "Hả?" một tiếng. Trong lòng sớm có dự cảm, tôi vội vàng bật đèn pin chiếu khắp xung quanh, toàn thân không ngừng toát mồ hôi lạnh.

Bích họa trên tường mộ đạo lúc này trông khác hẳn lúc mới đi vào. Không biết từ bao giờ, bích họa đỏ rực đã biến thành vô số bóng người màu đen có cái đầu bự chảng.

Chương 40: Con đường ngợp bóng

Thuận Tử và Phan Tử thấy thế đều trố mắt ra nhìn, lẩm bẩm: "Mẹ kiếp! Chuyện quái quỷ gì thế này? Đi nhầm cửa à?"

"Không phải!" Tôi và Bàn Tử đều có kinh nghiệm, lập tức hiểu ra bản chất vấn đề: "Mộ đạo này đã di chuyển. Lúc chúng ta ở trong mộ thất kia, mộ đạo cũ đã dịch chuyển sang vị trí khác, một mộ đạo mới lại dịch chuyển đến chỗ này."

"Vậy cũng làm được hả?" Phan Tử há hốc miệng.

"Được chứ!" Tôi và Bàn Tử lại ra sức gật đầu, thầm nghĩ đâu chỉ có nơi này, trong mộ huyệt do Uông Tàng Hải thiết kế có phát sinh bất cứ chuyện gì cũng không lạ.

Trong lòng tôi mơ hồ sợ hãi, nhưng cũng có phần an tâm, bởi vì khi mộ đạo thay đổi, tôi đột nhiên hiểu ra vì sao cha của Thuận Tử và mấy cái thây khô kia lại bị vây khốn mà chết giữa đống vàng bạc như thế. Nếu không thông hiểu mưu kế của Uông Tàng Hải, chỉ cần cái mộ đạo mộ thất quỷ dị nơi này biến đổi một chút cũng đủ bức người ta phát điên. Chúng tôi lúc ở dưới hải mộ cũng bị lừa cho suýt mất đi lý trí, nhưng một khi đã biết nguyên nhân mộ đạo nơi này đột ngột biến hóa thì cũng không còn gì đáng sợ nữa.

Mộ đạo biến hóa thế này, ngã tư đường lúc trước chúng tôi đã từng đặt chân tới tất nhiên sẽ biến mất, muốn quay lại cũng không thể. Tuy không biết cuối mộ đạo mới này là gì nhưng nếu chúng tôi cứ đứng chôn chân ở chỗ này không đi thì kết cục tất nhiên cũng giống mấy thi thể kia thôi.

Tôi lúc ấy tôi đã nghĩ cuối mộ đạo không có gì cả, là đường cùng, vậy thì không đáng lo. Mấy thi thể kia bị vây hãm ở đây cùng lắm là vì nguyên nhân này, không có thuốc nổ mà con đường dẫn đến đây lại đột ngột biến mất, không biết phải làm sao nên mới lộ ra nét mặt tuyệt vọng cùng cực thế này.

Sau này nghĩ lại mới thấy tôi rốt cuộc vẫn còn quá non nớt, nét mặt tuyệt vọng sâu sắc đến độ này cho thấy bọn họ đã gặp phải chuyện khó bề tưởng tượng hơn suy nghĩ của tôi rất nhiều lần. Tôi lúc ấy đúng là suy nghĩ quá đơn giản.

Tôi nói ra suy nghĩ này với những người khác, lại giải thích cho Phan Tử và Thuận Tử nguyên tắc biến đổi của mộ đạo một lần, bọn họ mới ồ lên, lộ ra vẻ mặt 'thì ra là thế'. Nhưng Phan Tử lại nghĩ xa hơn một chút: "Nếu là như thế thì theo lý thuyết cái huyền cung này phải có kết cấu vô cùng phức tạp, phải chăng chúng ta giống như lạc trong một khối rubik, đã vào là không thể thoát ra?"

Tôi an ủi anh: "Chắc không phải đâu. Mánh khóe của Uông Tàng Hải thật ra cũng chỉ là gây áp lực tâm lý cho kẻ trộm mộ, chứ muốn vây khốn người ta đến chết cũng không dễ đâu. Tôi đoán rất nhiều người bị tra tấn tinh thần cho đến khi hoàn toàn suy sụp nên mới chết."

Tóm lại cái mộ đạo mới xuất hiện này chúng tôi nhất định phải tiến vào, sau đó vừa đi vừa nghĩ cách. Nếu quả thực không ra được thì cứ theo lời Bàn Tử nói, có thể đầu tiên sẽ xác định một hướng, sau đó dùng thuốc nổ kiên trì phá tường thoát ra. Chúng tôi đã có thuốc nổ trong tay, sống lưng cũng cứng cáp hơn nhiều.

Nói rồi tôi lập tức dẫn đầu đi vào mộ đạo, Bàn Tử và hai người kia theo sát phía sau. Trong một thoáng tôi cảm thấy có gì đó không ổn, bích họa xung quanh đều rất ghê người, vô số cái bóng đầu to quả thực giống như bốn phía đứng đầy những vật như thế, khiến người ta khó chịu cực kì. Bất chợt tôi nghĩ lẽ nào cuối bí đạo này có thứ gì đó, cái bóng của nó chiếu lên tường lẫn vào bích họa khiến chúng tôi không thể phát hiện ra.

Dù sao cũng đã đi vào rồi, bây giờ mà rút lui thì thật mất mặt. Tôi chỉ còn cách kiên trì dẫn đầu, cố gắng không nghĩ đến mấy thứ này nữa. Chẳng mấy chốc cửa mộ đã mất hút sau lưng, chúng tôi đã đi tới vị trí không thể nhìn rõ cả hai đầu.

Sau lưng tôi, Phan Tử vừa đi vừa hỏi chuyện về cha Thuận Tử và đội thám hiểm nọ, Thuận Tử kể sơ sơ cho anh nghe, Phan Tử bèn nói với chúng tôi: "Trên đường chúng ta tới đây, tất cả phong thạch đều dùng phương pháp nổ định hướng để phá ra một cái lỗ. Đây là kỹ thuật tối tân, chứng tỏ bọn họ vào đây bằng đường khác, không phải con đường chúng ta tiến vào. Xem ra nơi này chắc chắn có hơn một đường thoát ra ngoài."

Tôi nói: "Chắc chắn là vậy rồi. Anh xem đám người A Ninh đi rõ nhanh, bọn họ lần theo đường chính mà lại đến trước, chứng tỏ chúng ta vẫn thua vì thiếu thông tin."

Chẳng qua không biết nhóm A Ninh hiện đang ở nơi nào, có lẽ bọn họ đã đi qua kho báu ban nãy, chẳng biết lúc ra có gặp mộ đạo di chuyển hay không, có đi vào mộ đạo này như chúng tôi hay không, thêm nữa, chú Ba có phải cũng gặp những chuyện như thế?

Lòng tôi bắt đầu hoang mang, chúng tôi dựa theo ám hiệu của chú Ba mà đi vào địa cung, ông ấy nhưng vào rồi thì ổng không để lại ám hiệu nào khác nữa, xem ra sau khi đi vào địa cung ổng cũng đi lung tung rồi.

Vừa đi vừa nói đại khái hơn hai mươi phút, ánh đèn pin chiếu về phía trước đã xuất hiện phản quang, chứng tỏ đã đến cuối mộ đạo. Chúng tôi bất giác trở nên căng thẳng nhưng rồi nhanh chóng trấn tĩnh, giảm tốc độ, nhích dần từng bước. Rất nhanh, phía cuối mộ đạo lại xuất hiện một ngọc môn.

Lúc ngọc môn mới hiện ra, tôi đã giật nảy mình, bởi vì ngọc môn này giống cái ngọc môn kia như đúc. Nhưng nghĩ lại thì những cánh cửa trong cổ mộ phần lớn đều là do một người thợ phụ trách, đương nhiên sẽ rất giống nhau. Vật liệu làm cánh cửa vẫn còn rất tốt, bên dưới cũng có một lỗ hổng lớn do người ta phá bằng thuốc nổ.

Xem ra quả thực đã có người đi trước, vậy cũng tốt, dẫu là ai thì đối với chúng tôi đều là chuyện may mắn, ít nhất cũng chứng tỏ bên trong không có cơ quan hố bẫy.

Chúng tôi lại một lần nữa nối đuôi nhau chui vào. Do không còn nhiều pháo lạnh nên lần này Bàn Tử không đốt pháo mà chỉ châm mấy cái hỏa chiết tử. Chúng tôi nhìn ra xung quanh, không khỏi sửng sốt.

Phía sau cửa mộ là một gian phòng giống cái kho báu vừa rồi như đúc. Bên trong mộ thất cũng ngồn ngộn đống lớn đống nhỏ vàng bạc châu báu, bốn góc mộ thất cũng chống bằng bốn cây cột trụ cực lớn, kết cấu cơ bản giống hệt nhau.

Tôi thầm nghĩ thì ra trong địa cung này không chỉ có một kho báu, rốt cuộc cái đống của cải kia đến chừng nào mới hết? Hèn chi vương triều Đông Hạ yếu nhược lại có thể xây dựng một lăng mộ địa cung hùng vĩ đến thế, thì ra tích trữ ngút ngàn bảo bối là lề thói chung của những chính quyền độc tài. Thành Cát Tư Hãn chôn dưới thảo nguyên Mông Cổ, vàng bạc của đảng Đức Quốc xã do Hitler cầm đầu nghe đồn chôn ở Tây Tạng, còn của cải của anh em Gia Luật tộc Nữ Chân nước Đại Kim thì ở ngay chỗ này rồi.

Đang mải miết suy nghĩ, đột nhiên Bàn Tử bên cạnh hét lên một tiếng chói lói khiến tôi giật nảy mình.

Tôi cứ tưởng xảy ra chuyện gì bất ngờ, vội nhìn về phía hắn, chỉ thấy hắn há hốc miệng, đứng trên một đống châu ngọc không ngừng lắp bắp, nhưng mãi không thốt nên lời. Tôi vội vàng chạy đến nhìn thử, không khỏi giật mình kinh hãi, chỉ thấy giữa đống châu báu cũng có mấy khối thi thể nằm cuộn mình.

Tôi nghi hoặc hỏi: "Thuận Tử, anh có mấy người cha *=))))))*...... à không, nhóm người cha anh dẫn đi rốt cuộc có bao nhiêu người?" Còn chưa hỏi xong, tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng khiến tóc tai dựng ngược cả lên. Chỉ thấy giữa đống kim khí, cạnh mấy thi thể có một dãy đồ đạc được người ta bày biện rất chỉnh tề. Tôi chiếu đèn pin vào thì thấy đây chính là những thứ chúng tôi vừa sắp xếp trong kho báu ban nãy, từ trình tự cho đến chủng loại đều giống y đúc.

Bàn Tử cũng chịu không thấu, châm lên một cây pháo lạnh, mộ thất thoáng chốc sáng bừng lên. Chúng tôi tản ra xung quanh nhìn kĩ, mấy thứ này rõ ràng chính là những món đồ chúng tôi vừa lấy ra ban nãy.

Bàn Tử hoảng sợ nói: "Chuyện quái quỷ gì vậy? Đây là... có người bắt chước hành động của chúng ta...?"

Tôi nhíu mày, đứng lên, nhìn một vòng xung quanh, cảm giác quen thuộc ùn ùn kéo tới. Tôi cảm thấy tức cười: "Không phải đâu..... mà là chúng ta đã quay trở về chỗ cũ. Đây chính là nơi chúng ta vừa mới rời đi!"

Chương 41: Vòng lặp vô hạn

Ai nấy đều tái xanh mặt mày, chúng tôi nhìn xung quanh, càng nhìn lại càng chắc chắn. Trên mặt đất chỗ nào cũng có dấu chân của chúng tôi, đây chính xác là gian mộ thất chúng tôi đã phát hiện ra thi thể cha Thuận Tử vừa rồi. Quái lại, sao chúng tôi lại quay về chỗ cũ cơ chứ?

Mộ đạo là một đường thẳng tắp, khi đi chúng tôi đi cũng không gặp ngã rẽ nào, có bốn người với một cái xác làm chứng. Theo lý mà nói, tuyệt đối không thể đi mất hai mươi phút lại quay về nơi xuất phát được. Chuyện này đúng là ngoài sức tưởng tượng, cứ như có quỷ dựng tường vậy.

Bàn Tử chột dạ ngó nghiêng cửa mộ đạo dẫn vào đây, nói: "Chẳng lẽ trong khi đi, chúng ta đã vô thức quay về đường cũ? Con mẹ nó, chỗ này rõ tà môn."

Phan Tử nói: "Vớ vẩn. Nếu quay về đường cũ thì không thể không nhận ra, chúng ta có bốn người cơ mà. Tôi dám chắc chúng ta chỉ đi một đường thẳng tắp, mộ đạo này không dài cũng không có lối rẽ, chẳng lý gì lại nhầm."

Bàn Tử tiếp: "Mẹ kiếp, vậy đúng là quỷ dựng tường rồi. Thuận Tử, có phải cha anh đang đùa giỡn chúng tôi không? Anh nên dạy bảo lại ổng, chúng ta đang làm ăn nghiêm túc, hổng đùa đâu."

Thuận Tử giận giữ mắng lại: "Tôi cảnh cáo anh, đừng có nói bậy."

Tôi can bọn họ, lúc này thật sự không hợp để gây gổ. Toàn thân tôi vã mồ hôi như tắm, bởi tôi cảm thấy chuyện không nên xảy ra nhất có thể đã xảy ra, nhưng lòng tôi vẫn không dám hoàn toàn khẳng định, bèn nói: "Các anh đừng ầm ĩ. Muốn xem có phải chúng ta quay về đường cũ hay không chỉ còn một cách, chúng ta đi lại một lần nữa xem sao."

Mấy người bọn họ đưa mắt nhìn nhau, thấy nét mặt của tôi, bọn họ đại để cũng nhận ra có gì không ổn.

Lúc ấy tôi chợt nghĩ tới vẻ tuyệt vọng đến cùng cực của mấy cái thây khô kia, lẽ nào bọn họ cũng bị vây hãm ở trong này bằng cùng một kiểu mà chết? Đã không còn lương thực mà đi mãi đi mãi vẫn quay về chỗ cũ, chuyện này quả thực vượt quá sức tưởng tượng. Trực giác của tôi mách bảo rằng tôi đã đoán đúng, hơn nữa chuyện bọn họ bị vây hãm đến chết giờ lại xảy ra với chính chúng tôi.

Điều tôi nhất định phải làm lúc này là kiểm chứng dự cảm của mình, nói cho đúng là tôi muốn phủ định cái dự cảm khủng khiếp này, vậy nên tôi hấp tấp quay trở ra mộ đạo, những người khác phải vội vã đuổi theo cho kịp.

Vì đã đi qua một lần, biết chắc không có cơ quan bẫy rập gì cả nên lần này chúng tôi đi rất nhanh. Tôi bước như bay về phía trước, mắt săm soi thật kĩ hai bên mộ đạo. Cho đến khi chắc chắn không có lối rẽ nào, tôi mới bất giác quay đầu nhìn lại.

Lần này chỉ cần chưa đến mười phút, chúng tôi đã đi hết đoạn đường. Khi đi gần tới cuối mộ đạo, tôi đã không ngừng cầu nguyện, hi vọng dự cảm của mình đừng biến thành sự thực. Nhưng cuối cùng tôi vẫn cứ nhìn thấy cánh cửa ngọc thạch giống y xì lúc nãy, lòng chợt tê tái, mồ hôi cứ thế túa ra.

Đi qua cánh cửa, Bàn Tử xông ngay vào giữa đống châu báu, rồi quỳ xuống ôm mặt. Tôi lao vào xem xét cũng thấy sáu khối thi thể, những món đồ mình bày la liệt ra đất vẫn còn nguyên đó ........... Chúng tôi đã quay về chỗ cũ.

Dự cảm của tôi đã ứng nghiệm. Tôi đã hết sức chú tâm để chắc chắn 100% rằng không có lối rẽ nào cả, chúng tôi chỉ đi trên một đường thẳng, nhưng vẫn trở về điểm xuất phát.

Bàn Tử chạy một lúc cũng mệt, thở phì phò nói: "Đây là quỷ dựng tường, chắc chắn là quỷ dựng tường rồi, chúng ta có đi thế nào vẫn kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Hai đầu mộ đạo này đều là mộ thất, giờ chúng ta cũng sắp đi gặp ông già của Thuận Tử rồi. Thuận Tử, anh trò chuyện với ông già nhà anh chút đi, bảo ổng đừng đùa với chúng ta nữa, bằng không chúng ta quẳng ổng lại đây mà đi một mình."

Thuận Tử đã quá mức kinh ngạc, không rảnh mà cãi nhau với hắn. Lòng tôi cũng đang hoảng loạn, không ngừng xoay người nhìn vách tường bốn xung quanh nhưng không biết mình đang nhìn cái gì nữa.

"Bình tĩnh! Bình tĩnh nào!" Phan Tử vừa hét lớn, vừa thở phì phò. "Tuyệt đối không được hoảng loạn, cậu Ba, chẳng phải cậu đã nói chiêu trò của Uông Tàng Hải cùng lắm chỉ gây ra áp lực tâm lí sao? Chúng ta không cần biết có bị trúng kế hay không, giờ nhất định phải bình tĩnh, chắc chắn có chỗ nào đó không ổn."

Phan Tử vừa nói, tôi đột nhiên như được xối một ca nước lạnh vào cái đầu đang bốc lửa, người lập tức tỉnh táo. Cảm giác tuyệt vọng kia cũng nhạt dần, tôi vội gật lấy gật để: "Anh nói đúng, đây chắc chắn là cơ quan, hồi chúng tôi ở dưới hải mộ đã xác nhận không có chuyện quỷ dựng tường gì hết. Uông Tàng Hải là bậc thầy về chế tạo cơ quan xảo diệu, tạo ra không khí quỷ dị. Nếu không hiểu rõ, rất dễ bị hắn xỏ mũi dắt đi." Nói rồi ra sức véo mặt mình để xua đi cái cảm giác nghẹt thở này.

Những lời này thực ra là tôi tự nói cho bản thân mình nghe, nói xong cũng chẳng còn nhớ mình đã nói gì.

Sau này nghĩ lại chuyện cũ, tôi có cảm giác lúc ấy mình đã thấm thía thế nào là mọi việc vượt quá tầm kiểm soát của mình, nên mới muốn dùng những lời này để ám thị mình không được bỏ cuộc.

Bởi vì lúc đi vào mộ đạo kia, cảm giác của tôi hết sức rõ ràng, căn bản không thể tưởng tượng nổi Uông Tàng Hải đã dùng cơ quan như thế nào để tạo nên hiện tượng này. Đầu tiên tôi đã nghĩ ngay đến chuyện mộ thất hoặc mộ đạo đã dịch chuyển, nhưng điều đó là không thể, tôi lập tức phủ định. Chúng tôi đi đã nhanh, lắm rồi, nếu mộ thất có di động thì nó còn phải nhanh đến chừng nào? Mộ đạo lại càng không thể, chúng tôi đứng trong đó, chỉ cần nó hơi hơi chấn động là chúng tôi chắc chắn sẽ nhận ra. Nhưng nếu không phải mộ đạo hay mộ thất dịch chuyển thì chuyện này không sao giải thích cho nổi.

Tuy tôi không ngừng tự nhủ chắc chắn có cơ quan, nhưng thật ra trong lòng đã biết không phải như thế, nếu nó là cơ quan thì không thể giải thích nổi. Nhưng nói vậy vẫn có ích cho những người khác, ít ra cũng có thể đẩy lùi cơn hoang mang.

Nhưng tôi đã quá coi thường khả năng chấp nhận của đám Bàn Tử, Phan Tử xem ra còn trấn định hơn tôi nhiều. Anh lau mồ hôi, nhìn tôi hỏi: "Mặc kệ là quỷ dựng tường hay là cơ quan, đều phải giải quyết. Bây giờ phải làm gì? Có muốn đi thêm lần nữa không?"

Tôi cắn răng nói: "Đi! Con mẹ nó, lần này chúng ta đi chậm thôi, cảm nhận cho kĩ động tĩnh phía dưới chân hoặc bốn phía xung quanh, tôi không tin không có sơ hở."
Vậy là chúng tôi lại đi vào mộ đạo, lần này đi bốn mươi phút. Còn chưa đến đích chúng tôi đã biết mình sẽ thất bại, bởi vì cửa mộ giống nhau như đúc, dọc đường đi chẳng cảm nhận được gì.

Sau đó chúng tôi không biết đã đi thêm bao nhiêu lần, kết quả đều thất bại. Tôi đã dần dần cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của mấy thi thể này, sắc mặt ai nấy cũng ngày càng xấu.

Tôi cảm thấy tự giày vò bản thân thế này cũng không phải cách hay. Khi quay trở lại mộ thất, tôi bảo mọi người dừng lại. Đã thử đi biết bao nhiêu lần rồi, cơ bản chúng tôi đã loại trừ mọi khả năng. Cơ quan này chắc chắn đã dùng một phương pháp bố trí mà chúng tôi không tài nào tưởng tượng nổi.

Bàn Tử mệt đến độ muốn hạ đường huyết, nhưng vẫn kiên trì muốn đi tiếp. Hắn cứ nghĩ rồi sẽ có một khắc nào đó, cái mộ đạo ban đầu lại quay trở về, lúc đó chúng tôi có thể thoát ra.

Phan Tử nghe hắn nói vậy, chỉ nói một câu: "Anh đừng mơ hão nữa, cái mộ đạo kia tuyệt đối không thể quay về." Nói rồi nhìn sang mấy cái thây khô bên cạnh, ý tứ hết sức rõ ràng. Số lần mấy cái thây khô kia đi vào mộ đạo chắc chắn nhiều hơn chúng tôi gấp mấy, nhưng bọn họ vẫn bị vây khốn ở đây đến chết, cho nên cứ đi đi lại lại trong mộ đạo cũng vô ích, có đi đến hàng vạn lần cũng như nhau cả, chúng ta không cần xét đến chuyện may mắn hi hữu như thế.

Bàn Tử liền phát tiết, ngồi xuống nói: "Nhà anh nói thế chẳng hóa chúng ta chết chắc rồi? Mấy người này chắc chắn đã thử hết cách, chúng ta làm lại một lần cũng vô ích thôi."

Phan Tử nói: "Anh đừng có nghĩ quẩn, giờ cứ nghĩ vậy thì thà đập đầu vào tường mà chết cho khỏe. Đợi đến lúc chúng ta đã thử hết mọi cách rồi hẵng tuyệt vọng, bây giờ vẫn còn hơi sức thì ngồi nghĩ cách đi."

Tôi nghĩ đến số lương thực của mấy thi thể, bèn hỏi: "Có nên định lượng khẩu phần ăn từ bây giờ không? Chúng ta phải chuẩn bị một cuộc trường kì tác chiến, cầm cự được càng lâu thì cơ hội thoát ra cũng lớn hơn."

Phan Tử thở dài, lắc đầu nói: "Cậu Ba, tôi cũng không giấu cậu. Hoàn cảnh của chúng ta thực ra còn không bằng bọn họ, lương thực không có nhiều, tôi xem giỏi lắm cũng chỉ đủ ăn hai bữa, đó là chưa kể còn không được no. Tôi thấy không cần chia khẩu phần làm gì, có thế nào thì ăn thế nấy, cố giữ tinh lực dồi dào, quá hai ngày mà còn không ra được thì sẽ dùng thuốc nổ. Nếu thuốc nổ cũng vô dụng thì đành chờ người ta đến nhặt xác thôi."

Hai ngày. Lòng tôi run rẩy, mấy cái thây khô đã ở đây được bao lâu rồi, liệu chúng tôi có thể thoát ra trong vòng hai ngày không? Thật không dám chắc chút nào.

Bàn Tử đã sôi bụng, liền hỏi Phan Tử: "Đồng chí anh nuôi, chúng ta có thể ăn cơm trước kẻng không? Tôi trước hết phải phân tán sự chú ý sang chuyện khác rồi mới có sức mà nghĩ tiếp được." 

Nghi Bàn Tử nói vậy, chúng tôi cũng bắt đầu cảm thấy đói bụng. Phan Tử không còn cách nào đành phải châm lò nấu cơm. Lương thực của chúng tôi thực ra chỉ còn mì sợi, mới ăn xong còn tạm no nhưng không kéo dài được bao lâu. Bàn Tử cứ hậm hực vì cơm không có thịt, tôi nói có món hài cốt đông lạnh kia, anh cứ dùng tự nhiên. Thuận Tử không ngại đâu, chúng tôi cũng không thèm để ý.

Ăn xong rồi người ấm hẳn ra, tinh thần cũng trở nên tỉnh táo, mọi người lại bắt đầu cân nhắc. Tôi nhớ lại cả quá trình xuống địa cung, mạo hiểm vạn phần, có ai mà ngờ vào được địa cung rồi vẫn không được yên thân. Cái địa cung này chắc chắn Uông Tàng Hải phải thiết kế với dụng ý nào đấy, nhưng rốt cuộc nó là cái con khỉ gì mới được chớ?

Địa cung xưa nay đều có hình chữ 'hồi' (回). Linh điện ở chính giữa, là nơi phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt nhất, Uông Tàng Hải tất nhiên không dám động chân động tay vào. Còn đâu thì bốn bề địa cung hình chữ 'hồi' vây quanh bởi hố tuẫn táng, hệ thống thoát nước cộng thêm những hành lang, mộ đạo rắc rối phức tạp. Vậy hẳn là giờ này chúng tôi vẫn còn ở ngoài rìa trung tâm của địa cung

Tôi thử phán đoán vị trí của mình theo chiều thẳng đứng lẫn chiều ngang, dựa vào suy đoán của tôi về kích thước địa cung mà tính xem mình đang ở đâu. Nhưng chuyện này hết sức khó khăn, khi chui vào bài đạo chúng tôi đã loạn đầu, giờ thì chịu chết không xác định nổi phương hướng, có quỷ mới biết cái cửa hang cuối cùng chúng tôi đi ra nó ở hướng nào.

Đúng lúc đầu óc đang xoay mòng mòng, Bàn Tử đang làm bộ suy nghĩ đột nhiên tỏ ra bừng tỉnh, nói với chúng tôi: "Tôi nghĩ ra rồi!"

Chương 42: Càng thêm khốn cùng

Bàn Tử đột ngột kêu đã nghĩ ra làm chúng tôi sợ hết cả hồn, nhưng rồi cũng nhanh chóng chuẩn bị tinh thần để nghe Bàn Tử lảm nhảm. Chúng tôi đã quen thói ba hoa khoác lác của gã Bàn Tử này rồi, thay vì mỗi lần đều gạt đi, chi bằng cứ mặc kệ hắn lảm nhảm cho rồi! Hơn nữa nhiều khi cách nghĩ của hắn không giống với chúng tôi, nghe mấy câu cũng không hại gì.

Thật ra lúc ấy tôi cũng chẳng sợ lắm, vì còn chưa đến lúc hết đạn cạn lương, mỗi tội nhìn mấy khối thi thể ở đây, trong lòng khó tránh khỏi nghĩ đến những chuyện chẳng hay ho gì. Kể ra hạng người như tôi gặp hình thức khiêu chiến trí tuệ thế này còn mừng thầm trong bụng ấy chứ, so với gặp phải một đống bánh tông thì chuyện này còn thoải mái hơn nhiều.

Phan Tử cũng nghĩ như tôi, không coi đây là chuyện lớn, thuận miệng hỏi Bàn Tử: "Cái gì thế? Anh đừng có lảm nhảm nữa, giờ tụi này không còn hơi sức mà nghe đâu."

Bàn Tử lại gần chúng tôi, nói với Phan Tử: "Mẹ kiếp, anh kỳ thị tôi quá đấy! Ông chỉ trót nói bậy một lần thôi, lần này chuyện tôi nghĩ ra nhất định là mấu chốt!"

Phan Tử bật cười ha hả, nói: "Bộ óc quả nho của anh thì nghĩ ra cái khỉ gì chứ."

Bàn Tử lần này lại cực kỳ chăm chú, nghiêm mặt nói: "Thực ra cũng không phải mấu chốt gì, vừa rồi tôi thông minh đột xuất, chợt nhớ đến cơ quan trong ngôi mộ dưới đáy biển. Nghĩ mà xem, lúc ấy chúng ta cũng phức tạp hóa vấn đề, nhưng thực chất sự tình đơn giản biết bao nhiêu? Tôi nghĩ lúc này đây có phải chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều, hơn nữa lại thêm ấn tượng sâu sắc với cơ quan trong huyệt mộ dưới đáy biển, vừa gặp những chuyện kiểu này đã nghĩ ngay theo hướng gian phòng dịch chuyển. Có lẽ vấn đề ở đây căn bản không liên quan tới mộ thất, chỗ này chỉ là một mộ thất bình thường thôi."

Phan Tử cười khẩy: "Nhảm nhí. Nếu là mộ thất bình thường, sao bố lại éo thoát ra được ..."

Tôi thấy Bàn Tử chưa nói hết, biết còn vế sau, liền khoát tay ngăn Phan Tử lại, ra hiệu hãy để Bàn Tử nói tiếp.

Bàn Tử trình bày: "Thật ra chuyện hết sức đơn giản, thử nghĩ mà xem, nếu hành lang và mộ thất đều không có vấn đề mà chúng ta đi hoài vẫn không ra được, vậy vấn đề ở đâu? Nhất định là nằm ở chính chúng ta rồi."

Lần này tôi và Phan Tử đều sửng sốt. Tôi bảo: "Anh nói cái vòng lặp vô hạn này xuất hiện là do chính chúng ta?"

Bàn Tử gật đầu: "Tuy còn chưa rõ vấn đề cụ thể nằm ở đâu, nhưng cũng không sai lệch lắm. Tôi nghĩ liệu có phải chúng ta đã bị những tấm bích họa kia thôi miên ám thị rồi không? Hay đơn giản là chỗ này có cái gì sinh ra khí gây ảo giác, chúng ta đã trúng độc cả rồi. Tôi biết có một loài nấm lỡ ăn phải sẽ bị rối loạn khả năng định vị, cứ tự quay vòng một chỗ mà không biết."

Trước kia Bàn Tử đã kể với tôi, hồi nhỏ hắn từng gặp thứ bẫy bắt gấu dùng loại nấm độc này trong rừng, trúng độc rồi con gấu cứ xoay vòng vòng tại chỗ cho đến chết.

Tôi thoáng trầm tư, Phan Tử cũng không nói năng gì, nhíu mày bắt đầu cân nhắc lời của Bàn Tử.

Vấn đề nằm ở bản thân chúng tôi sao? Nếu là vậy thì chuyện này càng khó giải quyết hơn. Có điều tôi cân nhắc một lúc thì có cảm giác không đúng lắm.

Thực ra cách giải thích của Bàn Tử rất gợi mở, có lẽ sự thật rất gần với những gì hắn nói, nhưng lại có một điểm mâu thuẫn trí mạng, chính là cảm giác của chúng tôi. Chúng tôi trông đâu có giống người trúng độc? Tôi nào phải chưa từng trúng độc, người trúng độc nhất định phải có phản ứng khó chịu mãnh liệt cơ.

Mà thôi miên thì tôi vẫn không tin tưởng cho lắm. Vì tính định hướng đối tượng của nó quá mạnh, nếu nói Bàn Tử dễ bị thôi miên thì có khi tôi còn tin đấy, nhưng tôi với Phan Tử thì không bao giờ.

Nhưng nếu quay về với phạm trù cơ quan xảo thuật thì thực khó mà nghĩ ra cái gì. Thật ra vừa nãy tôi đã nghĩ ra khoảng mười phương pháp, trong đó có hai ba loại kết cấu kiến trúc hoàn toàn có thể tạo ra bố cục như vậy, song mấy phương pháp này yêu cầu quá cao, nói cách khác là nhất định phải có tiền đề tuyệt đối, ví dụ như ba người phải tụm lại một chỗ, tốc độ phải cố định, vân vân... Uông Tàng Hải tuyệt đối sẽ không sắp xếp những cái bẫy mang tính ăn may như thế.

Tôi bỗng dưng chột dạ, phải chăng mình đã bị át vía quá mức rồi? Cứ nghĩ Uông Tàng Hải đã là người từ thời nảo thời nao rồi, thế quái nào mà đến tận bây giờ chúng tôi vẫn không chiếm nổi một chút lợi thế cơ chứ?

Chúng tôi nhanh chóng bắt đầu suy xét vấn đề, ai nấy đều yên lặng tập trung. Bàn Tử thấy chúng tôi nghe mình trình bày xong xuôi vẫn chẳng ừ hữ gì, nhất thời không biết phải làm sao, đành tiếp tục ra vẻ trầm tư suy nghĩ như mọi người. Tính nát óc mà không ra, tôi càng nghĩ càng quẫn, càng ngày càng mệt mỏi, sau đó không hiểu sao lại ngủ mất tiêu.

Có điều đại khái cũng chỉ chợp mắt ba bốn phát gì đấy, đầu óc mơ mơ màng màng thôi chứ không thiếp hẳn đi. Chợt nghe tiếng Phan Tử và Bàn Tử nói chuyện, vừa tỉnh giấc tôi liền phát hiện bọn họ lại đang đi vào mộ đạo kia. Thuận Tử rõ ràng là vừa chạy về đến nơi, phì phò thở dốc, mà nhìn sắc mặt Bàn Tử thì rõ ràng kết quả vẫn vậy, chẳng có tiến triển gì.

Tôi dụi dụi mắt, hỏi bọn họ đang làm gì vậy, Bàn Tử nói có nghĩ cả buổi cũng chẳng ra manh mối, chi bằng cứ thử nghiệm còn hơn. Vừa rồi bọn họ cho một người nhắm mắt lại đi đằng trước, một người khác theo dõi từ phía sau, hai người buộc lại với nhau bằng dây thừng, để xem có chuyện đi được nửa đường thì người mở mắt bỗng dưng ngoặt lại không.

Tôi nghe xong cũng phải run rẩy, đây đúng là phương pháp thí nghiệm khiến người ta suy sụp. Cũng may mà mấy người này thần kinh tưng tửng, chứ nếu là tôi thì có quỷ mới biết đi được nửa đường rồi cái kẻ buộc vào đầu dây bên kia có còn là người ban đầu hay không.

Nhưng rốt cuộc kết quả vẫn vậy, dù là che mắt hay nhắm tịt mắt đều có cảm giác mình vẫn đi thẳng một đường, nhưng cả hai rốt cuộc vẫn quay trở lại mộ thất này. Vì người phải nhắm mắt là Thuận Tử nên hắn ta đi lại đặc biệt vất vả, sắc mặt trắng bệch ra.

Mấy người lại ngồi vào chỗ cũ, cùng thở ngắn than dài. Tôi khuyên họ nên tiết kiệm sức lực, thực ra kiểu thử nghiệm mù quáng như vậy chỉ tổ khiến cho tư duy đứt quãng mà thôi. Chuyện kế tiếp lại giồng như trước khi tôi ngủ, chúng tôi bắt đầu bàn luận mấy vấn đề không đâu vào đâu.

Trong lúc bàn bạc luôn có người ngủ gật, nhưng cũng may là một người ngủ thì vài người khác vẫn có thể nghĩ tiếp. Cứ thế, chúng tôi mỗi người góp một ý, lần lượt nói ra rồi lại bác bỏ. Lúc đầu lý luận còn nhiều, về sau những người lên tiếng càng ngày càng ít. Thời gian đã trôi qua sáu bảy tiếng đồng hồ từ lúc nào chẳng hay, dạ dày chúng tôi lại bắt đầu kêu réo.

Sau cùng Bàn Tử đốt một điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói với chúng tôi: "Không được, bọn mình mạnh ai nấy nghĩ thế này thật lãng phí thời gian. Chi bằng chúng ta viết hết mọi khả năng có thể ra, sau đó tổng hợp thành vài giả thiết rồi trực tiếp kiểm chứng, được không?"

Tôi bèn gật gù. Nói cho cùng thì rất nhiều vấn đề chúng tôi bàn bạc là trùng lặp, mọi người đều rơi vào trạng thái hỗn loạn rồi.

Bàn Tử dọn dẹp bề mặt một tảng đá trên mặt đất phủ kín kim khí, rồi viết xuống một dãy số: 1-2-3-4, nói: "Hãy thử nhớ lại xem chúng ta đã có mấy giả thiết rồi? Mọi người đều nghĩ, không cần phải cụ thể, chỉ cần khái quát là được rồi."

Phan Tử nói trước: "Khả năng cao nhất là có cơ quan."

Bàn Tử viết vào chỗ số 1 chữ "cơ quan". Sau đó Thuận Tử lại lên tiếng: "Theo tôi thì có thứ gì đó ảnh hưởng đến cảm giác của chúng ta, ví dụ như ám thị tâm lý hoặc thôi miên, khiến chúng ta tự quay về chỗ cũ mà không biết."

Bàn Tử bảo hắn ta: "Không cần phải nói chi tiết như thế." rồi viết chữ "ảo giác" đằng sau số 2, sau đó nhìn về phía tôi.

Tôi góp ý: "Trên lý thuyết thì cũng có thể là nếp gấp không gian." (*)

(*) Nguyên văn: 空间折叠. Là một lý thuyết trong thiên văn học dựa trên thuyết tương đối rộng của Einstein, nói đơn giản là lực hút quá mạnh sẽ làm không gian trở nên méo mó, hai điểm vốn cách xa nhau được kéo lại trùng khít lên nhau. Lý thuyết này cho rằng những lỗ đen rải rác trong vũ trụ, nơi lực hút lớn đến nỗi ánh sáng cũng không thể thoát ra được chính là những cánh cửa không gian như thế.

"Không có chuyện đó đâu, giả thiết này quá siêu thực rồi." Phan Tử kêu lên.

Bàn Tử lại nói: "Kệ đi, xác suất có là một phần vạn thì chúng ta cũng thừa nhận. Giờ ta mới chỉ liệt kê ra thôi mà." Nói đoạn cũng viết lên đằng sau số 3 chữ "nếp gấp không gian". Sau đó hắn tiếp: "Còn một khả năng nữa là có quỷ." rồi viết ra khả năng thứ tư: có quỷ.

"Anh viết ra như thế để làm gì cơ chứ?" Phan Tử mù mờ hỏi.

Bàn Tử đáp: "Các anh học nhiều, không hiểu được đâu. Bố đây ít học, mẹ kiếp mọi thứ cứ phải giấy trắng mực đen viết ra mới được. Nhưng làm thế cũng có cái tốt, ví như có những chuyện có thể làm cùng một lúc, nếu anh biết trước thì có thể tiết kiệm được ối thời gian rồi, chẳng phải chúng ta chỉ còn hai ngày thôi sao? Tốt nhất vẫn nên giản lược đi. Phải rồi, còn giả thiết thứ năm nữa không? Ai có giả thiết thứ năm?"

Tôi nhìn bốn luận điểm kia, trong đó quả thật đã bao quát từ cơ học lượng tử đến lý thuyết siêu hình, từ tâm lý học đến kiến trúc học, bốn ngành học lớn đều góp mặt hết, luận điểm thứ năm thực sự không thể nghĩ ra trong một chốc một lát được. Cuộc thảo luận ban nãy của chúng tôi thực chất cũng chỉ quanh đi quẩn lại điểm một và hai, chứ còn điểm ba và bốn coi như không thể xảy ra.

Bàn Tử thấy chúng tôi đều không có phản ứng gì, bèn nói: "Được, giờ chúng ta kiểm chứng điểm một và điểm hai trước. Hai điểm này vừa hay có thể giải quyết cùng một lúc."

"Anh định kiểm chứng bằng cách nào?" Tôi vẫn còn nghi hoặc.

Trên thực tế thí nghiệm gì có thể tiến hành chúng tôi đều đã thử cả rồi, nhưng vì mộ đạo quá dài, rất nhiều thí nghiệm thật ra đều vô dụng.

Bàn Tử bất chợt cười cười: "Thật ra ban nãy tôi đã nghĩ được một cách hay, muốn chứng minh rốt cuộc chúng ta bị ảnh hưởng bởi điểm 1 hay điểm 2 có lẽ là không thể, nhưng muốn chứng minh bằng phản biện thì hoàn toàn khả thi, cậu xem có được không này."

Tôi nhìn Bàn Tử dương dương đắc ý cứ như mọi chuyện đã nằm trong lòng bàn tay, lập tức cảm thấy không ổn, hay là cha nội này đã có tính toán gì rồi? Chỉ thấy hắn nhặt khẩu súng trường trên mặt đất lên rồi bảo chúng tôi: "Cái mộ đạo này dài khoảng 1000m đến 2000m, tầm sát thương của khẩu K56 này là 400m nhưng viên đạn có thể bay hơn 3000m lận. Tôi sẽ đứng đây bắn một phát, để xem kết quả thế nào."

Tôi nghe xong như mặt trời chân lý chói qua tim, thâm tâm kêu trời một tiếng: Đúng là thiên tài!

Nếu cảm giác của chúng tôi có vấn đề, thì viên đạn kia là thứ vô tri vô giác. Mộ đạo có thể gây ảnh hưởng lên chúng tôi, nhưng không thể ảnh hưởng đến một viên đạn được. Nếu như tình hình ở đây còn có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích thì viên đạn kia chắc chắn sẽ biến mất nơi cuối mộ đạo, không thể quay về.

Chỗ hoàn hảo của thí nghiệm này nằm ở tốc độ của viên đạn: Với mộ đạo dài chừng này, viên đạn chỉ mất 2 đến 3 giây là có thể hoàn toàn đi hết, bất kì cơ quan cạm bẫy nào cũng không thể phát huy tác dụng trong thời gian ngắn ngủi này được.

Nhưng nếu tình hình ở đây thật sự vượt ra ngoài phạm vi giải thích của lý lẽ thông thường, tiến vào phạm vi siêu hình, thì viên đạn sẽ giống hệt chúng tôi, chuyển hướng 180 độ ngay trong không gian siêu việt của mộ đạo thẳng tắp.

Đơn giản mà hoàn mỹ, cực kỳ phù hợp với tinh thần khoa học, tôi thật sự hổ thẹn vì mình là sinh viên mà không nghĩ ra nổi biện pháp nào như vậy.

Có điều nghĩ kĩ thì một chiêu thế này cũng chỉ có người như hắn là nghĩ ra nổi, đây là tư duy logic đơn giản nhất.

Muốn phán đoán xem có bị ảnh hưởng của ảo giác hay không, thì phải tìm một vật không bị ảo giác ảnh hưởng, muốn tìm vật như thế phải nhìn đến những thứ ngay bên cạnh mình, theo phương pháp bắc cầu sẽ nghĩ ra cách này ngay, không hề phức tạp. Tôi đột nhiên cảm thấy Uông Tàng Hải đã gặp phải đối thủ rồi. Loại người tính toán kĩ lưỡng như ông ta có lẽ chỉ sợ gặp phải lối tư duy đơn giản như của Bàn Tử, cho dù là quỷ kế gì cũng bị đưa về mức đơn giản nhất.

Bàn Tử nói làm liền làm ngay, chúng tôi chỉ còn biết theo sau. Hắn bước vào mộ đạo, kéo chốt an toàn, muốn nổ súng bắn vào mộ đạo.

Tôi vội vàng kêu to: "Đợi đã!"


 "Sao vậy?" Hắn hỏi.

"Đừng làm thế." Tôi kêu lên, "Nếu mà, tôi nói nếu thôi nhé, chỗ này thật sự tà đạo đến mức đó, thì sau khi nổ súng có thể chính bản thân anh sẽ trúng đạn trong tích tắc."

Bàn Tử biến sắc, hiển nhiên vừa rồi hắn vẫn đinh ninh điểm thứ nhất và thứ hai mới có khả năng lớn, căn bản không hề cân nhắc xem điểm thứ ba thứ tư có thể xảy ra không. Có điều nghe tôi nói xong hắn cũng gật đầu, dịch súng sang bên cạnh một chút. Đạn luôn bay theo đường parabol, nếu viên đạn bị bắn ngược trở về thì có lẽ sẽ găm vào vị trí hơi chênh chếch phía dưới họng súng.

Cả đám chúng tôi đều nấp ở lối vào, còn chưa kịp chuẩn bị tâm lý kỹ càng thì Bàn Tử đã đột ngột nổ súng. Một tiếng nổ 'đoàng' dữ dội vang lên trong mộ đạo, tiếp đó tiếng vọng liên tiếp dội lại, nhưng gần như cùng lúc, chúng tôi thấy cửa mộ chấn động mạnh, tro bụi bay mù mịt.

Đầu tôi nổ đánh đùng một cái, thầm nhủ không xong rồi. Vội vàng thò đầu ra ngó, tôi thấy Bàn Tử đứng im như tượng, vẫn giữ tư thế nổ súng, nhưng trên cánh cửa, cách khoảng 5, 6cm về phía dưới họng súng của hắn xuất hiện một vết đạn, vệt khói khi đạn găm vào còn chưa tan hết.

Chương 43: Đổ đấu và vật lý lượng tử

Một lần nữa chúng tôi lại trở về mộ thất chứa báu vật, không khí đã khác hẳn so với hồi nãy. Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Chiếc lò không khói chiếu lên đống kim khí, ánh sáng vàng rực rỡ hắt ra giờ đây lại khiến người ta cảm thấy cực kỳ đáng ghét.

Không ai đưa ra ý kiến nữa. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi biết bọn họ cũng giống tôi thôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.

Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ khoa học nào trải qua thực nghiệm đơn giản này đều đổ vỡ hoàn toàn.

Bởi vì không một ai đủ sức khiến cho một viên đạn, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoặt được một vòng lớn khủng khiếp như thế.

Muốn dùng khoa học để giải thích hiện tượng này, e rằng có vét cả lý thuyết vật lý lượng tử ra cũng chưa chắc đã cắt nghĩa nổi.

"Đây đúng là quỷ dựng tường thật rồi!" Sắc mặt Thuận Tử khó coi hết biết. Hắn nhìn sang dòng chữ người cha để lại phía bên kia, lộ ra vẻ mặt bi thương đan xen với sợ hãi.

Tôi biết giờ này hắn đang nghĩ tới điều gì. Hắn đã hiểu vì sao đám thây khô nằm giữa đống châu báu kia lại mang vẻ mặt tuyệt vọng đến thế. Lâm vào hoàn cảnh này, đã thử đi thử lại vô số lần nhưng cuối cùng vẫn quay về khởi điểm cho đến khi hết đạn cạn lương, hỏi sao không tuyệt vọng cho được. E rằng đến tận lúc chết, tâm tư đã hóa tro tàn, bọn họ vẫn chẳng tìm ra lấy một manh mối.

Mà chúng tôi rất có thể sẽ trở thành lớp tiếp theo. Chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc thêm ra bốn cái thây khô quắt, gương mặt cũng khắc sâu nỗi tuyệt vọng tột cùng, để những kẻ hi sinh đến sau tha hồ suy đoán tâm tư trước khi chết của chúng tôi.

Sở dĩ trước đây tôi không tuyệt vọng, cũng chẳng thể ngờ mình sẽ đi đến bước đường này, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi, nhất định sẽ không thể bị vây khốn. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Rõ ràng tình huống chúng tôi gặp phải quỷ dị hơn nhiều lắm.

"Có muốn tiếp tục không?" Yên tĩnh được khoảng 10 phút thì Phan Tử hỏi bằng giọng khô khốc.

Không ai đáp lại, nhưng ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Bàn Tử.

Trên mặt đất phía trước Bàn Tử còn sót lại hai giả thiết. Giả thiết thứ ba là ý kiến do tôi thuận miệng bịa ra: nếp gấp không gian.

Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớ lại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trước mắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra, giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cái thí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trở thành cách giải thích hợp lý nhất.

Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quên sạch mọi thứ.

Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: "Được rồi, ai cũng đã được thấy tận mắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểm thứ ba đây."

"Không! Không cần chứng minh đâu." Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.

Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởng mộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều này liên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anh nói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.

Nhưng anh lại bảo: "Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ ba của cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng ta không cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nào thừa nhận mình đã chết chắc rồi."

Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phản đối: "Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi."

Phan Tử thở dài một hơi: "Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng."

Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích, tôi thầm nhủ: "Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gì tới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thì tinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng."

Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gì nữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gì không, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ý kiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.

Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hết những đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặc những mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.

Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũng chẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cả đèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng không có gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai người kia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còn tỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có hai người rời đi sao?

Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?

Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.

Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giải quyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thần một chút.

Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họ đừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũng đủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và một cuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mối trong từng câu từng chữ.

Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viết hẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và số điện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình như người phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần tái khám. (có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A< )

Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lật từng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: "Có manh mối chỗ này này." Nói rồi hắn đọc lầm rầm: "Hôm nay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lão Lý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh."

Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bút ký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đã nhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.

Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửi bới: "Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lương tâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!"

Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.

Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đi nhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: "A, có tấm ảnh kìa." Nói đoạn anh bới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.

Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thì ra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ở bến tàu trước chuyến đi Tây Sa.

Chương 44: Nhng người đến t đáy bin

Trên người tôi vẫn còn nội thương, nhìn thấy tấm ảnh xém chút nữa đã hộc máu, làm mấy người khác sợ hãi la hét ầm ĩ. Đám Phan Tử chưa từng thấy tấm ảnh này, tuy có nghe tôi kể lại nhưng nhìn lướt vẫn không nhận ra, nên đều cảm thấy khó hiểu. Bàn Tử vội vàng giúp tôi thuận huyết, hỏi tôi có sao không.

Tôi run lẩy bẩy cầm lấy tấm ảnh, chỉ hình Muộn Du Bình và chú Ba trên ảnh cho bọn họ xem. Xem xong nét mặt mấy người kia lập tức biến đổi, trông còn khó coi hơn cả tôi, chẳng ai thốt nên lời.

Tôi không thể nào tin đó là sự thật, ngoảnh đầu lại nhìn mấy cái thây khô phía bên kia mà lòng dạ rối như tơ vò.

Tấm ảnh này không thể nằm trên người kẻ vô can, lẽ nào nhóm người thần bí mười năm trước leo lên Trường Bạch Sơn rồi bị vây khốn đến chến ở trong này lại chính là đám người dưới đáy biển kia? Mấy cái thây khô này, không lẽ lại là đám người Văn Cẩm, Lý Tứ?

Tôi run rẩy lật tấm ảnh lại, thấy mặt sau còn có một dòng chữ nhạt nhòa: Đội khảo cổ Tây Sa, kỷ niệm của Lý Tứ. 

Xem ra đúng là vậy rồi, nếu nói tấm ảnh này do những người khác mang vào đây thì quả thực hết sức vô lý. Mang theo ảnh lưu niệm tùy thân, chắc chắn phải là người trong cuộc... Hèn chi chú Ba làm đủ mọi cách vẫn không tìm nổi bọn họ, hóa ra đã chết rũ ở đây từ lâu rồi.

Nhìn trang phục thì thấy hoàn toàn trùng khớp, lại thêm tấm ảnh này... Nhưng vì sao những người này lại muốn đến đây cơ chứ? Lẽ nào trong huyệt mộ dưới đáy biển họ đã phát hiện ra thứ gì đó nên mới tìm đến núi Trường Bạch?

Đợi đã, không phải chứ. Tôi đột nhiên nghĩ đến chú Ba, nghĩ đến Muộn Du Bình. Trời ạ, gần như tất cả những người từng vào ngôi mộ dưới đáy biển giờ đều có mặt tại Vân Đỉnh thiên cung. Đám người này đã tới từ mười năm trước, gần đây lại đến lượt chú Ba và Muộn Du Bình. Rốt cuộc vì sao bọn họ cứ phải khăng khăng đâm đầu vào chỗ này cơ chứ?

Những bí ẩn đã vùi vào quên lãng phút chốc sống dậy trong lòng, hằng hà sa số vấn đề cũng ào ào xộc thẳng vào đầu tôi.

Nhóm người Phan Tử không biết chuyện cũ của chú Ba nên lúc nhìn thấy tấm ảnh còn khiếp sợ hơn tôi nhiều, tôi đành phải kiên nhẫn giải thích một lần, mấy người kia nghe đến đâu là trợn mắt há mồm đến đấy. Bàn Tử nói: "Vô lý, mà khoan, để tôi nghĩ thêm đã... Hầu như tất cả những người đã từng đến ngôi mộ dưới đáy biển, kể cả A Ninh và chúng ta, đều đã tới nơi này rồi. Không lẽ huyệt mộ kia có một lời nguyền, chỉ cần đặt chân vào đó thì nhất định phải leo lên núi Trường Bạch ... Không đúng, nói thế hình như không chuẩn?"

Bàn Tử đương nhiên chỉ nói nhảm nhưng cũng đủ làm tôi ớn lạnh, có điều gì đó trong lòng bắt đầu sáng tỏ. Xem ra ngôi mộ dưới đáy biển cũng không phải là mấu chốt, mà mấu chốt là ở đây cơ. Huyệt mộ dưới đáy biển chẳng qua chỉ là tấm ván bắc cầu mà thôi...

Tôi lục lọi bằng sạch tất cả những gì có thể lấy từ thi thể, nhưng vẫn chẳng kiếm ra thêm bất kì manh mối nào. Thậm chí những người này là ai, tôi cũng không hoàn toàn nắm rõ. Lòng tôi rối như canh hẹ, mụ mị xoay người chuyển hướng bước vào mộ đạo, đến đèn pin cũng chẳng buồn đem theo.

Bàn Tử vội vàng níu lại nên tôi mới tỉnh ra, hắn bảo cậu có cuống lên cũng chả ích gì, những người này chẳng phải đã bị giam đến chết ở đây sao. Cậu chết đi có thể hỏi oan hồn bọn họ xem đã xảy ra chuyện gì thật, nhưng có biết thì cũng quá muộn rồi.

Tôi thuận đà ngồi xuống thở hổn hển, dần dần bình tĩnh lại, trong đầu chỉ còn một ý niệm: "Mình nhất định phải thoát ra, nhất định phải tìm chú Ba để hỏi rõ ngọn ngành, bằng không có chết cũng không nhắm nổi mắt."

Bàn Tử nói: "Nhưng đến giờ đã tìm được manh mối nào chứng minh trong số họ đã có người thành công thoát ra đâu. Không chừng chỗ này là một không gian khép kín, căn bản không thể thoát ra, cậu có nhắm tịt hai mắt cũng vô ích."

Bàn Tử vừa thốt ra lời này, những người khác đồng loạt câm nín. Chúng tôi đang định tìm kiếm chút manh mối trên mấy khối thi thể này, thoáng cái lại phát hiện ra một bí mật lớn kinh người, thật sự là sóng trước còn chưa yên, sóng sau đã xô tới.

Mọi người đều theo đuổi những ý nghĩ riêng, bầu không khí trầm xuống đến cực điểm. Đầu óc tôi hỗn loạn, căn bản không dám nhìn lại bức ảnh, chỉ sợ trong đó sẽ xuất hiện quái vật hút tôi vào. Cổ họng cũng bắt đầu ngứa ngáy, hình như bị cảm lạnh rồi, tôi bắt đầu ho khan ra máu.

Phan Tử thấy vậy bèn bảo với cả bọn: "Hôm nay cứ nghỉ ngơi đi đã, dù sao một chốc một lát cũng không ra được, chi bằng cứ đánh một giấc thật đẫy cho đầu óc tỉnh táo đã. Cậu Ba đừng nghĩ ngợi nhiều quá, tôi biết cậu ôm rất nhiều khúc mắc trong lòng, nhưng muốn làm rõ cũng không phải chuyện một sớm một chiều đâu."

Tôi khoát tay. Làm sao mà ngủ được chứ, chẳng thà ngồi đây nghĩ tiếp cho rồi. Nghĩ đến khi chịu hết nổi mới thiếp đi được, bằng không càng ngủ càng mệt thêm thôi.

Bàn Tử chẳng biết đã rít đến điếu thuốc thứ mấy rồi, vừa rít vừa làu bàu: "Giờ tôi lại nghĩ, nếu sớm biết thế này hồi nãy đã không đi theo cái ký hiệu kia. Giá nghe lời tôi có phải tốt hơn không, một nhóm bị nhốt rồi nhóm kia còn có đường nghĩ cách... (Bàn T tng đ ngh chia làm 2 nhóm) Cái ký hiệu đó, giờ ngẫm lại có khi là do mấy cỗ thi thể kia để lại cũng nên. Cậu xem, mọi chuyện đều trùng khớp. Có lẽ bọn họ cũng nghĩ như chúng ta, chia ra thành hai nhóm, hai người kia đi vào mộ đạo đối diện."

Tôi lắc đầu bảo không đâu, một nhóm bị nhốt rồi, nhóm kia quay lại tìm chẳng phải cũng dính trấu như nhau sao, đến lúc đó mới gọi là thảm. Hơn nữa không chừng đi bên không có ký hiệu kia còn nguy hiểm hơn, vì đâu ai biết chờ chúng ta là cái quái gì.

Có điều đào sâu suy nghĩ lại thấy vô lý, vì nếu một nhóm bị nhốt thì khi nhóm kia quay lại mộ đạo đã biến đổi, bọn họ sẽ không tài nào tìm ra cái mộ thất này. Ký hiệu kia liệu có phải do người may mắn sống sót ghi lại, là ký hiệu "đội này đã mất tích"?

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đột nhiên run bắn toàn thân... Một tia điện xẹt qua óc tôi... Ký hiệu...

Tôi dồn sức ngồi bật dậy, nói với bọn họ: "Tôi bỗng nhớ ra một sơ hở rất quái dị. Về cái mộ đạo này, có một ."

"Cái gì cơ?"

Tôi nhíu mày nghĩ xem mìnhphải diễn đạt thế nào, "Tôi sợ các anh nghe khônghiểu. Thí dụ nhé, nếu chúng ta đi ra ngoài trong bóng tối, bất kể là vì nguyên nhângì, chúng ta đều phải qua một quá trình thay đổi phương hướng, cho dù quá trình này bản thân chúng ta không hề hay biết, có đúng không?" Mấy người kia khẽ gật đầu, tôi nói tiếp: "Ví dụ như, tôi cầm một cây bút vừa đi vừa vẽ lên tường thì nhất định sẽ để lại một vạch thật dài trên tường lối ra. Vậy trong tích tắc tôi bị đổi hướng mà không biết, các anh đoán xem tôi sẽ phát hiện điều gì?"


Bàn Tử gần như nhảy dựng lên: "Cậu sẽ thấy trên vách tường mộ đạo phía trước đã có dấu vết cậu vạch ra từ trước rồi!"

"Không chỉ có vậy!" Tôi nói: "Điểm mấu chốt nhất là gì? Chính là sau khi tôi quay người, trái phải sẽ đổi chỗ cho nhau, tay cầm bút của tôi sẽ bắt đầu vạch lên vách tường bên kia."

"Cái này!" Phan Tử cũng nhíu mày nói.

"Đây là suy luận logic." Tôi giải thích: "Nói cách khác, nếu như dùng logic học để giải thích, đặt giả thiết ở chính giữa mộ đạo có một điểm ngoặt! Ở điểm ngoặt này chúng ta sẽ giống như bước vào một tấm gương, sau đó đi thẳng về hướng ngược lại với mình, các anh có công nhận không nào?"

Ai nấy đều gật đầu, theo logic thì nhất định phải như tôi nói.

Tôi nói: "Tốt, vậy các anh nghĩ thử coi, nếu trong lúc đi chúng ta thực sự đụng phải một 'mặt phản xạ' như lời tôi nói, vậy cái mặt phản xạ này phải dày cỡ nào?"

"Dày cỡ nào á?" Mấy người này còn chưa tiêu hóa xong những lời tôi vừa nói, ù ù cạc cạc.

"Đúng, nhất định phải có độ dày. Nếu không có độ dày thì lúc cơ thể anh xuyên qua một nửa trước, nửa người phía sau sẽ..."

Phan Tử lập tức hiểu ý của tôi, thoáng cái đã đầm đìa mồ hôi lạnh, vô thức tiếp lời: "Chồng lẫn lên nhau!"

"Chính xác! Bởi vì ở vị trí đó, nửa người trước của anh đã bị phản xạ trở về, nhưng nửa phía sau lại chưa đi qua 'mặt gương', cho nên nếu lập luận của tôi là chính xác, thì đúng vào lúc xuyên qua 'gương' phản xạ, chúng ta ắt hẳn phải chết! Sẽ biến thành một nùi quái thai! Mặt anh sẽ đâm ra đằng gáy!"

"Nhưng chúng ta đã đi qua đi lại bao nhiêu bận mà có chết đâu?" Bàn Tử nghi hoặc hỏi.

"Đó chính là điều tôi muốn nói. Mặt gương này đảm bảo phải có độ dày lớn hơn cơ thể người. Quá trình phản xạ sẽ thế này, sau khi tiến vào vùng phản xạ, trước tiên chúng ta vào từ đầu bên này, đi một đoạn bên trong xong lại đi ra ở đầu kia, hoàn thành nếp gấp không gian."

Mọi người lại gật đầu tỏ vẻ đồng tình, lối suy luận này quả là không một kẽ hở.

"Vấn đề là chúng ta không biết cái đoạn đó dài bao nhiêu. Giả như nó chỉ dài hai ba bước, tôi lấy một ví dụ thế này, nếu chúng ta đi vào một đoạn 'gương không gian', nhưng Bàn Tử lại không vào, mà đứng ở chỗ bắt đầu có tấm gương không gian. Tấm gương không gian chỉ dài có vài ba bước, anh lại có thể quan sát cả hai phía trước sau, anh đoán xem sẽ có chuyện gì xảy ra nào?"

Phan Tử hiểu nhanh nhất, cổ họng gần như đông cứng: "Sẽ... thấy trước sau xuất hiện hai Bàn Tử giống hệt nhau."

"Đúng, ở đây xuất hiện một lập luận bác bỏ: Bàn Tử đứng phía sau anh, khi nhìn vào khoảng không trước mặt anh, có thể thấy Bàn Tử phía trước anh không? Hoặc là anh nắm lấy tay của một trong hai Bàn Tử đó, thì sẽ có chuyện gì xảy ra?"

Phan Tử vội vàng ra hiệu cho tôi ngừng lại: "Đừng... đừng nói nữa!"

"Làm vậy để chứng minh cái gì mới được chứ?" Bàn Tử bên cạnh cũng đã tái mặt.

"Chúng ta không cần tiếp tục thí nghiệm cũng có thể xác định, thứ gọi là 'gương không gian' này không thể tồn tại được! Hơn nữa cái mộ đạo phản xạ này đi thế nào cũng không thoát ra nổi, cơ sở logic của nó cũng không tồn tại, nói cách khác sự tồn tại của mộ đạo này là không hợp logic." Tôi hạ giọng: "Uông Tàng Hải không phải thánh thần, ông ta không thể tự mình tạo ra định luật vật lý. Cơ quan ở chỗ này không liên quan gì đến Uông Tàng Hải hết, những người này cũng không phải vì vậy mà bị vây khốn đến chết. Tình huống chúng ta hiện đang gặp phải là một trường hợp đặc biệt, là một tình huống mới! Chúng ta đã bị những cái xác này đánh lạc hướng rồi, giờ đây khả năng lớn nhất tạo ra tình huống này, chỉ có một mà thôi..."

Tôi cẩn thận chỉ ngón tay vào giả thiết thứ tư mà Bàn Tử đã viết xuống, cử động môi, dùng khẩu hình nói: "Bên người chúng ta có quỷ!"

Chương 45: Tê chiếu

Hiện giờ ngẫm lại, lúc ấy một mực nghiêm túc thở ra mấy chữ này như vậy, lại còn dùng khẩu hình để nói, chỉ sợ con quỷ kia nghe thấy, chứng tỏ thần kinh của tôi đã bị đày đọa thành cái dạng gì không biết nữa rồi. Nếu là ngày thường hoặc nếu áp lực nhỏ hơn một chút, tôi căn bản sẽ không nảy ra cái suy nghĩ này.

Chuyện này kỳ thật cũng là lẽ đương nhiên. Mấy người chúng tôi bỏ ra ngần ấy thời gian, nếm trải biết bao nhiêu chuyện mới đến được bước này, thì lại rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng không thể tìm rõ nguyên nhân như thế. Chưa nói đến con đường phía trước dài dằng dặc, khoan bàn xem làm sao mới có thể trở về, riêng chuyện trước mắt cũng đủ khiến đầu óc chúng tôi bế tắc rồi, có vô số vấn đề nghĩ không nổi mà nhìn cũng không thấu.

Sau chuyện này tôi ngồi suy xét lại, kỳ thật còn có thể nghĩ ra vô vàn cách thoát thân, ví như cầm la bàn lên ngắm kĩ cây kim rồi đi vào mộ đạo, trong tích tắc chúng tôi đổi chiều, kim chỉ nam trên la bàn nhất định sẽ chuyển động, vân vân... Khổ nỗi lúc ấy trong đầu tôi chỉ có mấy hướng suy nghĩ cứng nhắc, còn đâu hoàn toàn trống rỗng, đến nỗi còn đi tin vào giả thiết có quỷ dựng tường, hơn nữa lúc ấy hoàn toàn chẳng thấy nó hoang đường hay nực cười chút xíu nào, thậm chí còn cảm thấy hơi khiếp hãi.

Mấy tay Bàn Tử, Thuận Tử trông thế mà còn nhát hơn tôi, giờ đây đã hoàn toàn bị nét mặt của tôi ảnh hưởng, dần dần trắng bợt cả ra. Nuốt một ngụm nước miếng, Bàn Tử cũng dùng khẩu hình nói: "Cậu có dám chắc không? Tôi đã nói từ lâu mà... Giờ biết phải làm sao?"

Trong lòng tôi lúc đó nghĩ thế này: cơ sở logic của cái mộ đạo này không đứng vững thật, như vậy nguyên nhân hình thành hiện tượng này tất nhiên không liên quan gì đến logic. Nhưng nếu không phải mình đang nằm mơ, thì mọi thứ đều không thể thoát khỏi sự trói buộc của logic; nói cách khác những gì chúng tôi đang nhìn đang nghe lúc này đây rất có thể đều là giả tạo. Nếu vậy cảnh tượng xung quanh chúng tôi trông như thế nào, thật khó mà nói được. Mà có thể làm cho bốn người sinh ra ảo giác cùng một lúc, tôi cho rằng chỉ có sức mạnh của "ác quỷ" mới làm được thôi. Chỉ "ác quỷ" mới có thể bất chấp logic, mới có thể vây khốn người ta đến mức này mà không hề để lộ sơ hở.

"Ác quỷ" ở đây thật ra chỉ là một kiểu ví von cho người ta dễ hình dung ra vấn đề, ám chi tất cả những năng lực chúng tôi không lý giải nổi. Loại năng lực này rõ ràng tồn tại như một lẽ đương nhiên.

Nhưng nếu thực sự có "quỷ", chúng tôi lại thành ra bó tay chịu trói, vì chúng tôi căn bản không nhìn thấy nó, đương nhiên cũng vô phương đối phó. Cho dù chúng tôi có chửi rủa hay chọn bừa một phương pháp bất kì thì cũng chẳng có tác dụng gì với nó. Đây chính là tình huống mà tôi căm ghét thứ hai: biết rõ vấn đề phát sinh ở xung quanh mình mà lại không đối phó nổi, có cố gắng cũng vô ích.

Lúc đó suy nghĩ của tôi còn hết sức ngây thơ, hơn nữa cũng không biết thứ sức mạnh này thuộc loại gì. Nếu nó không có ý thức thì phiền to rồi, vì bản thân nó đã không có tư duy, chúng tôi có giở chiêu trò gì cũng vô dụng, chỉ còn cách lấy cứng đối cứng, bắt được nó mới xong. Còn nếu là oán quỷ thì lại dễ xử lý, nó biết suy nghĩ, chúng tôi có thể ép nó lộ mặt, ép nó phạm phải sai lầm.

Tôi và bọn họ liên tục suy tính. Bàn Tử nói chắc như đinh đóng cột rằng mình có cảm giác rất có thể con quỷ này chinhs là một trong mấy cái thây khô trước mặt chúng tôi. Nhiều khả năng trong số đó có linh hồn người nào còn lưu luyến chuyện phàm trần nên cứ mãi luẩn quẩn ở đây, thấy có người đến chơi thì tự nhiên muốn chòng ghẹo một phen, nhưng chẳng rõ là cái nào.

Bàn Tử trước hết loại trừ ông bố Thuận Tử ra. Cha già mười năm chưa thấy mặt con, tất nhiên không nỡ mang tính mạng thằng con ra làm trò mua vui đâu, chắc là năm cái xác còn lại thôi.

Lúc này tôi bắt đầu cảm thấy mình suy nghĩ hoang đường, nhưng chúng tôi đã đi đến bước đường cùng, giả thiết gì cũng phải thử nghiệm. Bèn đến trước mấy thi thể đó, bảo bọn họ quỳ cả xuống, rồi tôi dùng giấy vụn gấp thành mấy thỏi vàng, đưa cho từng người bọn họ bào đốt. Vừa đốt tôi vừa dập đầu khấn: "Con là cháu trai của chú Ngô Tam Tỉnh, đi tìm chú con có việc gấp. Các ngài có vị nào làm phép thì xin vui lòng nhận lấy chút lòng thành này rồi tha cho chúng con đi. Chúng con đã gấp lắm rồi, nếu các ngài không chịu thì xin để gã béo này lại đây chơi với các ngài, còn mấy người khác xin hãy tha ra làm phước."

Bàn Tử nghe xong cáu ầm lên, Phan Tử và Thuận Tử mỗi người phải giữ chặt một tay hắn không cho cục cựa. Bàn Tử chửi oang oang: "Ngô Tà, mày là đồ tiểu nhân đê tiện. Bố phải cắn chết mày!"

Tôi lầm rầm khấn vái xong thì nhìn quanh một lượt, bốn bề chẳng hề thay đổi, mấy cái xác vẫn trơ ra như cũ. Biết mình phí công vô ích, tôi bèn phất tay bảo bọn họ buông Bàn Tử ra. Bàn Tử căng thẳng đảo mắt nhìn bốn phía, cũng thấy chẳng có gì thay đổi, không khỏi cười mát mẻ: "Thấy chưa, quỷ đại thúc vẫn công bằng nhất, người ta gai mắt mấy đồng tiền bẩn thỉu của cậu rồi."

Tôi nói: "Có khi người ta gai mắt anh ấy chứ, thiệt tình."

Thuận Tử lúc này cũng lên tiếng: "Không đúng, chúng ta không nên nghĩ như vậy. Anh xem có cha tôi ở đây, cho dù có người muốn hại chúng ta, cha tôi cũng sẽ ngăn cản chứ. Chúng ta cầu mà không linh, lẽ nào kẻ tác quái không phải mấy người này?"

Nếu là ngày thường, những lời ngây thơ như thế hẳn đã khiến tôi bật cười. Nhưng giờ đây tôi lại nghiêm túc lắng nghe, còn cân nhắc xem lời hắn ta nói có lý hay không. Cân nhắc xong, tôi bảo: "Không chừng cha anh đã siêu thoát rồi, hoặc kẻ tác quái không chỉ có một, ông ấy đấu không lại. Có điều tôi cũng cảm thấy không phải mấy người ở đây, họ đều là người lớn cả rồi, hơn nữa còn là chỗ thân thiết với chú Ba, tôi không nghĩ họ sẽ tác oai tác quái. Bày ra trò bịp này có thể là tiểu quỷ, thi thể cũng không ở đây."

Nói thì nói vậy, chứ nếu sự thật mà đúng lời tôi nói thì lại khó nhằn rồi, vì chúng tôi có thấy được con quỷ này ở đâu đâu. Không chừng nó có bò lên lưng, chúng tôi cũng không biết ấy chứ, mà nhìn không thấy thì cũng hết cách ra tay. Nghĩ vậy tôi thở dài, hỏi: "Các anh có ai biết cách nào, bí kíp dân gian cũng được, để nhìn thấy quỷ không?"

Phan Tử đáp: "Tôi nghe nói chỉ cần nhỏ nước mắt trâu vào tròng mắt thì sẽ thấy được quỷ."

Bàn Tử bật cười hô hố: "Thế thì nhiệm vụ kiếm trâu phải giao phó cho anh rồi."

"Không, có lẽ không cần nước mắt trâu vẫn nhìn được." Tôi đột nhiên nhớ ra một cách, "Nhưng Bàn Tử nhà anh phải chịu hi sinh một chút."

Bàn Tử bỗng chốc trở nên căng thẳng, "Cậu muốn giết chết tôi, để hồn tôi đi thương lượng với quỷ hả? Còn khướt nhé, nếu các người dám giết tôi, tôi nhất định sẽ về phe với con quỷ kia, hại cho các người càng thảm hơn đấy."

Tên khỉ gió này lại nghĩ lung tung đi đâu thế? Tôi phát cáu: "Anh hoang tưởng nó vừa vừa thôi, tôi chỉ cần mượn anh cái bùa Mô Kim dùng một lát."

"Cậu định làm gì?" Bàn Tử che ngực lại: "Cái này là hàng xịn đó, làm hư cậu có đền nổi không?"

"Bùa Mô Kim là vật trừ tà đệ nhất thiên hạ, nếu là hàng thật, chúng ta làm sao lại ra nông nỗi này. Vừa nãy tôi đã xem rồi, cái đó là hàng rởm." Tôi nói: "Mau đưa đây cho tôi."

"Rởm á?" Bàn Tử tháo xuống săm soi một lát: "Cậu chắc chứ?"

"Dĩ nhiên rồi, cái này làm bằng sừng tê giác. Ông là chuyên gia trong nghề này, nhầm thế quái nào được? Bùa Mô Kim bằng xuyên sơn giáp (vuốt tê tê) càng đeo càng đen bóng, anh xem cái sừng tê giác của anh đi, đã bắt đầu xám ngoét ra rồi kìa. Tôi chả thèm lừa anh làm gì."

"Má ơi! Bảo sao tôi xui dữ vậy!" Bàn Tử cáu điên lên: "Mẹ kiếp cái quân đốn mạt kia lại qua mặt tôi lần nữa, chẳng trách lần nào cũng không linh. Bàn gia đây lần này nếu còn mạng mà thoát ra ngoài, không phá tanh banh cái cửa hàng kia thì tôi không mang họ Vương nữa."

Tôi đón lấy lá bùa Mô Kim từ tay Bàn Tử, an ủi hắn vài câu. Hắn lại hỏi tôi định dùng thế nào, có phải đem nó đặt vào gáy thi thể không?

Tôi đáp: "Từ xưa có một truyền thuyết là 'Tê chiếu thông linh', anh đã từng nghe chưa?"

Bàn Tử thắc mắc: "Chắc là cái phim Hồng Kông chiếu hồi mấy năm trước phỏng?"

"Gần đúng rồi, chính là ý đó." Tôi gật gù: "Chỉ cần đốt vật này lên, nương theo ánh sáng nó tỏa ra anh sẽ nhìn thấy quỷ. Đương nhiên tôi cũng chưa làm thử bao giờ, không rõ là thật hay chém."

Lúc ấy chính tôi cũng thấy mình hoang đường muốn chết, có điều đến nước mắt trâu còn lôi ra được thì đốt sừng tê cũng thường thôi, cái này gọi là có bệnh thì vái tứ phương ấy mà. Trước khi Bàn Tử nghĩ ra giả thiết thứ năm thì chỉ có ý tưởng của tôi là khả thi, không thử cũng không xong.

Trong Tấn thư đã ghi lại một chuyện thế này: Kiệu Toàn đi về Võ Xương, đến mỏm đá Ngưu Chử, nước sâu khó dò, thế gian nói dưới đó nhiều quái vật, Kiệu liền đốt sừng tê mà chiếu xuống, lát sau thấy thủy tộc ào ra với đủ hình thù quái đản. Đêm đó y nằm mơ thấy có người tới nói rằng: "Ta và ngài âm dương chia đôi ngả, đồng ý thấy nhau sao!" Đại ý nói rằng: người Trung Quốc xưa nhờ việc đốt sừng tê, nương theo ánh sáng rọi ra từ sừng tê, có thể chiếu ra thần tiên ma quỷ. Lời người xưa chung quy vẫn có chỗ dùng được.

Nói đoạn tôi lấy lò không khói, đặt lá bùa Mô Kim lên trên rồi đốt cháy. Lúc đầu nó còn chưa bắt lửa, về sau có một thứ mùi kỳ quái tỏa ra, ngọn lửa màu xanh lục lóe lên ánh sáng kì dị.

Tôi đưa tay nhấc chiếc lò không khói, giơ lên cao lên để nó chiếu được đến nơi xa nhất. Chúng tôi quay đầu nhìn bốn phía, tìm xem xung quanh có xuất hiện thứ gì mới rồi còn chưa thấy hay không. Đi một vòng quanh mộ thất, tôi vẫn chẳng thấy gì, những người khác cũng không khá hơn.

"Biết đâu con quỷ kia núp ở xa." Thuận Tử lên tiếng.

"Không đâu, truyền thuyết nói nếu là quỷ dựng tường, thì quỷ phải bò trên lưng ấy."

Chúng tôi lại soi lên lưng từng người, kết quả vẫn như trước. Bàn Tử làu bàu: "Mẹ kiếp tôi đã bảo rồi mà, truyền thuyết chỉ rặt nói điêu thôi. Phí mất cái bùa Mô Kim của tôi mà có chiếu ra cái mẹ gì đâu."

Phan Tử trút ra một hơi: "Xem ra chiêu này cũng vô dụng rồi. Chỉ e vốn không có quỷ, chúng ta đã rơi vào tình huống thứ năm, là tình huống không có lý lẽ nào mà tìm, không có đầu mối nào mà đuổi theo, không có tiền lệ nào mà tham khảo. Chúng ta biết phải làm sao? Giờ đã sắp hết lương rồi."

Tôi âm thầm thở dài, vừa định lên tiếng thì đột nhiên Bàn Tử ra hiệu cho tôi im lặng, Phan Tử cũng làm dấu bảo đừng nói. Mí mắt tôi giật giật, ngẩng đầu nhìn theo ánh mắt Bàn Tử, chỉ thấy nơi trần mộ thất phía trên đầu chúng tôi mơ hồ xuất hiện một "đứa trẻ" đen thui.

Chương 46: Li ra

Máu tôi phút chốc đông cứng lại. Phan Tử giương súng, Bàn Tử cầm lấy bếp lò 'Tê chiếu' từ từ đưa lên cao. Sừng tê càng cháy càng sáng tỏ, bóng dáng 'đứa trẻ' màu đen kia cũng ngày càng rõ hơn. Tôi nhìn kĩ, nó ... nó chẳng phải là con thi thai đầu to chúng tôi gặp ở Tàng thi các hay sao? Sao đã theo đến tận đây rồi? Chẳng lẽ nó vẫn luôn bám sát gót chúng tôi?

"Tổ sư! Hóa ra là thứ này phá rối!" Bàn Tử gào rống. "Rắc" một tiếng, liền giương súng lên, bao nhiêu nộ khí tích tụ trong người lập tức bạo phát, xả đạn liên hồi, bắn cho cái thứ của nợ kia văng nước đen tung tóe khắp nơi, thoáng cái đã té bịch xuống đất.

Chúng tôi lập tức lui lại vài bước. Thi thai phát ra một tiếng hét chói lói giống như trẻ con, ra sức lật đổ cái lò rồi nhanh như chớp lẩn vào bóng đêm.

"Không cho nó chạy, bằng không chúng ta còn có thể trúng chiêu." Phan Tử hô lớn: "Đuổi theo!"

Bồn người lập tức đứng lên, điên cuồng đuổi theo. Cơ hồ trong nháy mắt, chúng tôi thấy bích họa trên tường mộ đạo đã trở lại những hoa văn như lúc ban đầu. Quỷ dựng tường đã mất tác dụng!

"Ra rồi!" Bàn Tử mừng rỡ, "Thoát chết rồi!"

Thi thai chạy trốn như bay, lao vào bóng tối trong mộ đạo bằng tốc độ kinh người, hướng về đầu phía bên kia. Chúng tôi biết mình tuyệt đối không thể dừng chân, bởi một khi dừng chân chắc chắn sẽ lại rơi vào hoàn cảnh vừa rồi. Tôi thà chết cũng không muốn trải qua cảnh đó thêm một lần nữa, vả lại cũng không có cái sừng tê thứ hai cho tôi đốt, vậy nên bốn người chúng tôi cứ liều mạng đuổi sát sườn nó, ai ngờ lại theo nó rơi xuống luôn.

Nói thì chậm mà sự việc xảy ra lại rất nhanh. Chạy được khoảng bảy tám phút, chúng tôi đã vượt qua xấp xỉ 1000m mộ đạo, cuối cùng trước mặt chúng tôi xuất hiện một cái cầu thang nối thẳng xuống phía dưới, thi thai nhảy vọt xuống đó nhanh như tia chớp.

Chúng tôi nối đuôi nhau lao vào, bất chấp các thể loại cơ quan bẫy rập, cùng lắm là chết chứ gì. Dù bốn mươi người chỉ còn lại một người cũng phải tiêu diệt cái con quái này cho hả giận.

Cứ mười bậc một bước, chúng tôi điên cuồng nhảy xuống như đàn Kangaroo. Có điều chúng tôi chạy xuống cầu thang vẫn chậm hơn nửa nhịp so với chạy trên mặt phẳng, mà con thi thai kia lại không hề giảm tốc độ, nháy mắt đã biến mất trong bóng tối dưới những bậc thang. Tôi biết đã không thể đuổi kịp nhưng không hãm phanh nổi, vừa định dừng lại thì chân trái vấp vào chân phải, lăn mấy vòng liên tiếp xuống đến bậc thang cuối cùng, vỡ đầu chảy máu, đèn pin không biết đã lăn đi đằng nào.

Tôi chửi thầm trong bụng, vừa định đứng lên, chợt nghe tiếng súng từ một phía truyền đến. Tiếng súng dồn dập, không giống như âm thanh phát ra từ hai khẩu súng của Phan Tử và Bàn Tử.

Tôi đứng lên, chợt nhìn thấy có luồng ánh sáng mỏng manh truyền đến từ một hướng, đang định chạy về hướng ấy thì Phan Tử và Bàn Tử phía sau đã đuổi tới. Tôi thắc mắc vì sao bọn họ lại chạy chậm như rùa thế, Bàn Tử mới nói tới ngã tư ban nãy, Thuận Tử đã theo đường cũ trở về. Hắn đã tìm được cha, lại lấy được cơ man là vàng, căn bản không muốn mạo hiểm đi theo chúng tôi nữa. Hắn nói sẽ đợi chúng tôi bên ngoài núi tuyết đúng một tuần, nếu quá chừng ấy thời gian mà chúng tôi còn chưa ra, hắn sẽ quay về một mình.

Tôi rủa thầm hắn là đồ vô lương tâm, nhưng nghĩ lại thì hắn cũng chịu đựng quá đủ rồi, từ ngày đi theo chúng tôi đã phải chịu biết bao khổ cực. Lúc này Bàn Tử cũng nghe thấy tiếng súng, lập tức cảnh giác.

Chúng tôi lấy đèn pin chiếu xung quanh, phát hiện cuối cầu thang của mộ đạo phía bên này là một cái ban công, bên ngoài là mấy đường hành lang. Nói cách khác đây là cửa vào một cái mộ thất hai tầng cực lớn, nhưng giữa hai tầng mộ thất lại không có trần mà chỉ có mấy hành lang vắt qua không trung, đứng trên hành lang có thể trực tiếp quan sát cảnh tượng ở tầng dưới.

Đây gọi là liên thiên lang, bên trên được chạm rồng khắc phượng, thật ra công dụng chính của nó là nâng quan quách trong những mộ thất lớn, xem ra bên dưới liên thiên lang có thể là một cái quan thất. Hiện giờ bên dưới đang truyền lên tiếng súng dồn dập, hơn nữa chỗ nào cũng lấp loáng ánh đèn pin.


Chúng tôi còn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chẳng lẽ con thi thai kia vừa nhảy xuống dưới đó? Nhưng dưới kia bao nhiêu khẩu súng đồng loạt nhả đạn, có là voi cũng bị đốn ngã, chẳng lẽ nó còn chưa nát bét ra hay sao?

Ba người chúng tôi nối đuôi nhay đi ra ban công, liên thiên lang bên ngoài hết sức chật chội, chúng tôi bảo nhau cẩn thận từng bước mà leo lên, nhìn xuống thì phát hiện bên dưới hóa ra là một mộ thất hình tròn rất lớn, rộng khoảng năm, sáu trăm mét vuông. Bất ngờ là đội ngũ của A Ninh ở ngay bên dưới hành lang chúng tôi đang đứng, bảy cây pháo lạnh ném ra bốn phía, chiếu cả mộ thất sáng rực lên. Tôi thấy bọn họ quây thành một vòng tròn, không ngừng dùng súng bắn lia lịa xung quanh, không rõ đang bắn thứ gì. Nhìn kỹ tôi mới nhận ra đó là những con du diên to bằng cánh tay đang bò lổm ngổm khắp mộ thất, lúc nhúc như biển, vây đám người A Ninh vào giữa.

Mà chính giữa mộ thất có một giếng mộ hình kim tự tháp lộn ngược, đáy giếng đặt tám cỗ quan tài đen cỡ lớn vây quanh một quan quách khổng lồ bằng ngọc thạch nửa trong suốt. Quan quách ngọc thạch đã bị mở ra, dưới ánh sáng của pháo lạnh, phản chiếu lại hào quang bảy màu lấp lánh quỷ dị. Tôi thấy hình như du diên đang ùn ùn chui ra từ chính cái quan quách này.

Lòng tôi rớt độp xuống, thầm nghĩ đây chẳng lẽ lại là Cửu Long đài thi quan ghi trên Xà mi đồng ngư? Là bảo hạp khâm liệm Vạn Nô vương? Xem ra mấy kẻ nghiệp dư này đã động phải cơ quan gì rồi, hoặc là thẳng tay dẫm chết một con du diên nào đó.

Lúc này tôi cũng không thể để tâm nhiều đến vậy. Mười mấy người bên dưới ứng phó một hồi đã đuối sức, nhưng du diên vẫn ào ạt tràn ra như thủy triều, căn bản có bắn cũng vô ích, bắn chết một con thì những con khác lại càng thêm điên cuồng.

"Chúng ta có nên giúp họ không?" Bàn Tử hỏi tôi.

Phan Tử lắc đầu: "Để bọn họ chết vợi đi."

Bàn Tử cười nói: "Không bằng bây giờ anh lấy súng bắn xuống vài phát, đảm bảo còn chết nhanh hơn."

Trong lòng tôi cũng mâu thuẫn cùng cực, vấn đề không nằm ở chỗ cứu hay không cứu, mà là sau khi cứu bọn họ sẽ đối xử với chúng tôi thế nào. A Ninh khi ở dưới hải mộ đã cố ý đẩy chúng tôi vào chỗ chết, nhờ mạng lớn mới may mắn thoát được, dù trước đó tôi đã từng cứu cô ta thì cũng chưa chắc cô ta đã chịu nể mặt tôi. Nhưng nếu như không cứu, trơ mắt mà nhìn bao nhiêu con người chết sạch trước mặt mình, chỉ e tôi sẽ phải áy náy cả đời.

Mà có cứu được hay không lại là chuyện khác nữa. Chúng tôi đứng trên này bắn xuống thì cũng chả ích gì, muốn cứu bọn họ chỉ có cách thả dây thừng kéo từng người lên. Nhưng giờ bọn họ phải bắn hết tốc lực mới miễn cưỡng cầm cự nổi, dây thừng một khi thả xuống họ lại phải ngừng tay, bên dưới chắc chắn sẽ có người thương vong.

Đang lúc do dự thì tôi bất ngờ nhìn thấy trong đội ngũ của A Ninh có một người nước ngoài đang cõng trên lưng ai đó, nhìn thoáng qua trông rất quen. Tôi lập tức vỗ vỗ Phan Tử, chỉ cho anh thấy. Vừa chỉ xuống, anh đã kêu lên một tiếng sợ hãi: "Ông Ba kìa!"

"Anh chắc không?" Tôi cũng thấy người đó hao hao, nhưng còn chưa dám chắc chắn. Nghe Phan Tử nói thế tôi càng vững tâm, vội đi thêm vài bước đến phía trên người này một chút, muốn nhìn cho rõ ràng.

Ai ngờ mới đi được vài bước, dưới chân tôi đã có cảm giác bất thường. Cúi đầu nhìn xuống thì thấy con thi thai vừa trốn chui chốn nhủi ban nãy giờ đang treo lơ lửng bên dưới hành lang đá, vừa hay lúc này tôi lại bước đến ngay phía trên chỗ nó trốn, nó bèn thò cánh tay héo ngắt ra túm lấy chân tôi, ra sức kéo tôi xuống.

Tôi nổi điên lên, thầm nghĩ thứ này nhớ lâu thù dai, cứ bám theo chúng tôi gây phiền toái. Khả năng giữ thăng bằng của tôi vốn kém, giờ lại đang đứng trên hành lang, thế nên bị nó kéo một phát tôi đã lảo đảo, phải nằm bò ra hành lang.

Phan Tử và Bàn Tử đồng thời giương súng. Con quái này đúng là đầu to mà óc bằng quả nho, bị bắn ở khoảng cách gần đầu nó tức thì nát bét, chỉ còn có một nửa. Sau đó bộ móng vuốt đang bám chặt bên dưới hành lang cũng tuột ra, thi thai rớt xuống trong khi tay còn lại vẫn túm chặt lấy chân tôi.

Tôi bị cái thứ nặng chết khiếp này kéo chân, chỉ đành kêu lên một tiếng thảm thiết rồi cũng rớt xuống theo. Thi thai rơi xuống giữa đám người A Ninh, những người này đang hết sức tập trung vào đám du diên xung quanh, còn tâm trí đâu mà để ý phía trên đầu, bị nó dọa cho tè ra quần, ngã sấp ngã ngửa dạt ra một đoạn, tiếp đó tôi cũng rơi xuống từ không trung.

Sau này tôi nghe Bàn Tử kể lại, động tác tiếp đất của tôi cứ như tôi chủ động nhảy xuống vậy, nhưng sự thực là tôi bất đắc dĩ ngã xuống. (câu này có làm mọi người liên tưởng đến ai không ~) Tiếp theo, tôi hung hăng dẫm đạp con thi thai đã dập nát nửa đầu làm máu đen văng tung tóe. May thay hành lang đá phía trên cũng không quá cao, bằng không ngã xuống từ trên đó tôi chắc chắn phải trẹo chân. Nhưng sau khi ngã xuống, tôi chỉ hơi lảo đảo rồi lập tức đứng vững, đưa mắt nhìn bốn phía mới phát hiện du diên xung quanh đang chạy trối chết cứ như gặp quỷ. Trong nháy mắt, đám du diên đến ùn ùn như thủy triều rồi cũng đi ào ào như thủy triều, chẳng mấy chốc trên mặt đất chỉ còn lại vài cái xác du diên.

Tôi sợ đến ngây người, mất một lúc lâu tinh thần mới hồi phục, cũng không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Ngẩng đầu lên chỉ thấy mọi người xung quanh đều đang nhìn mình, nét mặt đầy vẻ kinh hãi giống như nhìn thấy quái vật.

Chương 47: Mun Du Bình th hai

Tôi ngồi trên ba lô của mình, để bác sĩ trong đoàn của A Ninh giúp mình băng bó vết thương. Vết thương trên tay tôi đặc biệt nghiêm trọng, phải khâu mất ba mũi mới tạm gọi là ổn, bị rách ra lúc con thi thai rớt xuống từ trên hành lang. Tôi chẳng phải con nuôi trong lồng kính, nhưng cũng chưa từng làm những việc quá nặng nề, cho nên đụng phải những va chạm thế này tôi rất dễ bị thương, nếu đổi lại là Phan Tử có lẽ đã bình yên vô sự. Bác sĩ khử trùng cho tôi, căn dặn tôi không nên chạm vào nước cũng không được dùng cánh tay này làm bất cứ việc gì. Tôi gật đầu cảm tạ ông ta, thế rồi ông ta lại đi xem bệnh cho mấy người khác.

Sau khi rơi xuống từ hành lang, đám người A Ninh đã cực kì hoảng hốt trước màn 'chào sân' hoành tráng của tôi. Mới đầu A Ninh còn không nhận ra tôi (thực ra lúc ấy trông tôi nhếch nhác không thể tả, cô ta cuối cùng cũng nhận ra là đã giỏi lắm rồi). Đến khi Bàn Tử từ trên hành lang gọi với xuống, cô ta mới phản ứng lại, kinh ngạc không thốt nên lời, còn nhìn tôi bằng ánh mắt không-thể-tin-nổi.

Hai nhóm người đứng đơ ra một lúc lâu lâu mới dần dần có phản ứng. Tôi sốt ruột dợm bước, muốn nhìn thử xem được cõng trên lưng người kia có phải chú Ba của tôi không. Nhưng tôi mới khẽ động, những người vây quanh tôi bỗng tự động lùi về phía sau vài bước giống như gặp quỷ, có mấy người còn quen tay giương súng lên.

Bàn Tử và Phan Tử đứng trên hành lang vừa mới thở phào nhẹ nhõm, thấy thế lại vội vã nâng súng. Tôi hấp tấp giơ hai tay lên, bày tỏ mình không có địch ý. A Ninh cũng vội phất tay, nói với cấp dưới của mình: "Là người một nhà cả, tôi đã từng hợp tác, bỏ súng xuống đi." Nói đến vài lần, người của cô ả mới nửa tin nửa ngờ mà hạ súng xuống. Nhưng mấy người nước ngoài kia vẫn cực kì căng thẳng, ánh mắt gắt gao theo dõi nhất cử nhất động của tôi.

Tôi thấy gân xanh trên mặt bọn họ nổi lên ầm ầm, hiển nhiên đã bị kích động mạnh, chỉ e một kích thích nhỏ cũng đủ khiến mấy người này bạo phát, cho nên cũng không dám cựa quậy, đành đứng ngây một chỗ không biết làm gì cho phải.

A Ninh cau mày, nhìn nét mặt là rõ cô ta không biết chúng tôi cũng ở nơi này. Cô ta ngẩng đầu hỏi tôi: "Các người .... Sao lại ở đây..."

Bàn Tử đứng trên cười ha hả: "Cái này gọi là Bạch nương tử tìm tình lang. Hữu duyên cách xa ngàn dặm vẫn có ngày gặp gỡ, vô duyên cởi sạch nằm ôm nhau còn lo đối phương làm ẩu. Tôi nói chúng tôi chỉ tình cờ đi ngang qua đây, cô có tin nổi không?"

Nói đoạn Bàn Tử và Phan Tử cùng nhau nhảy từ hành lang xuống. Lúc này trong đoàn của A Ninh đã có mấy người nhận ra Bàn Tử, đều ồ lên kinh ngạc. Rõ ràng Bàn Tử xuất hiện ở đây đã gợi lại phần kí ức 'khó quên' nào đó trong lòng bọn họ.

Bàn Tử đi đến trước mặt chúng tôi, hẳn là hắn đã từng hợp tác với mấy người này nên bầu không khí mới dịu đi chút ít. Mấy người đang căng thẳng thần kinh lúc này mới thở phải nhẹ nhõm, buông súng xuống mắng vài câu, có người còn lầm bầm: "Hay lắm, nơi gay go lại đụng kẻ phiền phức."

Tôi nhớ lại lần đầu mình gặp Bàn Tử trong tình cảnh nào, cảm thấy câu nói kia chuẩn không cần chỉnh, không khỏi cười thầm.

Bàn Tử trừng mắt liếc qua người nọ rồi lại quay sang chào hỏi mấy người trông có vẻ quen biết. A Ninh còn có chuyện muốn hỏi hắn, tôi và Phan Tử thì nhịn không nổi nữa, vội vã chạy về phía người nước ngoài kia, lật cái người hắn đang cõng trên lưng ra xem có phải chú Ba hay không.

Gã nước ngoài có vẻ rất chú ý đến tôi, khi tôi chạy tới bọn họ đều tránh ra xa, riêng gã vẫn không sợ. Thấy mục tiêu của tôi là người trên lưng mình, gã bèn thả người đó xuống đất. Tôi vội vàng đi tới, bỏ cái mũ leo núi trên đầu người kia xuống. Dưới cái mũ là một gương mặt vô cùng tiều tụy, râu ria nhếch nhác, tôi gần như không nhận ra, chỉ cảm thấy có phần giống chú Ba. Nhìn kỹ một lúc, tôi mới "Ôi trời!" một tiếng, gần như là thét lên.

Quả nhiên là chú Ba mất tích bấy lâu của tôi, cái lão giặc già này! Mới mấy tháng không gặp mà lão khốn trông như già đi mười tuổi, tóc đã lấm tấm ngả bạc, thoáng nhìn căn bản không tài nào nhận ra.

Gặp gỡ trong hoàn cảnh này, nói thật là tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần cho tốt. Tôi cứ đinh ninh cuối cùng tôi sẽ gặp chú Ba trong một gian mộ thất, sau đó chú Ba sẽ cho tôi biết tất cả. Hoặc là đúng lúc tôi gặp nguy hiểm, ổng sẽ thò mặt ra cứu tôi..... Ai mà ngờ ổng lại xuất hiện chìm lỉm giữa đoàn của A Ninh thế này, tôi đã nhìn tận mắt nhưng không hiểu sao lại cảm thấy khó tin.

Tôi thực sự đã gặp được chú Ba rồi sao? Tôi tìm được ổng rồi hả? Tôi cứ đứng sững ở đó, không biết phải làm sao, cũng không biết mình đang nằm mơ hay là nhìn thấy ảo giác nữa.

Chú Ba thần trí có vẻ mơ hồ, hai mắt khép chặt, chẳng biết có nhìn thấy tôi không. Nhưng hình như lúc nghe tiếng tôi gọi, người ổng đột ngột phản ứng rất khẽ, đôi môi nứt nẻ hơi mấp máy giống như đang hỏi: "Cháu trai?" nhưng rồi nhanh chóng an tĩnh trở lại.

Tôi đột nhiên cảm thấy đau xót trong lòng, một thứ cảm xúc khó tả trào dâng. Thấy lão khốn ấy vẫn bình an, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng dưng biến mất, sự nôn nóng tưởng như mất đi người mình tin tưởng phút chốc tiêu tan, nhưng lại nảy sinh một cảm giác căm phẫn cực độ, chỉ muốn đè ổng ra oánh một trận nhớ đời. Hai thứ cảm xúc pha trộn lẫn nhau, không biết nét mặt tôi lúc này như thế nào nhưng nhất định là trông rất buồn cười.

Ở đằng kia, không biết Bàn Tử đang tán gẫu chuyện gì với A Ninh, hình như đã bắt đầu ồn ào nhưng tôi cũng không thèm bận tâm. Phan Tử thấy chú Ba ra nông nỗi này, bèn lại gần lắc lắc ông vài cái, rồi cởi áo ổng ra. Tôi nhìn mà phát choáng, chỉ thấy dưới lớp quần áo của chú Ba có nước mủ nhầy nhầy, nhìn kỹ thì trên ngực ổng phủ đầy những vết lở loét, vô số con du diên có cái đầu cứng chen chúc bên dưới lớp da. Hiển nhiên chú Ba muốn lôi chúng ra, nhưng đuôi du diên đụng vào là đứt đoạn, phần còn lại vẫn nằm trong da thịt, miệng vết thương vì thế cũng không khép lại được, một thời gian sau sẽ mưng mủ hoàn toàn.

Phan Tử liền túm lấy gã nước ngoài kia, định đánh hắn nhưng bị những người khác giữ lại. Phan Tử vừa giãy giụa, vừa hét lớn: "Quân khốn nạn, các ngươi làm gì ông Ba thế kia! Sao ông Ba lại ra nông nỗi này?"

Tôi nhìn vẻ mặt kinh hoàng của gã nước ngoài kia khi thấy vết thương thì biết bọn họ cũng không hiểu chuyện gì. Nhưng chú Ba trông cũng quá thảm hại, tôi run rẩy hỏi gã: "Tìm thấy ông ấy ở đâu? Sao ông ấy lại ra nông nôĩ này?"

Gã nước ngoài kia gần như muốn nôn, quay đầu lại nói: "Tìm thấy bên dưới giếng mộ này, lúc chúng tôi phát hiện ra ông ta, còn tưởng ông ta đã chết rồi cơ. Về sau phát hiện ông ta vẫn còn sống, chỉ huy nói ông già này biết rất nhiều chuyện, nhất định phải mang theo – tôi không biết trên người ông ta có mấy thứ này, bằng không có đánh chết tôi cũng không dám cõng!"

"Nhất định là các ngươi!" Phan Tử ở bên kia nổi giận, "Hồi ở Việt Nam ta đã thấy rồi, đây chính là chiêu người Việt Nam dùng để thẩm vấn phạm nhân, học theo người Mỹ các ngươi. (Ơ sao biết học từ Mẽo mà không phải từ Tàu =))) Lũ khốn nạn các ngươi chắc chắn đã bức cung ông Ba, ông phải giết các ngươi!"

Những người khác đều vây kín xung quanh chúng tôi, tôi khoát tay ra hiệu cho Phan Tử bình tĩnh một chút, nói: "Không liên quan đến bọn họ đâu, nếu đúng là vậy thì bọn họ không thể không biết du diên chết sẽ thu hút đồng loại mà hoảng loạn đến thế."

A Ninh lại gần xem xét, cũng ớn lạnh sống lưng, lập tức gọi bác sĩ đến, mấy người luống cuống đỡ chú Ba tôi nằm ra đất. Đúng vào lúc đó, tôi bỗng dưng có cảm giác chú Ba lén lút thả thứ gì đó vào túi áo tôi, động tác hết sức mau lẹ, trong nháy mắt tôi chỉ cảm thấy thấy túi mình rung nhẹ. Tôi ngây người mất một lúc, trong lòng khẽ động.

Thoáng cái đầu tôi ong lên một tiếng, lập tức nhận ra: chú Ba có thể đã tỉnh! Trong lòng trào lên cảm giác kinh hãi lại có phần an tâm. Kinh hãi vì hóa ra ổng chỉ giả bộ hôn mê, không biết để làm gì. An tâm vì lão khốn vẫn còn hơi sức mà làm cái trò mờ ám này chứng tỏ còn lâu ổng mới chết được. Tôi đảo mắt nhìn quanh bốn phía, thấy những người khác đều chấn động vì vết thương trên người chú Ba, không ai để ý đến hành động vừa nãy. Thế nên tôi cũng tỉnh bơ mà tiếp tục đỡ ổng, lại đưa tay nhéo nhéo vai ổng, ý nói mình đã biết trong túi vừa có thêm thứ gì.

Ánh mắt chú Ba lại lờ đờ như cũ. Bác sĩ lấy cồn lau miệng vết thương, sau đó dùng dao đã hơ lửa rạch da ổng, cầm nhíp gắp hết những mẩu du diên đứt đoạn bên trong rồi nặn cho mủ chảy ra. Vì nơi này rất lạnh, nước dễ dàng đóng băng nên tôi và Phan Tử châm lò không khói, không ngừng sưởi ấm người chú Ba.

Tổng cộng có mười sáu vết thương, có mấy con du diên lúc lấy ra vẫn còn sống, bị ném thẳng vào lửa cho cháy thành tro, cuối cùng vết thương cũng được khâu lại hết. Phan Tử chăm chú theo dõi cả quá trình, tôi muốn nháy mắt ra hiệu cho anh cũng không được. Trong lòng tôi nhấp nhổm không yên, nhưng trong tình thế này mà tự dưng bỏ đi cũng không ổn, muốn biết chú Ba rốt cuộc thả cái gì vào túi mình thì đành phải chờ thôi.

Chật vật mãi mới xử lí xong xuôi, bác sĩ đắp cho chú Ba tấm thảm để ổng ngủ trong một góc. Phan Tử vội hỏi ông ấy thế nào rồi, bác sĩ thở dài: "Những gì có thể làm tôi đều đã làm, bây giờ miệng vết thương của ông ấy đang bị nhiễm trùng. Tôi đã tiêm cho ông ấy một liều kháng sinh, nhưng ông ấy vẫn sốt cao, tôi cũng không biết có thể cầm cự ra ngoài được không nữa. Cái này còn phải xem ý chí của bản thân người bệnh, các anh đừng làm ồn, để yên cho ông ấy ngủ." Lúc này tôi mới có cớ kéo Phan Tử ra, nhưng vừa động thân mới phát hiện lúc mình lăn xuống cầu thang cả người cũng đầy vết thương, giờ không sao nhấc người lên nổi.

Bác sĩ băng bó xong vết thương cho tôi thì đi khám những người khác. Đoàn của A Ninh có khoảng mười sáu mười bảy người, lúc này pháo lạnh đã dần dần lụi đi, bốn bề lại chìm vào bóng đêm nên không đếm được chính xác. Bàn Tử bị A Ninh lôi vào một góc, hai người đang huyên thuyên gì đó, tôi cũng không nhìn được rõ ràng. Tôi định kéo Phan Tử đến chỗ vắng vẻ nhưng Phan Tử cứ như người mất hồn, một mực ngồi bên chú Ba, chả có phản ứng gì.

Trong lòng tôi thật sự phát cáu. Đúng những lúc quan trọng thì không ai giúp được gì, đành phải tự mình nghĩ cách tránh né những người xung quanh. Đoàn của A Ninh chia làm hai nhóm, một nhóm bị thương đang nghỉ ngơi cho lại sức, nhóm kia trèo xuống giếng mộ. Những người này hình như không có ác ý với tôi, hẳn là do họ đều quen biết Bàn Tử. Nhưng vừa nãy một mình tôi đẩy lùi hết đám du diên, cho nên tôi đi đến đâu bọn họ đều dùng ánh mắt nghi hoặc mà dò xét tôi đến đấy. Cái mộ thất hình tròn này lại quá mức trống trải, tôi chẳng biết chui vào cái lỗ nẻ nào cho đỡ bị soi.

Tôi chợt nảy ra một ý, bèn bước tới chỗ con thi thai vừa bị tôi dẫm nát bét, giả vờ ngồi xuống ngắm nghía nó, lúc này mới không còn ai tò mò nhìn tôi nữa.

Thi thai trông giống một con tôm cực lớn, ngũ quan đều bị tôi dẫm cho lẫn lộn vào nhau, vừa liếc qua một cái da đầu đã giật giật liên hồi, nhưng tôi cũng không cần để ý nhiều làm gì. Thò tay vào túi móc thứ đồ kia ra, thì ra là một tờ giấy nhỏ. Quay lại thấy không có ai, tôi vội vàng mở ra đọc, chỉ thấy bên trong viết vài hàng chữ. Vừa nhìn lướt qua tôi đã giật mình kinh ngạc, mấy chữ này nửa bên trên không phải bút tích của chú Ba, xem nét chữ thì hình như là của Muộn Du Bình. Phía trên viết:

"Tôi đã đi xung ri.

Dng đây thôi, các người mau quay v. Xung sâu hơn mt chút đã là nơi các người không th ng phó được na.

Tt c nhng gì các người mun biết đu nm trong con Xà mi đng ngư."

Chữ kí lại càng làm tôi kinh hãi, đó chính là cái kí hiệu kì quái chúng tôi đã gặp lúc trước... Kí hiệu này quả nhiên là do Muộn Du Bình để lại, rốt cuộc nó có ý nghĩa gì?

Dưới nữa mới là mấy chữ viết rất ngoáy của chú Ba, xem ra ổng dùng móng tay viết, nhưng cũng coi như dễ đọc, chỉ có một hàng.

"Chúng ta ch còn cách chân tướng có mt bước, hãy đưa cá đng cho cp dưới ca A Ninh là Ô Lão T đ hn dch ra. Không sao c, vt mu cht nht nm trong tay ta, bn h không dám gây khó d cho chúng ta đâu."

Hiển nhiên khi chú Ba tới đây đã phát hiện ra tờ giấy của Muộn Du Bình ở nơi nào đó. Hơn nữa tờ giấy này nhất định là viết cho chúng tôi, xem ra Muộn Du Bình muốn ngăn cản chúng tôi đi xuống. Xem ẩn ý bên trong tờ giấy thì hình như còn có một thông đạo, hắn đã đi vào nơi nào đó cực kì nguy hiểm. Mà chú Ba hiển nhiên không thèm coi lời cảnh báo này ra gì, đúng là muốn đâm đầu vào chỗ chết. Lão khốn này rốt cuộc muốn làm gì? Chú Ba còn nắm giữ vật gì mấu chốt nữa? Muộn Du Bình nếu đã không muốn chúng tôi đi xuống thì kí hiệu kia để lại cho ai? Chẳng lẽ hắn để lại cho chính mình?

Đầu óc tôi lơ mơ như lạc vào cõi tiên. Thật ra khoảng thời gian này tôi cảm thấy càng ngày càng có nhiều manh mối xuất hiện, nhưng vì những bí ẩn phía trước quá hỗn loạn, cho nên một khi có ý tưởng mới xuất hiện thì lại càng thêm rối rắm.

Tôi nhớ đến kí hiệu trong mộ huyệt dưới đáy biển, Muộn Du Bình nhìn thấy nó mới nhớ ra mình đã từng đến đây. Giờ hắn khắc thêm kí hiệu, chẳng lẽ... Chẳng lẽ hắn biết mình rồi sẽ mất trí nhớ? Cho nên trước đó đã để lại kí hiệu cho bản thân mình để đến lúc ấy có thể dựa vào kí hiệu mà nhớ ra?

Chuyện này thật quá lộn xộn, đầu tôi lại âm ỉ đau. Đúng lúc này A Ninh và Bàn Tử quay về phía tôi gọi to một tiếng làm tôi giật mình nhảy dựng lên, quay lại nhìn thì thấy bọn họ đang gọi mình sang, vì thế dứt khoát không nghĩ nhiều nữa, gập tờ giấy lại bỏ vào trong túi rồi qua chỗ hai người.

A Ninh đưa bầu nước cho tôi, tôi uống một ngụm, cô ta mở lời: "Tôi và ngài Vương đây vừa chuyện trò mấy câu, chúng ta chuẩn bị hợp tác chính thức, anh thấy sao?"

Hợp tác? Tôi nhìn khuôn ngực đầy đặn ẩn hiện sau bộ quần áo bó sát người, nhớ lại chuyện xảy ra trên thuyền nên không dám nhìn thẳng. Lại nhớ tới cảnh báo của Muộn Du Bình và lời của chú Ba, bỗng dưng tôi không biết trả lời ra sao.

Tìm được chú Ba rồi, lòng tôi cũng an tâm hơn. Trong cái an tâm này cũng có một phần ích kỉ, đó là mình có thể ra ngoài rồi, vì thực chất tôi vẫn luôn nóng lòng muốn thoát khỏi nơi đây. Nhưng đúng như lời chú Ba nói, chúng tôi dường như chỉ còn cách chân tướng một đoạn rất gần. Xem ra chú Ba cũng có câu đố của riêng mình, nếu cứ khơi khơi cứu ổng ra ngoài, không chừng chính bản thân ổng cũng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào. Mà chúng tôi có thể quên đi cũng còn may, nếu không quên được, với tính cách của chú Ba đương nhiên sẽ muốn quay lại lần nữa, đến lúc ấy tôi nào có thể trơ mắt ngồi nhìn?

Ngẫm nghĩ một lát, tôi cắn răng nói: "Hợp tác thế nào, cô nói thử xem? Nhớ nói cho thành thực, hợp tác với cô tôi phải cân nhắc cho kĩ."

Cô ta nhìn vẻ mặt tôi, cười cười lắc đầu nói: "Lần đó ở trên đảo tôi không kịp từ biệt các anh, giờ phải cảm ơn anh đã cứu tôi. Lúc ở dưới biển... là vì nỗi khổ tâm riêng, tôi thực sự không muốn hại các anh."


Tôi nhớ lại chuyện xảy ra dưới đáy biển, thở dài, thầm nghĩ có quỷ mới tin cô. Tôi châm một điếu thuốc, nói: "Nếu muốn hợp tác thì hãy cho tôi biết đã có chuyện gì xảy ra. Các người rốt cuộc muốn tìm vật gì dưới đáy biển? Các người tới nơi này để làm gì?"

Bàn Tử đứng bên cạnh cũng phụ họa: "Đúng! Mọi người phải thẳng thắn thì mới dễ làm việc với nhau được."

A Ninh tỏ ra kinh ngạc: "Anh không biết? Chú Ba nhà anh không nói gì với anh sao? Các anh... không biết gì cả mà dám liều mạng chạy lung tung trong này?"

Tôi cười gượng một tiếng, thầm nghĩ nếu chú Ba kể hết mọi chuyện cho tôi biết thì tôi còn quan tâm ổng sống hay chết làm quái gì, bèn lắc đầu: "Chú ấy chưa nói, tôi chỉ đi bừa thôi."

A Ninh nhíu đôi mày thanh nhìn tôi một lúc lâu, đến khi cảm thấy tôi thực sự không nói dối mới tiếp lời: "Chẳng trách, tôi vẫn nghĩ anh là hạng người cực kì lợi hại, nhìn kiểu gì cũng không ra anh đang nói dối. Thì ra anh thực sự chẳng biết gì cả."

Tôi bỗng dưng cảm thấy có điều gì đó không ổn, vì sao cô ta đột ngột đòi hợp tác với chúng tôi? Bọn họ có nhiều người, binh đông lương đủ, còn chúng tôi chỉ có ba người, cần gì phải hợp tác cơ chứ? Cứ cho là vì tôi có thể đẩy lùi du diên thì cũng chỉ cần trói tôi lại khiêng theo là xong, lẽ nào — tôi nhìn quanh quất – bọn họ rơi vào cảnh ngộ không hay? Hoặc là có lí do bất đắc dĩ nào đó?

A Ninh nhìn nét mặt tôi, đại khái cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì. Cô ta không đi bóc mẽ mà chỉ thở dài một hơi: "Thật ra chúng tôi chỉ là hạng tôm tép, đâu có biết gì nhiều, chẳng qua chỉ bán mạng cho ông chủ thôi." Nói rồi mời chúng tôi ngồi xuống, gọi một người nước ngoài khác tới. A Ninh giới thiệu với tôi người này tên Kirk, là chuyên gia Hán học, chuyên nghiên cứu về Đông Hạ, người biết nhiều nhất về tất cả mọi chuyện, có gì cứ hỏi ông ta. Người này cũng bắt tay tôi, nói: "Ban đầu chúng tôi định giữ bí mật tuyệt đối, nhưng tình hình lúc này... Cậu muốn biết gì xin cứ hỏi."

Tôi có cảm giác ruột gan mình vừa rớt bịch xuống.

Ông ta tiếp tục nói: "Rất tiếc, mục đích của ông chủ tôi không thể nói cho cậu được. Thật ra tôi cũng chỉ là một đội trưởng thôi, tôi với A Ninh chỉ biết chúng tôi phải đến một nơi, mang một thứ trong đó ra, vậy là hoàn thành nhiệm vụ, còn cụ thể cấp trên muốn lấy những thứ này để làm gì thì tôi thực sự không biết. Cho nên mục tiêu của chúng tôi khi xuống hải mộ có hai, một là ngọc tỷ, người Trung Quốc gọi nó là quỷ ấn, nghe nói có thể triệu tập âm binh. Thứ còn lại chính là sơ đồ địa cung này, tiếc thay chúng tôi lại không được chạm vào, cuối cùng phải nhờ A Ninh ra tay mới lấy được thứ cần phải lấy."

"Quỷ ấn", nghe đến đây tôi gần như muốn nhảy dựng lên. "Ý ông là quỷ ấn của Lỗ Thương vương? Trong huyệt mộ dưới đáy biển?" Nghe chúng tôi nhắc đến quỷ ấn, Bàn Tử cũng cảm thấy hứng thú, hớn hở chạy lại. A Ninh hình như rất ngán ngẩm Bàn Tử, nhưng cũng không biết phải làm sao.

Người tên Kirk kia gật đầu nói: "Chính là nó, hẳn là cậu cũng biết sơ sơ rồi. Sau khi lăng của Lỗ Thương vương bị Uông Tàng Hải đào trộm, ông ta đã dùng Xà mi đồng ngư thế chỗ cho quỷ ấn. Chúng tôi vẫn đinh ninh quỷ ấn được ông ta giấu trong lăng mộ của mình nhưng tìm mãi vẫn không thấy, mà sơ đồ thiên cung này chỉ e đã rơi vào tay chú Ba nhà các cậu. Đến giờ chúng tôi cũng không rõ mình đã bị con cáo già này lòe bịp bao nhiêu bận, nhưng vẫn phải hợp tác với ông ta vì tin tức của ông ta chuẩn xác hơn chúng tôi rất nhiều."

Tôi gật đầu cười khổ, chuyện này thì tôi đồng cảm. Bàn Tử đứng cạnh vội nói: "Vậy ông nói xem cái lần A Ninh xuống biển với chúng tôi, cô ả đã mang ra thứ gì?"

Kirk đang định nói thì A Ninh đã ngăn lại, nói với ông ta: "Chuyện gì cần nói ông hãy nói, không cần thì ông chớ nhiều lời."

Bàn Tử giận dữ nói: "Cô có ý gì?"

Kirk hình như không hiểu A Ninh cho lắm, cười to một trận rồi nói: "Dù cô không nói cho họ biết thì chung quy vẫn phải lấy ra, huống chi bây giờ cô có giữ khư khư mấy thứ này cũng chẳng để làm gì."

A Ninh liếc chúng tôi một cái, giậm chân bình bịch, có vẻ rất không cam lòng: "Tôi phải chịu biết bao khổ cực mới lấy được mấy vật này, đúng là dễ dàng cho các người quá."

Lúc này tôi có cảm giác rất quái lạ, đám người A Ninh sao lại muốn hợp tác cơ chứ? Về sau tán gẫu với chú Ba, ổng nói thực ra lúc đó đám A Ninh đã đi đến đường cùng, cô ta không còn cách nào khác mới phải đề nghị hợp tác. Bởi vì bọn họ rốt cuộc chỉ là dân nghiệp dư, cho dù thiết bị kĩ thuật có tân tiến đến đâu thì so ra vẫn kém một thổ phu tử nửa mùa như tôi. Nhưng cô ta là người cực kì thông minh, trong lòng chỉ muốn mau mau kể tuốt mọi chuyện cho tôi biết mà ngoài mặt vẫn cẩn thận thăm dò, muốn moi từ miệng tôi ra chút tin tức để trao đổi, quả là một kẻ lọc lõi. Cũng may tôi cố ý giữ kẽ, bằng không sẽ bị cô ta đoán ra toàn bộ, kế hoạch của chú Ba chắc chắn sẽ đổ bể.

Kirk nói: "Đây là bích họa tự sự cực kì quan trọng, được chụp trong gian mộ thất chính, vào cái lần cùng nhau xuống biển kia, cậu có thể xem nội dung được vẽ bên trong là gì."

Tôi đếm sơ sơ thì thấy tổng cộng có mười lăm bức bích họa, cảnh tượng biến đổi, hiển nhiên những bức bích họa này phải liên quan đến nhau nhưng giữa chúng lại không có tình tiết liên hệ tất yếu nào. Tôi thấy có bức tranh tả cảnh leo núi tuyết, có bức nhìn xuống sơn lăng, có bức thuật lại cảnh binh lính chiến đấu, hình ảnh trong những bức bích họa này đều không có mối liên hệ tất yếu với nhau.

Kirk nhìn nét mặt tôi cũng biết tôi chả hiểu gì, mới rút một tờ đưa cho tôi xem, nói: "Cậu nhìn xem, đây là bức tranh đầu tiên, cậu thấy nó vẽ gì?"

Tranh vẽ mấy người ăn mặc kiểu Nữ Chân đang trói chặt một người Hán. Tôi nói: "Có phải cảnh bắt tù binh trên chiến trường không?"

"Có thể nói như vậy. Nhưng cậu đoán thử xem, tù binh kia là ai?" Kirk cười cười, ra vẻ thần bí.

Tôi cẩn thận ngắm nghía ảnh chụp bích họa, phát hiện tù binh này trông khá giống hình Uông Tàng Hải vẽ trên mấy món đồ gốm sứ, kinh ngạc nói: "Đây là Uông Tàng Hải? Người Nữ Chân đang bắt ông ta?"

Kirk nói: "Chính xác! Đây là bức tranh thứ nhất. Mà hình ảnh này cho thấy điều gì? Cho thấy Uông Tàng Hải có thể đã bị người ta ép phải xây dựng nơi này. Ông ta bị bắt tới đây."

Tôi nhanh chóng nhìn ra manh mối, lại liếc mắt sang mấy tấm khác, hỏi: "Những tấm hình này thì sao?"

"Chúng đều kể lại những chuyện Uông Tàng Hải đã trải qua sau khi rơi vào tay người Đông Hạ. Tuy chúng tôi không thể hiểu hết, nhưng dựa vào những tấm ảnh trước đó cũng đoán được tám chín phần."

Tôi cẩn thận ngắm nghía một tấm hình trong số đó, bỗng dưng phát hiện có điểm không hợp lý: "Còn tấm này..."

Kirk liếc qua, cũng gật đầu: "Cậu tinh mắt đấy, tấm ảnh này đúng là mấu chốt. Cậu cũng thấy đó, đây là hoàng lăng trong miệng núi lửa. Khi Uông Tàng Hải bị bắt đến đây thì hoàng lăng đã có rồi, hơn nữa còn rất hoang tàn."

Tôi "A" lên một tiếng, vậy lẽ nào hoàng lăng trên đầu chúng tôi không phải do ông ta xây nên sao?

Kirk đáp: "Chúng tôi đã nghiên cứu rồi, kiến trúc tổng thể của hoàng lăng là dấu tích từ thời Ân – Thương nhưng về sau bị Uông Tàng Hải sửa thành kiểu dáng thời nhà Minh. Người Đông Hạ bắt ông ta đến đây không phải để xây hoàng lăng, mà là để tu sửa hoàng lăng, bởi vì hoàng lăng cũ trải qua bao nhiêu năm tháng đã không thể sử dụng được nữa."

"Vậy là địa cung này đã có từ trước sao?" Bàn Tử hỏi.

Kirk gật đầu, đáp: "Chúng tôi dựa vào những tấm ảnh này để tìm ra con đường cũ dẫn vào nơi đây, nhưng vẫn có vài tấm hình không thể giải thích được, ví dụ như tấm này."

Đó là một bức bích họa vẽ cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá, là bức thứ ba từ cuối lên. Còn có bức miêu tả một vật tròn tròn màu đen trông như sinh vật nhuyễn thể bò lên từ vách núi lớn, mà bên trên lại có người đang dốc ngược thứ gì đó xuống dưới.

Tôi cảm thấy đầu óc mình căng như dây đàn, gần như nín thở, định ngồi xuống ngắm nhìn cho kĩ. Đúng lúc ấy, A Ninh đột ngột đưa tay về phía tôi, nói: "Tốt lắm. Chuyện của chúng tôi đã nói xong, hình ảnh anh cũng có thể xem tùy ý. Giờ anh cũng nên nói cho chúng tôi chút thông tin mới phải chứ?"

"Nói cái gì cơ?" Tôi ngơ ngác.

"Chuyện của tôi, tôi đã nói hết rồi. Còn chuyện của anh với Ngô Tam Tỉnh." A Ninh nhìn tôi,"Không lẽ anh còn hẹp hòi hơn cả một phụ nữ như tôi?"

Lòng tôi thầm nhủ cô toàn nói nhăng nói cuội, nói mà cũng như không, trọng tâm thì phớt lờ đi, mẹ kiếp cô tưởng tôi vẫn còn là Ngô Tà ngu-ngơ-cái-gì-cũng-không-biết trước kia sao? Tâm niệm thoáng xoay chuyển, tôi hỏi cô ả: "Trong đoàn của cô có một người tên Ô Lão Tứ phải không?"

A Ninh gật đầu, nghi hoặc hỏi: "Sao vậy? Anh biết ông ta?"

Tôi lấy từ trong túi ra hai con cá đồng, huơ lên trước mặt họ, nói: "Những chuyện các người muốn biết đều nằm trong con cá này, nếu Ô Lão Tứ còn chưa chết thì mau gọi hắn ra đây."

Trong nháy mắt, tôi thấy Kirk gần như ngã lăn ra đất, ánh mắt của A Ninh cũng trở nên căng thẳng, lắp bắp nói: "Trời ạ! Cậu có đến hai....con...." Tôi hơi xê dịch cánh tay, ánh mắt bọn họ cũng di chuyển theo.

Chương 48: Xà mi đng ngư

Tôi thực sự không muốn giao Xà mi đồng ngư ra cho họ, nhưng nhớ tới lời dặn dò của chú Ba thì lòng cũng mềm đi, không ngờ vừa đưa ra đám người A Ninh đã phản ứng dữ dội như thế.

Một lúc lâu sau mới có người tỉnh lại, hỏi tôi: "Anh lấy nó ở đâu? Anh... đúng là thần thánh, lẽ nào các người đã vào Lỗ Vương cung? Đây chính là long ngư mật văn! Tôi cứ đinh ninh chỉ có một con, không ngờ..."

Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà tán nhảm với bọn họ, khoát tay nói: "Trong các anh có ai đọc được không?"

A Ninh lập tức gọi lớn:"Ô Lão Tứ!" Một người Trung Quốc bước ra, vừa thấy con cá đồng trên tay tôi sắc mặt lập tức biến đổi, vội vàng lao đến, hét lên: "Trời ạ!"

Tôi nói với hắn: "Có thể dịch ra không?" Hắn gật đầu lia lịa, đưa tay ra nâng như nâng trứng. Đèn pin vừa chiếu lên vảy con cá đồng, vô số chữ Nữ Chân đã in lên mặt đấ, bên cạnh tôi lập tức có người ghi chép lại.

Thuộc hạ của A Ninh quả là lợi hại, vừa sao chép vừa phiên dịch, so ra còn giỏi hơn Hoa hòa thượng nhiều, họ chép xong tôi cũng nghe được sơ sơ. Tuy tôi không thể hiểu cặn kẽ, chỉ hiểu lơ mơ ý tứ bên ngoài nhưng càng nghe lại càng rõ ràng, có vẻ giống thơ tự sự. Tôi không thể ghi lại toàn bộ, nhưng trong đó cũng có vài đoạn khắc sâu vào trí nhớ.


Nội dung cả đoạn cực kì giản lược, mở đầu là mấy câu ý nói bí mật ẩn giấu trong long ngư mật văn này hết sức quan trọng. Uông Tàng Hải khắc lên đây vốn hi vọng nó vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời, nhưng nếu có người thấy thì chỉ mong đó là người Hán chứ không phải người Nữ Chân, đại loại là như vậy.

Đoạn tiếp đó ghi lại chuyện xảy ra sau khi ông ta bị bắt đến Đông Hạ, đại để cũng giống ghi chép trên bích họa, nhưng có thêm vài câu nữa.

Để lấy một vài bảo vật mà Đông Hạ không có sẵn, ông ta đã dẫn người đào bới rất nhiều cổ mộ, lại lén đặt cá đồng vào những nơi linh khí thịnh vượng, để bí mật này có cơ hội được người đời sau phát hiện.

Tôi nghe đến đó liền 'À!" một tiếng, thầm nghĩ thì ra là vậy. Mà nội dung những phần sau đó lại khiến tôi không tài nào tin nổi – trong đó ghi trong quá trình tu sửa hoàng lăng, ông ta đã dần dần phát hiện ra một bí mật quỷ dị của hoàng đế Đông Hạ.

Chuyện này làm tôi kinh hãi đến cực độ là vì trước đó Hoa hòa thượng từng đọc ra nửa đoạn trước: Vạn Nô vương là quái vật, là yêu nghiệt chui lên từ lòng đất, mà đoạn tôi vừa nghe lại ăn khớp với những điều Hoa hòa thượng đã nói.

Bên trong có ghi Uông Tàng Hải bị nhốt trong này đến mười năm, từng bị dẫn đi xem một cánh cửa trong lòng đất được gọi là thần tích. Theo truyền thuyết, các đời Vạn Nô vương không phải do cha truyền con nối mà đều chui ra từ lòng đất sau khi đời trước chết đi. Mà cánh cửa trong lòng đất kia cũng chỉ có thể mở ra vào thời khắc Vạn Nô vương tiền nhiệm qua đời, bằng không nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này, khiến cho núi Trường Bạch không thể bạc đầu. Tôi nghe vậy thì liên tưởng ngay đến núi lửa phun trào, thầm nghĩ lẽ nào Vạn Nô vương kia bò ra từ trong lòng núi lửa?

Ông ta may mắn được tận mắt chứng kiến một lần vương vị thay đổi, mà thứ khiến cho ông ta cảm thấy sợ hãi tột cùng chính là Vạn Nô vương đi ra từ cánh cửa dưới lòng đất hóa ra lại là yêu quái, căn bản không phải người.

Trên đó ghi lại, cánh cửa thông xuống lòng đất này nằm ngay dưới móng hoàng lăng, dưới đáy núi Trường Bạch, niên đại từ thời thượng cổ, chỉ e là di vật từ đời nhà Hạ. Mà thông đạo dẫn xuống lòng đất kia lại do loài chim có cái đầu người canh giữ.

Tôi nhớ đến loài quái điểu kia mà toát mồ hôi lạnh, nhưng nội dung về sau còn quỷ dị hơn nhiều.

Trên con cá kia kể lại chuyện ông ta lén lút lẻn vào cánh cửa dưới lòng đất. Đoạn này tôi hoàn toàn không hiểu, chẳng biết ông ta đang nói gì nữa, hiển nhiên sau khi trở về ông ta đã khắc những dòng này trong lúc thần kinh còn chưa hồi phục, lời lẽ có phần lộn xộn.

Bàn Tử vẫn chăm chú lắng nghe, lúc này cũng bắt đầu sốt ruột mà chen miệng vào: "Trước đã nói nghiệp hỏa địa ngục sẽ thiêu rụi những kẻ cả gan mở cánh cửa này ra, sao lão già kia đi vào mà chẳng sứt mẻ gì? Con mẹ nó, hay lão ta ghi bậy ghi bạ?"

Tôi thầm nghĩ chắc chắn ông ta phải có cách nào đó mà chúng tôi không biết, nhưng nội dung ghi chép trong này đúng là rối tung rối mù. Đúng lúc này bỗng dưng có người tới báo cáo, nói là lại phát hiện ra kí hiệu.

Chúng tôi qua đó xem thì thấy mấy cỗ quan tài bên trong giếng mộ đều đã bị mở ra, có thể nhìn rõ từng đồ vật bên trong. Bên giếng mộ có người mở ra một cánh cửa ngầm, trong cửa ngầm lại phát hiện một kí hiệu.

"Kí hiệu này không phải do các anh lưu lại sao?" A Ninh hỏi.

"Đâu có, chúng tôi cũng đang rối tung lên đây." Tôi giả nai.

Một người đứng gần đó báo cáo: "Mấy cái quan tài này đều là đồ giả, bên trong chỉ có ngọc tạo hình thi thể, quan quách thật không ở chỗ này. Ban nãy chúng tôi đã mở ra một cơ quan chứa Trùng hương ngọc, khiến cho đám du diên bị dẫn dụ ra bằng sạch. Giờ chúng tôi cẩn thận dò tìm, không ngờ chỗ này còn có một mật đạo, hơn nữa đã có người vào trước. Xem ra đây là một ngôi mộ hai tầng, quan quách thực sự có lẽ nằm ngay bên dưới . Đây là hình thức mộ táng rất phổ biến vào thời nhà Nguyên."

Tôi nhìn quan quách cỡ bự được chế tác từ bảo thạch lưu ly, trong lòng thoáng sợ hãi, lại qua chỗ cánh cửa ngầm đang mở ngó một cái, phát hiện cánh cửa này hết sức bất thường. Lòng mật đạo dốc đứng, xem ra được đào để lấy chiều sâu. Lòng tôi "ồ" lên một tiếng, xem ra cái nơi Muộn Du Bình không cho tôi xuống chính là chỗ này.

A Ninh nhìn tôi chằm chặp, xem ra cũng nghĩ như tôi. Cô ta phất tay ra hiệu cho mọi người đi xuống, nhưng bọn họ vẫn đứng ngây ra, mọi ánh mắt đổ dồn về phía tôi và Bàn Tử.

Chương 49: Li ra duy nht

Mộ đạo nghiêng xuống dưới, góc độ càng ngày càng dốc đứng, tôi và Bàn Tử rọi thẳng đèn pin xuống cũng không thấy đáy đâu, chỉ thấy một khoảng không tối đen thăm thẳm.

Tôi có phần hoảng hốt, chúng tôi đã đi một quãng rất xa, đã xuyên sâu vào lòng núi Trường Bạch, nếu còn đi xuống nữa thì sẽ đến nơi nào? Tâm trái đất sao?

Nhưng dẫu có là tâm trái đất thì chúng tôi cũng phải đi, bởi vì kí hiệu dẫn đường mà Muộn Du Bình để lại nói cho chúng tôi biết hắn thực sự đã đi xuống nơi này, giờ chúng tôi đi thêm một bước có nghĩa là đến gần sự thật hơn một chút. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác, chỉ còn cách kiên trì đi xuống.

Nương theo ánh sáng đén pin đi được chừng hai mươi phút, Bàn Tử quay sang nói: "Tiểu Ngô, cậu có nhận ra không, trong lòng mộ đạo này ấm áp hơn hẳn?"

Tôi gật đầu, đáp: "Có lẽ đích đến của chúng ta rất gần địa tầng hoạt động của núi lửa, ở đó có dung nham hoặc suối nước nóng, nhiệt độ nhờ đó mới có thể dần dần tăng cao. Rốt cuộc năm đó Uông Tàng Hải đã đào tới tận đâu chứ?"

Bàn Tử cũng chịu, không thể trả lời câu hỏi này.

Lại đi thêm một lúc nữa, Bàn Tử đột ngột quay đầu hỏi tôi: "Cậu hãy khai thật cho tôi biết, cậu với Tiểu Ca kia có quan hệ đặc biệt gì đó phải không?"

Tôi suýt sặc nước miếng, không biết trả lời thế nào, mãi mới nghĩ ra mình đã hiểu lầm, cái 'quan hệ' hắn hỏi không phải loại 'quan hệ' mà tôi nghĩ.

Vừa rồi đã có rất nhiều chuyện xảy ra trong khoảng thời gian ngắn, tôi cũng không kịp phản ứng. Bây giờ nghĩ kĩ lại, Bàn Tử vốn không biết khi ở Tần Lĩnh máu của tôi đã có hiện tượng giống như bảo huyết lão Muộn. Đây là lần đầu tiên hắn chứng kiến cảnh này, bảo sao không giật mình cho được. Vì lúc ấy có mặt người của A Ninh nên không tiện hỏi, giờ chỉ còn lại hai người, hắn đương nhiên muốn hỏi chuyện này. Có điều với tính tình của hắn thì không đời nào có chuyện hỏi han nghiêm túc, hắn hỏi quan hệ giữa tôi và Muộn Du Bình, có lẽ chỉ là thắc mắc vì sao máu của tôi cũng có thể xua đuổi côn trùng?

Theo lời trợ lý Lương nói, máu tôi có năng lực kì lạ này hẳn là do ăn được máu kì lân dùng để hun khô thi thể. Nhưng tôi thực sự không nhớ nổi tôi đã nếm qua thứ này lúc nào, vả lại cũng chả biết cái khỉ biển gì về máu kỳ lân nên không thể trả lời hắn một cách chính xác. Mà thực ra chuyện vừa nãy cũng nằm ngoài ý muốn, là hành vi trong vô thức nên không thể chỉ dựa vào đó mà kết luận máu của tôi đã phát huy tác dụng.

Bàn Tử thấy tôi im thin thít, đinh ninh tôi cũng nghĩ như hắn, bèn nói: "Không chừng tên đó lại là anh em trai hoặc họ hàng thân thích của cậu thất lạc nhiều năm, cũng có thể là con riêng của cha cậu. Người nhà cậu ai cũng được di truyền thứ năng lực đặc biệt này."

Tôi mắng: "Anh đừng nói bậy, cha tôi chỉ có tôi là con một. Người hủ nho như ông ấy mà có con riêng thì trên đời này không còn thằng đàn ông nào đáng tin nữa."

Bàn Tử vẫn cho là trong chuyện này có điểm kỳ quặc, tôi không muốn tiếp tục chủ đề này nữa, bèn tìm cách đánh lạc hướng.

Đi mãi đi mãi, rốt cuộc cũng đến cuối mộ đạo, bỗng một cơn gió lạnh thổi tới khiến tinh thần tôi khẽ chấn động. Tôi vội chỉnh đèn pin thêm sáng, nhìn quanh bốn bề, phát hiện đây là một lang đài dựng cheo leo trên vách đá, khá giống đài cúng tế chúng tôi gặp trong linh cung giả bên dưới khung băng. Sàn đài dưới chân dùng cột trụ đỡ lơ lửng trên vách đá, chính giữa lang đài dựng một cái đỉnh đen cực lớn, một chân đỉnh đã lún xuống sàn đài bằng đá làm nó ngả nghiêng muốn đổ, hiển nhiên khi đặt chân lên đài này chúng tôi cũng phải coi chừng vì đá dưới chân đều đã biến chất. Mà ngoài rìa lang đài đều là vách đá, bên trên là một khoảng tối đen, nhìn không tới đỉnh.

Bàn Tử càu nhàu: "Thế quái nào mà... đến đây lại cùng đường rồi, mà cũng không thấy quan quách. Cái lão Vạn Nô vương rốt cuộc đã trốn vào xó xỉnh nào chứ?"

Tôi nói: "Đây vẫn chưa phải điểm kì quái nhất. Chúng ta đi theo kí hiệu của Tiểu Ca, dọc đường đi đều có manh mối hết sức rõ ràng, nhưng anh xem chỗ này chẳng có ma nào cả, không lẽ những người kia phát hiện ra đây là tử lộ nên đều đã trở về? Hay là...." Tôi nhìn màn đêm đen đặc bên cạnh, "Đã bay lên rồi?"

Chúng tôi đi đến mép lang đài, chợt thấy pháo sáng trên cao đột nhiên bốc cháy giống như mặt trời nhỏ giữa không gian tăm tối, phút chốc đã chiếu sáng cảnh tượng trước mắt chúng tôi.

Nương theo ánh sáng phát ra từ quả pháo, tôi nhận ra nơi này thực chất là một khe núi rất lớn. Lang đài chúng tôi đang đứng được dựng ở một bên vách đá của cái khe ấy, mà vách đá đối diện phải cách chúng tôi đến hai trăm mét. Khoảng cách xa xăm ấy cho người ta cảm giác mình đang đứng trên vách đá của vết đứt gãy Đông Phi (*), khiến chúng tôi không khỏi thét lên một tiếng kinh hãi.

(*) Là vết đứt gãy địa chất lớn nhất trên địa cầu, bao gồm hai nhánh có chiều dài tổng cộng khoảng 6000 km, chiều rộng từ 45 đến 100 km, kéo dài từ Mozambique xuyên qua Tanzania, Kenya và Ethiopia, sau cùng nối với biển Đỏ. 

Pháo sáng chầm chậm rơi xuống bên dưới lang đài, soi tỏ cảnh vật bên dưới. Xuất hiện trước mắt chúng tô lại là một cảnh tượng khiến người ta khiếp sợ, chỉ thấy trong lòng khe núi sâu không thấy đáy có vô số sợi xích thanh đồng to cỡ miệng bát chăng ngang, nối liền hai bên vách khe.

Theo luồng sáng đang chầm chậm rơi xuống, từ khoảng hai mươi mét về phía dưới đài cho đến sâu bên trong lòng khe có không biết bao nhiêu sợi xích tương tự, gần như không thấy chỗ nào thưa thớt. Mà sâu trong đám xích còn treo chi chít những vật gì đó trông như vô số quả chuông, nhưng khoảng cách quá xa nên tôi nhìn không rõ lắm.

Lúc này Bàn Tử đã tìm thấy một sợi dây thừng leo núi buông từ một bên mép lang đài xuống sợi xích thanh đồng gần nhất, đầu kia buộc chặt vào sợi xích đó.

Bàn Tử nhíu mày: "Ghê thật, Tiểu Ca kia kể cũng kiên trì, xem ra hắn đã leo xuống chỗ này rồi. Chúng có nên học khỉ leo dây không?"

Tôi đáp: "Anh xem xiềng xích bên dưới dày đặc thế kia, hẳn là leo không khó. Mà Có điều đây rốt cuộc là đâu? Tại sao lại bài trí kì quặc thế này? Chẳng lẽ quan quách của Vạn Nô vương nằm dưới khe núi này? Anh đã bao giờ nghĩ hồi ấy bọn họ làm thế nào mà đưa cái quan quách khổng lồ kia xuống đây không?"

Bàn Tử nói: "Dễ là vậy lắm, người xưa kiểu gì chẳng có những phương pháp xảo diệu của riêng mình. Chúng ta nên leo lên báo cho mấy gã ngoại quốc biết hay là tự mình leo xuống trước đây?"

Tôi nói: "Leo xuống rồi chẳng biết có còn đường trở về nữa không, chúng ta tội quái gì phải làm chó dò đường cho bọn họ. Cứ gọi cả đám xuống đây, trang bị lẫn kỹ thuật của bọn họ đều tối tân hơi chúng ta rất nhiều, xuống đây còn có chỗ dùng. Huống chi Phan Tử vẫn còn ở trên đó, vả lại chú Ba cũng đã tìm được rồi, kéo dài thời gian thêm được tí nào hay tí ấy."

Bàn Tử nhớ tới cái gã Kirk cơ bắp cuồn cuộn kia, cũng đồng tình với tôi. Chúng tôi lại theo đường cũ trở ra, lần này đã biết rõ độ dài độ dốc con đường nên bất giác cũng đi nhanh hơn.

Đám người A Ninh chờ lâu sốt ruột, còn tưởng chúng tôi gặp chuyện gì, thấy chúng tôi lành lặn trở ra mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi nhận cốc nước Phan Tử đưa cho, uống một ngụm rồi kể lại hết những thứ mình vừa trông thấy.

Vừa nghe tôi nói bên dưới có những sợi xích thanh đồng chăng ngang, A Ninh vội vàng lấy ra những tấm ảnh mình chụp được dưới hải mộ, chỉ vào một tấm trong số đó. Chỉ thấy bức bích họa trong hình vẽ những dũng sĩ Đông Hạ lưng đeo cung tiễn đang leo lên một vách đá, bối cảnh xung quanh chính là vô số vật thể trông giống sợi xích, rõ ràng nó miêu tả cảnh người Đông Hạ đang thăm dò khe núi khổng lồ trong lòng đất kia.

Tôi nói: "Xem ra những sợi xích này cũng không phải do người Đông Hạ lắp đặt. Khi đó bọn họ hẳn cũng rất tò mò, không biết dưới đáy cái khe được những sợi xích này phong tỏa trông như thế nào."

Bàn Tử nói: "Hay những sợi xích này chính là biện pháp phòng ngự do những người đầu tiên xây dựng lăng mộ này dùng để ngăn thứ gì đó từ bên dưới bò lên? Ví dụ như cái thứ sinh vật nhuyễn thể màu đen khổng lồ được vẽ trong một bức bích họa ấy."

Tôi gật đầu đáp: "Cũng có thể." Lại quay sang hỏi A Ninh: "Bức bích họa đó là thứ mấy? Bức tiếp theo vẽ cái gì?"

A Ninh nói: "Dựa theo quy luật chung của bích họa tự thuật, đây là bức thứ sáu tính từ cuối lên, phía sau còn năm bức nữa, theo thứ tự là..."

A Ninh bày năm bức ảnh cuối cùng ra, tôi thấy một bức bích họa trong số đó vẽ vô vàn dũng sĩ Đông Hạ đang giương cung bắn tên, hình như đang chiến đấu rất ác liệt. Nhưng trên bích họa lại không vẽ kẻ địch, cho nên không thể biết bọn họ đang giao chiến với thứ gì. Tôi lại nhớ đến mấy con quái điểu mỗi khi bay lên thì không thể nhìn rõ thân hình, trong lòng thoáng căng thẳng, nghĩ bụng chẳng lẽ dưới kia cũng có loài vật này?

Mà bức ảnh kế tiếp, chính là cảnh vô số ác quỷ chui ra từ tảng đá.

Giữa những bức bích họa hình như cũng không liên quan đến nhau cho lắm, nhưng nhìn qua lại khiến người ta tha hồ liên tưởng, gợi lên nhiều cảm xúc.

A Ninh hỏi tôi: "Anh lại nhìn ra điểm gì kì quặc phải không, Ngô siêu nhân?

Tôi cười cười tự giễu: "Cũng không hẳn là nhìn ra cái gì. Cô xem, sau bức bích họa leo lên vách đá chính là những cảnh chiến đấu, tôi cảm thấy nó cho chúng ta biết sau khi leo xuống khe núi kia sẽ gặp thứ gì đó nguy hiểm, ai có vũ khí nên chuẩn bị cho tốt."

Mấy người kia đều coi tôi như thủ lĩnh tinh thần, tôi nói gì thì làm nấy. Kirk vội vàng nâng khẩu M16 của mình lên, buộc chặt vào người mình. Chúng tôi thu dọn hành trang chuẩn bị lên đường, chui vô cái mộ đạo dẫn sâu vào lòng núi Trường Bạch.

Tôi đi sau cùng, tranh thủ xem tình hình chú Ba thế nào. Ổng vẫn hôn mê bất tỉnh, không rõ đã nhìn thấy thứ gì đáng sợ trong này. Phan Tử lại khiến tôi hết sức yên tâm, anh nói dù có phải bò lê bò lết anh cũng ráng đưa chú Ba ra khỏi cái nơi quỷ quái này.

Bước vào mộ đạo, nhìn những người đi trước đều tỏ ra căng thẳng, trong lòng tôi dấy lên một cảm giác kì lạ. Lúc này không có Trần Bì A Tứ cũng chẳng có chú Ba, tôi không thể không đảm đương vị trí lãnh đạo những người này. Cảm giác này tôi chưa từng trải qua, kể cũng hơi khoái. Nhưng suy nghĩ và quyết định của tôi liệu có chính xác hay không? Lỡ đâu tôi đang đẩy những người này vào đất chết? Nghĩ đến đây tôi bắt đầu do dự.

Chẳng mấy chốc mọi người đều đã tới lang đài ban nãy, Bàn Tử lại bắn một quả pháo sáng để mọi người thấy được cảnh sắc đồ sộ xung quanh khe núi, còn tôi và Phan Tử rút dây thừng ra chuẩn bị leo xuống. Đây là một quyết định cực kì mạo hiểm, nhưng đường đi của chúng tôi đã bị bít kín hoàn toàn, không còn lựa chọn nào khác nữa.

Không biết tình hình bên dưới là thế nào, mà đám người A Ninh cũng chẳng phải hạng tốt đẹp gì. Tôi rút hết dây thừng ra rồi kéo Bàn Tử sang một bên, dặn dò hắn phải cẩn thận một chút. Hiện giờ chúng tôi gặp cảnh khó khăn, mọi người trông có vẻ hợp tác lắm, nhưng một khi tìm thấy dấu hiệu có đường ra bên dưới thì phải đề phòng ả đàn bà khốn nạn kia trở mặt.

Bàn Tử vỗ vỗ vai tôi, nháy mắt một cái, ý là đã sớm đề phòng. Sợ tôi còn lo lắng, hắn lại kéo một góc áo lên cho tôi xem, bên hông hắn còn buộc mười cái ngòi nổ.

Chúng tôi giật thử vài cái, sợi dây thừng của Muộn Du Bình cực kì chắc chắn. Phan Tử vẫn xung phong làm người đi đầu, hạ xuống sợi xích đầu tiên rồi anh treo người lơ lửng như vận động viên xà đơn, nhẹ nhàng nhảy xuống một sợi xích khác bên dưới. Cứ lặp đi lặp lại như thế năm sáu lần, đi xuống hơn mười mét, anh dừng lại dùng tay làm dấu 'OK' với tôi.

Trang bị của đám A Ninh tốt hơn chúng tôi rất nhiều. Kirk mang một ngọn đèn dẫn đường tản sáng, biến bản thân thành một bóng đèn di dộng rồi nối tiếp Phan Tử. Chúng tôi lấy đầu của Kirk làm mốc, lục tục leo xuống khỏi lang đài, tiến vào thế giới xiềng xích lơ lửng trên không.

Được cái xích ken khá dày nên leo xuống rất tiện, cóc cần biết những sợi xích thanh đồng này ban đầu được bố trí ở đây để làm gì thì bây giờ cũng biến thành cái thang tiện lợi cho chúng tôi leo xuống. Leo được một lúc lâu, các động tác cũng thuần thục hơn, lại nắm được vài bí quyết, cảm giác không khác chi Spider Man tái thế.

Mười mấy người chúng tôi thong thả leo dần xuống dưới như những con nhện, dọc đường đi cũng không xảy ra chuyện gì đột ngột, mà xích thì chắc chắn khỏi bàn. Bốn giờ sau, lang đài phía trên đã biến thành một chấm nhỏ xíu, chúng tôi đã tiến sâu vào trong khe núi, đi vào phạm vi mà người đứng trên không thể nhìn tới. Những sợi xích thanh đồng treo thứ gì đó giống như chiếc chuông khổng lồ mà lúc ở trên kia chúng tôi nhìn không rõ lắm, giờ cũng dần dần hiện ra trong tầm mắt.

Ngắm nhìn thật kĩ, tôi thổi cái còi con dơi ra hiệu cho Kirk và Phan Tử ở dưới cùng dừng lại. Nhìn qua ống nhòm ban đêm của A Ninh xuống bên dưới, giữa màu xanh biếc u uẩn bao phủ tầm nhìn, tôi thấy những vật thể treo lơ lửng trên mấy sợi xích thì ra là mấy xác chết treo cổ. Một sợi tơ màu đen giống như sợi tóc kéo dài từ gáy bọn họ ra ngoài, vắt lên lên những sợi xích. Tôi muốn đếm nhưng số lượng xác chết treo trên đám xích bên dưới quá nhiều, gần như không thể đếm nổi.

Theo thông tin trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải, cái loài quái điểu đầu người khi bay chẳng thấy tăm hơi, phải rơi xuống đất mới lòi mặt ra mà chúng tôi gặp lúc trước rất thích treo con mồi lủng lẳng đầu cành để hong gió cho khô làm thức ăn dự trữ. Nơi này có vô số thi thể, lẽ nào bên dưới là sào huyệt của bọn chúng?

Hèn chi mà Muộn Du Bình nói chúng tôi tuyệt đối không được xuống nơi này. Nhưng bây giờ chúng tôi cũng đâu còn đường nào khác để đi, không liều mạng leo xuống một phen chẳng phải là chết chắc sao? Tôi cố đè nén nỗi sợ hãi trong lòng, vẫy tay ra hiệu cho mọi người đề phòng rồi tiếp tục leo xuống.

Đã xuống tận đây rồi, cho dù bên dưới có là địa ngục thì chúng tôi vẫn phải kiên trì đi tiếp.

Chương 50: Sào huyt ca thn gác ca

Những thi thể này đều mặc giáp trụ rách nát tả tơi, một số đã bị gió hong khô thành xác ướp, số khác chỉ còn lại nửa bộ xương khô, có lẽ họ đều là dũng sĩ Nữ Chân năm đó chết trên đường đi thăm dò nơi đây. Có điều vũ khí của họ khi ấy vẫn rất thô sơ, còn bây giờ chúng tôi có cả đống M16 và Cạc-bin 56(*), hỏa lực cực mạnh, nghĩ đến đây tôi cũng an tâm hơn nhiều.

Tiến vào phạm vi những sợi xích treo thi thể, lại leo xuống gần năm mươi mét nữa, lúc này trên dưới trái phải đều là xác chết. Những tròng mắt mục nát trống rỗng cứ ngó đăm đăm khiến người ta không thoải mái chút nào, bầu không khí phút chốc trở nên u ám.

Để phòng ngừa có thứ gì xuất hiện trong góc chết của tầm nhìn, hoặc là để xua đi nỗi sợ hãi ám ảnh này, có vài người đã châm pháo lạnh lên, không gian bừng sáng hơn bao giờ hết.

Lạ một nỗi mọi người chờ mãi vẫn không thấy con quái điểu nào ló mặt ra, tôi cũng không cảm nhận được những xao động khi chúng bay trong không khí, bốn bề đều yên ắng đến lạ thường.

Bàn Tử chỉ vào một thi thể treo lủng lẳng bên cạnh, khẽ hỏi tôi: "Toàn là thi thể từ đời tám hoánh, không có cái nào mới cả, hay chỗ này đã bị bỏ hoang rồi?"

Tôi lắc đầu, ý bảo hắn đừng nói nữa. Khả năng này cũng có, nhưng quái điểu trong này có thể ra ngoài kia săn mồi, chứng tỏ gần đây chắc chắn có lối ra. Hi vọng của chúng tôi đã tăng lên rất nhiều.

Đương nhiên cũng có thể chúng nó chỉ tạm thời đi vắng, giống như đàn dơi mỗi khi kiếm mồi đều bay cả đàn ra ngoài cùng lúc, nếu là như thế thì chúng tôi phải mau mau mà ra khỏi chỗ này. Vì thế tôi lại hô lớn một tiếng, thúc giục mọi người tăng tốc.

Đúng lúc này, Phan Tử và Kirk đi trước bỗng dừng lại, Phan Tử xoay người vẫy vẫy tôi qua chỗ anh.

Tôi bảo những người khác nghỉ ngơi tại chỗ, còn mình thì nhanh chóng leo xuống hơn mười sợi xích, tới gần Kirk xem xét. Thì ra đèn pin công suất lớn của hắn đã chiếu đến đáy khe núi khổng lồ, xem ra kiếp sống Spider Man của chúng tôi đã sắp kết thúc rồi.

Có điều ánh sáng đèn pin phân tán quá mạnh, không thể nhìn rõ bên dưới là thứ gì, Sau khi đi qua nhiều cổ mộ quỷ quái ở Trung Quốc, gã người Đức này rõ ràng đã mất lòng tin vào khả năng phán đoán của bản thân, cho nên mọi việc đều muốn đưa tôi xem qua mới có thể quyết định.

Cái khe trong lòng đất này cực lớn, chiếu đèn pin không thể nhìn rõ được. Tôi chỉ biết bên dưới có thứ gì đó nhưng chính xác là thứ gì lại không tài nào nhìn ra, dùng ống nhòm ban đêm cũng chỉ thấy một cái bóng mơ hồ xanh biếc.

Chúng tôi còn mấy quả pháo sáng, vốn định dè sẻn nhưng gặp tình cảnh này xem ra không thể dè sẻn được rồi. Tôi bảo Bàn Tử nghĩ cách bắn ra một quả pháo sáng, trong hoàn cảnh này hãy cố làm sao kéo dài thời gian chiếu sáng thêm một chút.

Pháo sáng của đám người A Ninh đúng là hiện đại hơn chúng tôi, Bàn Tử rất thạo việc, biết rõ phải dùng thế nào, liền ra dấu "OK" với tôi.

Hắn lấy một cây gậy huỳnh quang, lấy dao cắt ra, phết chất sơn bên trong vào đầu đạn pháo sáng rồi ném quả pháo xuống vực sâu. Chúng tôi chỉ nhìn thấy một chấm huỳnh quang nhỏ rơi xuống như vệt sao băng, chạm vào đáy khe núi, nảy lên hai cái rồi nằm im.

Tiếp theo, Bàn Tử giương súng trường Cạc-bin56, bắn liền ba phát vào đầu đạn bên dưới khiến pháo sáng tức thì cháy lên, cả đáy khe được chiếu sáng bừng.

Đúng là đã tới đáy khe, dưới nền là những tảng đá núi lửa màu đen lởm chởm mấp mô xen lẫn với với xác chết rơi xuống từ phía trên. Lớp xương cốt và chất bài tiết chồng chất không biết bao nhiêu tầng, gần như bao trùm toàn bộ bề mặt khối nham thạch. Mà ở một bên vách đá dưới đáy khe, có hai cánh cửa thanh đồng cực lớn.

Tôi không biết dùng lời nào để tả độ hoành tráng của cánh cửa này. Cửa cao cỡ ba mươi mét, rộng chừng sáu mươi mét, nếu cứ tính theo tiêu chuẩn nhà lầu bây giờ là ba mét một tầng thì cánh cửa này phải cao ngang ngửa một tòa nhà mười tầng.

Thoạt nhìn cánh cửa tựa như được đúc thành một khối nguyên, thứ này tuyệt đối không thể là đồ do người xưa đúc ra, cũng tuyệt đối không dành cho con người, bởi vì cánh cửa này nặng hơn vạn tấn, đặt trên khối nham thạch, con người đâu thể mở nó ra?

A Ninh nói: "Đây nhất định là cánh cửa cực lớn dưới lòng đất trong truyền thuyết Đông Hạ, nơi các đời Vạn Nô vương xuất hiện. Mỗi lần thay vương vị, bọn họ sẽ dùng da người sống để phong bế cánh cửa lại. Anh đoán xem... đằng sau cánh cửa đó là nơi nào?"

Tôi lắc đầu, tâm trí căn bản đang lơ lửng tận đâu đâu. Thầm nghĩ cánh cửa khổng lồ này rốt cuộc là do ai đúc ra? Vạn Nô vương đi ra như thế nào? Chẳng lẽ hắn thực sự là thần, có thần lực mở được cánh cửa nặng hàng vạn tấn? Nghĩ đoạn tôi lẩm bẩm: "Không cần biết bên trong là nơi nào, chúng ta tuyệt đối không thể vào được."

Lần tôi vào núi Tần Lĩnh đã nhìn thấy cây Thanh đồng, cũng mà một vật bằng thanh đồng khổng lồ, cũng chôn sâu trong lòng sơn mạch giống như thế này. Những thần khí Thanh đồng khổng lồ mà con người không thể tạo tác này có mối liên hệ nào với nhau không? Phải chăng trong lòng những dãy núi lớn khác như Côn Lôn, Himalaya cũng có những vật như thế này tồn tại?

Tôi lờ mờ cảm thấy dường như mình đang đến gần một bí ẩn vĩ đại từ thời viễn cổ, một nỗi tự ti mơ hồ cũng bất giác nảy sinh. So với những thứ thần bí cổ xưa này, tôi thấy mình thật nhỏ bé, mà ngay cả hy vọng có ngày hiểu ra chân tướng cũng quá xa vời.

Pháo sáng dần lụi tắt, mặt đất lại chìm vào bóng đêm. Nhưng tôi vẫn cứ đứng ngây ra đó, cho đến khi Phan Tử vỗ vai mình, nói: "Đi xuống thôi." tôi mới hồi phục tinh thần.

Chúng tôi lần lượt leo theo những sợi xích, rất nhanh đã xuống đến đáy khe. Cẩn thận dẫm lên lớp xương nằm dưới chân, đứng trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia, cảm giác mình thật nhỏ bé lại càng trở nên mãnh liệt, tôi quả thực xúc động đến nỗi muốn quỳ xuống luôn.

Những người sống ở thời hiện đại như chúng tôi khi tới nơi đây đều trỗi lên thứ cảm giác này, cũng không khó tưởng tượng những dũng sĩ Đông Hạ năm đó phải chịu vô vàn khổ cực theo Uông Tàng Hải xuống đây đã khiếp sợ đến chừng nào. Chẳng trách bọn họ nhớ mãi không quên những gì đã trải qua bên dưới, cho nên mới liều chết ghi lại hết thảy mọi chuyện để lưu truyền hậu thế. Tôi thậm chí có thể cảm nhận được nỗi thống khổ của Uông Tàng Hải, thấu hiểu nỗi sợ hãi khi trước đó vẫn đinh ninh mình đã hiểu rõ quy luật của vũ trụ, rồi lại đột nhiên phát hiện ra mình chẳng biết chút gì.

Đang thả hồn vào mây gió, Bàn Tử bên cạnh đã cắt đứt mạch suy nghĩ của tôi.

Hắn chiếu đèn pin vào bên trong khe núi. Khe núi này rộng chừng năm sáu trăm mét, trên mặt đất ngổn ngang từng đống đá vụn trông như những hòn núi nhỏ. Bàn Tử đã đi được rất xa, nhìn vào bên trong khe núi chỉ thấy một khối đá cực lớn được đục đẽo thành những cái đài bằng phẳng nối tiếp nhau, nhìn tổng thể giống như một tòa kim tự tháp cỡ nhỏ. Một bên khối đá có cầu thang dài dẫn xuống, mỗi bậc thang đều đặt hai đăng nô nhỏ ở hai bên.

Thứ thu hút Bàn Tử là vật nằm trên đài đá, đó là một quan quách bằng đá trắng to cỡ cái xe con, dưới chân có chín bức thạch điêu bách túc long bao quanh, tạo thành hình hoa sen. Bốn phía còn dựng bốn tượng người bằng đá đen đang quỳ lạy, quay mặt ra bốn phía.

Phía trước quan tài đặt một cái đỉnh lớn để chứa tế phẩm, mặt sau dựng một tòa ảnh bích, không nhìn rõ bên trên điêu khắc những gì. Mấy thứ này nhìn từ trên kia xuống trông như những tảng đá bình thường, khó lòng thấy được rõ ràng, cho nên vừa rồi tôi mới không để ý.

Tôi hít một hơi khí lạnh: "Chẳng lẽ đây chính là... Cửu Long bàn thi quan của Vạn Nô vương, được nhắc đến trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải?"

Bàn Tử hồ hởi: "Chắc chắn là vậy rồi. Ai cũng nói bên dưới quan tài của Vạn Nô vương có chín con thần long canh giữ, cậu xem dưới quan tài này chẳng phải vừa hay có chín con rết đấy thôi. Tôi còn tưởng lão Trần Bì A Tứ đó lòe bịp chúng ta, ai ngờ lại là thật!

Vẫn tưởng rằng Vạn Nô vương chỉ có quan tài giả đặt trong mộ thất dưới địa cung, còn thi thể thật thì đem thiên táng nên tôi đã sớm từ bỏ hi vọng tìm được quan tài thực sự, nào ngờ lại phát hiện ra Cửu Long bàn thi quan ở nơi này. Ai nấy đều kích động, có vài người đã sốt ruột mà chạy tới xem. A Ninh ở đằng kia vội vã gọi bọn họ lại: "Đừng qua đó! Nguy hiểm lắm!"

Những người đang chạy nghe A Ninh nói thế thì lập tức dừng chân. A Ninh hô to: "Các anh không thấy mấy con du diên long bên dưới quan tài hay sao?"

Bàn Tử đốp lại: "Con lạy mẹ, đấy chỉ là thạch điêu thôi, nguy hiểm cái nhồng gì. Mắt mẹ quáng gà rồi hả?"

A Ninh dựng đứng đôi mày thanh mảnh, nói: "Tổ sư nhà anh, có mắt anh mới quáng gà, tôi không nói mấy cái thạch điêu kia. Anh nhìn sang bên cạnh bệ đá đi!"

Bên cạnh bệ đá? Tôi thấy nét mặt A Ninh cực kì nghiêm túc, nhưng tôi nhìn trái ngó phải quanh cái bệ đá mà chẳng nhìn ra cái gì, không biết rốt cuộc cô ta vì sao lại căng thẳng nữa, đành bảo cô ta chỉ cho mình thấy.

A Ninh lấy đèn pin làm thước giáo viên, chỉ xuống phía dưới. Lúc đầu tôi vẫn không phát hiện được gì cả, đang bực mình thì chợt thấy bệ đá trước mặt khẽ động. Lúc này tôi mới nhìn ra trên bệ đá có một con du diên núi lửa bự chảng, dài chừng năm sáu mét đang uốn mình. Do nó quá lớn, hơn nữa lớp vỏ của nó cùng màu với đá núi lửa nên nhìn thoáng qua không thể phát hiện có một vật như thế đang bám bên trên. Đã phát hiện được một con, lập tức nhìn ra con thứ hai, thứ ba, thứ tư... chúng tôi đếm được tổng cộng chín con du diên cỡ bự uốn quanh bệ đá, giống hệt phù điêu, gần như hòa làm một vào nền đá xung quanh.

Cửu Long bàn thi, thật xứng với cái tên Cửu Long bàn thi!

A Ninh nói: "Các anh mà leo lên bệ đá thì còn chưa hiểu mô tê gì đã bị chúng nó cắn đứt đôi người rồi. Du diên núi lửa là loài côn trùng ăn thịt, cực kì nhanh nhẹn và hung ác, vóc người chúng ta lại chính là kiểu mồi mà nó thích nhất."

Tôi đã trải qua rất nhiều chuyện quái đản, nếu mấy con du diên này chỉ dài cỡ một mét thì tôi còn chấp nhận được. Dẫu sao đây cũng là khe nứt ngầm trong lòng núi lửa, môi trường và thành phần không khí khác xa trên mặt đất, vả lại ở những vùng khác trên thế giới cũng từng phát hiện du diên dài cỡ đó. Nhưng loài côn trùng với kích thước vượt xa mức thông thường thế này thì đây là lần đầu tiên tôi được thấy, tụi này đúng là quái vật đột biến do phóng xạ hay gặp trong phim kinh dị Mỹ đây mà.

Một chuyên gia gốc Hoa trong đoàn của A Ninh chợt lẩm bẩm: "Quái lạ, loài du diên bình thường chỉ sống được hai đến ba năm, đáng ra mới dài bằng ngón tay đã chết. Thế mà mấy con kia lại to đùng như vậy, chẳng lẽ đã sống mấy ngàn năm?"

=====

(*) Cạc-bin 56: Vốn là 56式半自動步槍(súng trường bán tự động kiểu 56) do Trung Quốc sản xuất mô phỏng theo khẩu CKC-45 (hay đúng ra là SKS) của Liên Xô. Chính ra tên Tàu phải là 56 thức bộ kỵ thương (56式步騎槍,súng cạc bin kiểu 56) thì mới giống tên gốc của Nga. Trong đây mình gọi là "Cạc-bin56" để phân biệt rạch ròi, không bị nhầm lẫn với khẩu K56 (hay còn gọi là AK Tàu).

Chương 51: Vòng vây trùng đip

Nhìn chín con du diên bự chảng cuộn tròn quanh cái bệ đá trong lòng khe núi, tuy tụi nó không hề cựa quậy nhưng vẫn gây ra cho chúng tôi một áp lực rất lớn, ai nấy đều tái mặt, vừa lùi vừa lôi vũ khí ra.

Chuyên gia gốc Hoa kia nói: "Các anh không cần căng thẳng quá, giờ đang là mùa lạnh, nhiệt độ không khí nơi này rất thấp, du diên vẫn còn ngủ đông, những con sâu khổng lồ này cũng không dễ dàng tỉnh lại đâu."

A Ninh nói: "Không dễ tỉnh tức là vẫn có thể tỉnh, chúng ta đúng là món điểm tâm mùa đông lý tưởng của chúng."

Bàn Tử lại nổi sát tâm, nói: "Cóc cần biết nó thức hay tỉnh, ông đây cứ cho nó mấy viên kẹo đồng vào đầu, dù có lớn gấp mười lần thì cũng ngỏm hết. Sau đó chúng ta sẽ đi xem cái lão Vạn Nô vương muôn kiếp không già bò ra từ trong lòng đất kia là người hay yêu."

Phan Tử xua tay ngăn cản:"Tuyệt đối không thể, anh còn nhớ Thuận Tử từng nói du diên chết đi sẽ đánh thức đồng loại đang ngủ đông của mình không? Cái khe nứt này chạy dài theo dãy núi Trường Bạch, anh cũng thừa hiểu bên trong có bao nhiêu du diên, đến lúc đó lại có mấy con bự hơn bò ra để báo thù cho đồ tử đồ tôn nhà mình thì xong đời."

Tôi giơ ống nhòm ban đêm lên, định nhìn lại cho rõ ràng hơn. Du diên lớn cỡ này không chừng lại là hóa thạch của côn trùng thời cổ đại, tôi quả thực không tin nổi chúng vẫn còn sống. Đưa ống nhòm lên lại thấy những phù điêu nhập nhằng trên ảnh bích đằng sau quan quách hóa ra viết đầy văn tự Nữ Chân. Tôi sửng sốt, trong lòng kích động.

Phù điêu trên ảnh bích chi chít văn tự, mà một đám văn tự tụ tập cùng một chỗ như thế dĩ nhiên phải mang nội dung tự thuật. Trong những kiến trúc do Uông Tàng Hải xây dựng rất ít khi gặp văn tự, mà ở đây lại xuất hiện dày đặc, rất có thể nó chính là tư liệu quý giá nhất trong cổ mộ – mộ chí của chủ nhân.

Tôi vội gọi gã thuộc hạ nhỏ con biết đọc văn tự Nữ Chân của A Ninh, đưa ống nhòm cho gã, bảo gã đọc giùm tôi trên kia viết cái gì.

Gã nhỏ con kia vừa nhìn qua, nét mặt đã trở nên mê man. Gã nói tuy những chữ này thoạt nhìn rất giống văn tự Nữ Chân nhưng lại không phải chữ Nữ Chân, mà là một loại văn tự khác cùng ngữ hệ, nhất thời gã cũng không hiểu nó viết gì.

Tôi thoáng nhụt chí, chửi thầm trong lòng, cái gã Vạn Nô vương này cũng quá gian manh, không để cho người ta chút sơ hở nào.

Chẳng trách một người tâm tư thâm trầm như Uông Tàng Hải đã ở đây đến hai mươi năm, trực tiếp tham gia tu tạo hoàng lăng cổ, vậy mà cũng không thể tìm ra mấu chốt cái bí mật mà vương triều Vạn Nô đời đời che giấu. Vạn Nô vương kia đã bố trí cho mình một chướng ngại không thể vượt qua, vậy thì những kẻ chỉ biết hành động dựa trên suy đoán như chúng tôi lại càng khỏi cần bàn đến.

Chỉ tiếc Hoa hòa thượng không có ở đây. Gã làm nghề này đã nhiều năm, có thói quen suy nghĩ thấu đáo hơn người khác, nếu gã ở đây không chừng có thể đoán được sơ sơ nội dung. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì thấy cũng không hẳn, nếu có Hoa hòa thượng ở đây, tình hình sẽ trở nên phức tạp vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi mất.

Những ý niệm liên tiếp nảy sinh trong đầu, rốt cuộc tôi cũng chẳng hiểu mình đang nghĩ đi đằng nào nữa. Chợt tôi nghe tiếng gọi của Phan Tử: "Bàn Tử? Anh không sao chứ? Có cần đổi người không?"

Tôi rất ghét nghe Phan Tử gọi tên Bàn Tử, nghe thế thì giật mình, ngẩng đầu lên xem thì thấy Bàn Tử và cái tên Kirk kia đã leo lên một sợi xích, cẩn thận bò lên phía trên bệ đá chứa quan quách. Thắt lưng Bàn Tử buộc một sợi dây thừng, đại khái trông giống Tom Cruise, đang treo người lủng lẳng vào một sợi xích, nhẹ nhàng leo tới phía trên quan quách. Vậy mà những người khác không những không ngăn cản, ngược lại còn đứng dưới chỉ trỏ Bàn Tử.

Tôi hỏi A Ninh có chuyện gì vậy, mấy người kia chuẩn bị xem tiết mục Cửu long hí Bàn châu sao?

(Cửu long hí bàn châu: chín con rồng đùa giỡn viên ngọc mập aka 9 con du diên bên dưới chơi đùa với Bàn Tử =))

A Ninh đáp: "Anh đừng lo, dùng cách này sẽ không quấy rầy đến đám du diên ngủ đông, hơn nữa vừa rồi tôi phát hiện ra đuôi của mấy con du diên này đều bị sợi xích thanh đồng khóa vào cái cọc bên dưới bệ đá, nghĩa là phạm vi hoạt động của chúng có hạn, chỉ những kẻ đến gần chúng mới gặp nguy hiểm. Ai đã đến nơi này đều muốn xem bên trong quan quách của Vạn Nô vương có gì, tìm thấy quan quách rồi lại không được xem thì ai mà chịu nổi."

Tôi nói cho dù Bàn Tử có thể đu xuống thì cũng không thể mở được nắp quan quách đá lớn bằng chừng kia, cô chỉ muốn cho hắn bẽ mặt thôi chứ gì. A Ninh đáp: "Anh ta không cần mở nắp quan quách, mà chỉ cần dùng khải quan câu móc vào khe hở trên quan quách. Chúng tôi đã vắt một cái ròng rọc lên sợi xích thanh đồng phía trên, sau đó sẽ đứng đây kéo nắp quan quách ra."

Trong lòng tôi có phần khó chịu. Cô ả A Ninh này vẫn cố thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm vật gì đó trong quan tài mà công ty giao phó, cho dù đã đến nước này cô ta vẫn không chịu buông tay. Tuy tôi không biết cô ta muốn tìm vật gì, nhưng vẫn cảm thấy không có lí do nào đủ sức khiến người ta coi một món đồ quan trọng hơn cả tính mạng mình. Vả lại những sợi xích thanh đồng phía trên quan sàng hình như dày hơn bình thường, khi thiết kế Uông Tàng Hải không thể không nghĩ ra trò mèo này của dân trộm mộ, hẳn phải có lý do khác thường khiến ông ta cho rằng phía trên không cần phòng bị. Tên Bàn Tử ngu ngốc kia đòi làm tiên phong hẳn là vì đinh ninh người đầu tiên khai quan sẽ kiếm được món hời, tôi phải ngăn hắn lại mới được.

Tôi vừa mới ra hiệu cho Bàn Tử thì đã có biến cố xảy ra. Kirk đang leo phía trên Bàn Tử đột ngột tuột khỏi dây xích, nháy mắt đã đâm sầm xuống quan sàng, phát ra một âm thanh trầm đục, đầu chúc xuống dưới, vỡ toác ra.

Không ai biết Kirk đã xảy ra chuyện gì. Bàn Tử đang điều chỉnh lại tư thế nhảy, thấy Kirk nhảy còn nhanh hơn mình thì ngây ra không hiểu gì cả. Kế đó hắn cũng đột ngột bay thẳng lên, khoa chân múa tay xoay xoay mấy vòng trên không trung một hồi rồi rơi tự do xuống. May mà thắt lưng hắn còn buộc dây thừng, đúng vào lúc đầu hắn sắp đụng quan quách thì dây thừng khựng lại, bên dưới chính là thi thể của Kirk.

Tôi sợ đến suýt ngất xỉu, cảnh tượng này thực sự vô cùng quỷ dị, chẳng lẽ trên sợi xích kia có thứ gì đẩy bọn họ rơi xuống?

Nghĩ đến đây, tôi vội vàng quay sang Phan Tử đang đứng ngây ra như phỗng, kêu to: "Pháo sáng! Mọi người mau đốt pháo!"

Mọi người lập tức phản ứng, chẳng ai còn hơi sức đâu mà để ý đến Bàn Tử nữa. Phan Tử bắn một quả pháo sáng, bùng nổ giữa không trung, thoáng cái chúng tôi đã trông thấy vô vàn cái bóng bay lượn trên đỉnh đầu, vài con đã treo người lên những sợi xích, đưa đôi mắt tò mò nhìn mấy kẻ kì quặc đang xâm nhập vào sào huyệt của mình.

Hóa ra là loài quái điểu này không biết đã quay về từ lúc nào mà không phát ra một tiếng động. Tôi thậm chí còn thấy trong đàn quái điểu bay lượn giữa không trung, có mấy con còn quắp thứ gì đó, hiển nhiên chúng đã tóm được mồi. Tôi giơ tay ra hiệu cho đám người mang vũ khí kia tuyệt đối không được nổ súng.

Loài quái điểu này giống như mù dở, dưới ánh sáng lóa mắt căn bản không nhìn thấy chúng tôi, nhưng đối với âm thanh lại vô cùng nhạy cảm. Trước kia một phát súng nã trong môn điện của chúng tôi đã dẫn đường cho hàng đống hàng đàn quái điểu từ bốn phương tám hướng bay tới. Hiển nhiên là sống trong miệng núi lửa ngầm quanh năm không thấy ánh mặt trời, loài sinh vật này này đã sớm thích nghi với cuộc sống trong bóng đêm.

Tôi đã bảo không được nổ súng, vậy mà vẫn có người không thèm nghe, hơn nữa không chỉ một tiếng mà là một tràng liên tiếp. Tiếng súng trong đáy khe trống trải lại càng thêm vang dội, vang đến tận mây xanh. Không trung tức khắc trở nên hỗn loạn, vô số cái bóng đang bay lượn bắt đầu đâm thẳng xuống dưới.

Tôi trợn mắt, quay đầu lại xem tên khốn kiếp nào đã kháng mệnh, lại thấy Bàn Tử treo phía trên bệ đá đang tìm cách bò lên dây thừng, trên tay cầm khẩu M16 của Kirk, lúc này hắn đang bắn xối xả xuống quan tài bên dưới.

Nhìn kỹ hơn, tôi phát hiện trong quan quách cực lớn của Vạn Nô vương không biết từ khi nào đã hé ra một khe hở. Ba 'cánh tay' xanh xanh tím tím, chú ý, là ba cái, chui từ trong quan tài ra, những 'móng tay' dài lạ thường quơ quào giữa không trung, muốn tóm lấy Bàn Tử bên trên.   


Chương 52: Quan Âm nghìn tay

Pháo sáng vụt tắt giữa không trung, màn đêm nhanh chóng đổ ụp lên khung cảnh. Phan Tử lập tức đốt thêm một quả pháo sáng nữa rồi ném lên cao, một luồng sáng tức thì cháy bùng lên. Tiếp đó mọi người đứng dưới đất đồng loạt nổ súng, hơn mười tia lửa xẹt thẳng vào không trung, chẳng mấy chốc, trong những cái bóng đang bay lượn trên đỉnh thiên cung đã có mấy con trúng đạn, rớt bịch xuống đất.

Ánh sáng mạnh có thể khiến mấy con vật này sinh ra ảo giác tạm thời, giống như khi bạn đứng trước mặt một con gấu chó, làm động tác và giả tiếng kêu của vịt thì con gấu chó đó sẽ không phân biệt nổi rốt cuộc bạn là người hay là vịt trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng hiệu ứng này chỉ là tạm thời, mà nếu tôi nhớ không lầm thì đây chính là quả pháo sáng cuối cùng của chúng tôi.

Nơi này có vô số quái điểu, chỉ lát nữa thôi, khi quả pháo sáng kia tắt, chúng tôi sẽ bị xé xác không thương tiếc trong bóng tối đen kịt.

Bọn quái điểu càng ngày càng sà xuống thấp, thậm chí có con đã bay sượt qua cả đỉnh đầu. Chúng tôi vốn không đủ đạn dược để bắn trả với cường độ dữ dội như thế, chẳng mấy chốc, mấy khẩu súng đều hết sạch đạn. Bàn Tử đang lâm vào tình thế vô cùng nguy cấp, giờ nếu không ai đi cứu hắn, đảm bảo dù hắn có lớn mạng cỡ nào cũng phải tiêu đời.

Đang lúc tiến thoái lưỡng nan, chẳng biết phải làm gì, bỗng Bàn Tử bắn một phát trúng ngay dưới chân tôi, khiến tôi giật bắn người. Tôi ngẩng đầu nhìn khẩu hình của hắn, liền hiểu ý của hắn muốn bảo chúng tôi rằng, mau chạy!

Tôi nhanh chóng quyết định, bèn quay sang nói với Phan Tử: "Anh dẫn chú Ba và những người khác chạy về đầu kia của khe núi. Chỗ này là sào huyệt của bọn quái điểu, chúng nó nhất định sẽ bay xuôi theo cái khe này ra ngoài kiếm ăn. Anh xem chúng nó bay theo hướng nào thì mình chạy theo hướng đó, cứ chạy cật lực, đừng lo cho tôi, tôi đi cứu Bàn Tử!"

Phan Tử kéo tôi lại, nói: "Cậu có chịu được không, chi bằng cứ để tôi đi cứu Bàn Tử, cậu đưa ông Ba đi đi!"

Tôi đáp: "Tôi vác không nổi lão già kia!" Nói đoạn liền vung tay lên cho anh xem vết thương của mình, "Ông đây thân có máu quý, chắc chắn không sao!"

Phan Tử thấy vết thương của tôi thì cũng có phần an tâm, gật đầu, nói: "Cẩn thận, chúng tôi chờ cậu ở bên ngoài!". Nói đoạn, anh cõng lão chú Ba đã không thể nhúc nhích nổi kia lên lưng, quay sang những người còn lại hét to: "Chạy theo tôi!" rồi mau chóng chạy về một đầu của cái khe.

Tôi đỡ lấy khẩu súng Phan Tử quăng cho, "cạch" một phát mở hộp đạn kiểm tra, còn ba viên, mẹ nó vãi cả hào phóng luôn. Những người khác chạy như điên qua chỗ tôi đứng, lớn tiếng bảo tôi mau đuổi theo, tôi đều bỏ ngoài tai cả. Bấy giờ tôi thấy A Ninh cũng đứng khựng tại một chỗ, mặt tái đi, không hề nhúc nhích.

Tôi đi tới vỗ vai cô ả một cái, kêu cô ả mau chạy. Cô ả liền hất tay tôi ra, "cạch" một tiếng lên đạn, chả hiểu lại định làm trò gì.

Tôi biết, cái ngữ này có khuyên bảo cũng vô dụng, bèn không để ý tới cô ta nữa, cầm súng chạy lên đài đá.

Hên cái là trong tình cảnh hỗn loạn này, mấy con du diên khổng lồ đang ngủ đông quanh bệ quan tài vẫn không thức giấc. Hoặc có lẽ, do chìm vào giấc ngủ say trải dài suốt nhiều năm tháng, những con trùng khổng lồ này đã chết từ lâu.

Lúc này tôi cũng chẳng hơi đâu mà nghĩ nhiều, bèn kêu to: "Bàn Tử! Quăng đây mấy viên đạn Carbine 56 (*) cái! Để tôi yểm trợ cho anh!"

(*) Carbine 56: Nguyên văn là 五六式半自动步枪 (súng trườngbán tự động56), là loại súng do Trung Quốc nhái lại từ khẩu SKS bán tự động của Liên Xô, vì thế hình dáng bên ngoài tương đối giống nhau, cách sử dụng cũng tương tự. Trong những chương trước mình vẫn để là K56, gần đây mới phát hiện ra K56 là loại súng khác, cũng của Trung Quốc nhưng mô phỏng theo AK47, để tránh nhầm lẫn từ giờ sẽ đổi hết lại là Carbine 56.

Súng của Bàn Tử là loại Carbine 56 nên trên người cũng giắt toàn đạn 56. Khi leo lên, cần giảm trọng, cho nên mới không mang theo súng, giờ đành phải dùng khẩu M16 của Kirk. Nhưng M16 đạn không còn nhiều, nếu xài hết mà hắn vẫn còn ở trên đó thì xong đời, phải xuống đến mặt đất thì may ra mới có đường sống.

Bàn Tử nghe tiếng tôi gọi, lập tức một tay giữ súng, một tay tháo mấy băng đạn ném cho tôi. Tôi bắt được một băng, còn mấy băng khác thì khỏi cần, nhanh chóng thay đạn rồi giương súng lên bắn. Dưới sự yểm trợ của tôi, Bàn Tử điên cuồng leo xuống theo sợi xích, leo đến nơi hắn đã trèo lên lúc trước rồi trượt xuống nhanh như chớp, ngoắc tôi ra ý mau chạy.

Tôi quay đầu tìm A Ninh thì không thấy người đâu nữa, chẳng biết đã chạy thoát hay bị bọn quái điểu quắp đi mất rồi, lòng thầm than tuyệt sắc giai nhân hà tất phải cố chấp như vậy. Lại ngó lên bệ quan tài, chỉ thấy nắp quan tài đã bị gạt sang một bên, một cái xác đàn ông đen sì bật dậy, đứng thẳng lên, mặc trên người bộ giáp trụ của tộc Nữ Chân đã mục rữa, bợt màu. Điều khiến tôi thất kinh chính là, cái xác đàn ông ấy thế mà lại xòe ra những mười hai cánh tay, xếp thành vòng tròn phía sau lưng, hơn thế nữa, mười hai cánh tay ấy đều đang vặn vẹo múa may, trông như phật Quan Âm nghìn tay thường thấy trong miếu thờ vậy.

Tôi lập tức nhớ đến thi thể có mười hai cánh tay bị hóa sáp trong ngôi mộ dưới đáy biển, liền không khỏi kinh ngạc, lẽ nào hoàng tộc Đông Hạ không phải người? Phải chăng cái xác đàn ông mười hai cánh tay này chính là Vạn Nô vương?

Bàn Tử vừa bắn tỉa, đẩy lùi lũ quái điểu đang bổ nhào xuống, vừa chạy đến kéo tôi, gào lớn: "Cậu còn đứng ngây ra đó làm gì?"

Tôi không đáp lại câu hỏi của Bàn Tử, chỉ nói: "Anh xem... Thằng cha kia muốn làm gì?"

Chỉ thấy cái xác Quan Âm kia đang múa máy mười hai cánh tay, không thèm đếm xỉa gì đến tôi, chỉ chăm chăm nhảy xuống đài đá, đi thẳng về phía cánh cửa Thanh đồng khổng lồ.

Bàn Tử kinh ngạc nói: "Không lẽ nó muốn chui vào cánh cửa kia?"

Bất chợt, tôi nhớ đến câu cuối cùng trong long ngư mật văn của Uông Tàng Hải: Nếu mở cánh cửa khổng lồ trong lòng đất không đúng lúc, ắt sẽ bị trời phạt, nghiệp hỏa dưới địa ngục sẽ tuôn trào qua cánh cửa đó mà thiêu đốt cả bầu trời.

Lúc ấy chúng tôi đã cho rằng tai họa được nhắc đến trong lời tiên tri này là phán đoán của Uông Tàng Hải sau khi ông ta tiến vào cánh cửa khổng lồ kia và nhìn thấy tình hình bên trong ngọn núi lửa. Tuy nhiên, cũng có khả năng người thiết kế nên cánh cửa Thanh đồng này, vì để đề phòng bí mật bên trong bị phát hiện, nên đã bố trí một cạm bẫy gì đó có uy lực vô cùng khủng khiếp.

Bấy giờ, chúng tôi đang đứng ngay trước cánh cửa Thanh đồng khổng lồ, nếu như có bất kỳ cơ quan cạm bẫy nào, chúng tôi chắc chắn sẽ hứng đủ, trở thành những vật hi sinh đầu tiên. Cho nên, kệ xác lời tiên tri đó là thật hay giả, chúng tôi nhất định phải ngăn cản con bánh tông dị tật này mới được.

Tôi đuổi theo cái xác Quan Âm nghìn tay, bắn liên tục mấy phát đạn, nhưng đạn găm vào cái xác cứ như bắn vào cao su, không xuyên thủng cũng không phát nổ, cứ như muối bỏ bể, mà điên nhất là nó chẳng thèm phản ứng lại chúng tôi mới cay. Tôi quay ra gọi Bàn Tử: "Thuốc nổ!"

Bấy giờ Bàn Tử mới nhớ ra trên lưng mình còn mấy cái ngòi nổ chuẩn bị sẵn để uy hiếp đám A Ninh, bèn lao lên phía trước, nhảy phắt lên lưng cái xác Quan Âm nghìn tay, nhét mìn vào mồm cái xác như nhét móng lừa đen rồi lại nhảy phắt xuống.

Tôi nheo mắt giơ súng lia một tràng, chẳng biết viên đạn nào đã bắn trúng kíp mìn, nổ đùng đùng, từ đầu đến vai cái xác Quan Âm nghìn tay bị phá be bét. Chúng tôi bị sóng xung kích hất văng xuống mặt đất, những mảnh vụn và luồng khí áp cao quật thẳng vào mặt, lồng ngực tưng tức, hai tai ù cả đi.

Lũ quái điểu lượn lờ bên trên bị luồng sóng âm mãnh liệt kích thích, nháy mắt đã trở nên điên cuồng. Tôi vội vã đứng lên, thấy cái xác Quan Âm nghìn tay đã té nhào trên mặt đất thì không khỏi mừng rỡ, quả nhiên thuốc nổ là vô địch.

Không ngờ Bàn Tử lại tỏ ra vô cùng hoảng hốt, gọi tôi thật to. Nhưng tôi chẳng nghe ra câu gì cả, chỉ thấy cái miệng hắn cứ mấp máy liên tục, mất một lúc lâu tôi mới nghe thủng, thì ra câu đó là: "Chạy mau!! Pháo sáng sắp tắt rồi!"

Nhưng còn chưa kịp chạy, ánh sáng trên đỉnh đầu bỗng dưng vụt tắt chỉ trong vài giây đồng hồ. Bóng tối đặc quánh như sương mù nhanh chóng bao phủ khắp không gian, nguồn sáng duy nhất còn sót lại là chiếc đèn pin trong tay chúng tôi.

Trong phút chốc bốn bề rơi vào tĩnh lặng, đến cả tiếng súng của những người đang trốn vào sâu trong đáy khe kia cũng im bặt tự bao giờ, chỉ còn lại tiếng thở dốc và tiếng tim đập thình thịch như sấm rền của chúng tôi.

Tôi với Bàn Tử đứng lưng tựa lưng. Tôi vừa cởi băng vải trên tay ra, để lộ vết thương vẫn còn chảy máu đầm đìa, vừa thầm cầu khấn cho máu tôi có tác dụng với bọn này. Chẳng phải cái lão giáo sư kia đã nói rồi sao, máu kỳ lân có tác dụng đối với bất kì loài vật ăn xác chết nào, cơ mà tôi cũng không biết bọn quái điểu này ăn cái gì nữa. Bàn Tử giương súng, lên đạn "cạch" một tiếng rồi nhìn giời, hỏi tôi, thế giờ tính sao. Tôi đáp, ông hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai đây.

Lời còn chưa dứt, đột nhiên một con quái điểu hạ cánh lao vút xuống, đậu ngay trước mặt chúng tôi, cách chừng mười mét. Con quái điểu này to vật vã, đứng thẳng lên còn cao hơn đầu tôi. Sau khi hạ cánh, con chim xấu xí lúc lắc đầu mấy cái rồi nhìn chúng tôi chằm chặp, tựa như đang thăm dò hai người bọn tôi vậy. Tôi loáng thoáng thấy mấy cái răng trong mồm nó sáng lòe lòe, liền giơ tay lên, trưng vết thương ra trước mặt nó. Nhưng con quái điểu kia chẳng thèm đếm xỉa đến tôi, ngược lại vẫn lạnh lùng đứng nguyên tại chỗ.

Kế đó lại có hai con quái điểu sà xuống, một đứng bên trái, một đứng sau lưng chúng tôi. Tôi huơ huơ vết thương loạn xạ trước mặt chúng, chẳng biết tụi nó có ý đồ gì. *khổ thân bạn Tà, âm mưu rạch tay ăn vạ đã thất bại thảm hại =)))*

Dần dà bọn quái điểu đáp xuống ngày một nhiều, con nọ nối đuôi con kia, chẳng mấy chốc xung quanh chúng tôi đã lố nhố cả đống chim chóc, có điều mấy con chim này lại chẳng cựa quậy gì, cứ đứng dàn quân đông nghìn nghịt. Tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, mấy con chim này hình như không coi máu tôi ra cái đinh gì hết, nhưng cũng không tấn công ngay, hình như chúng có âm mưu gì đó.

Chương 53: Bao vây và tn công

Vô số con quái điểu mặt người nom như tượng điêu khắc vây quanh chúng tôi, lẳng lặng hạ cánh rồi cũng đứng im tại chỗ không hề phát ra tiếng động. Tôi tự dưng nhớ đến mấy cái tượng quỷ bằng đá trong phim kinh dị nước ngoài, loại yêu quái này, ban ngày làm tượng đá, ban đêm hóa thành động vật, không lẽ nguyên mẫu chính là từ lũ chim này sao? Hơn nữa, nhìn vào ánh mắt bọn chim này thì hình như chúng cũng có trí khôn, chúng bao vây bọn tôi lại, phải chăng là vì mục đích quái quỷ nào đó?

Linh cảm của tôi chẳng mấy chốc đã ứng nghiệm. Một con quái điểu bỗng dưng bay vọt qua đầu chúng tôi, rồi thả một vật gì đó rơi bịch xuống đất ngay trước mắt cả hai, máu tươi văng tung tóe. Tôi nhìn kĩ, không ngờ đó chính là Diệp Thành, cổ hắn ta bị cắn đứt, đang ho khan khùng khục không ngừng, nhưng đồng tử đã giãn, hết cứu.

Kế tiếp lại thêm một cái xác nữa bị ném xuống. Chẳng biết là ai, xác không có đầu, toàn thân đẫm máu.

Sau khi tách khỏi chúng tôi, Trần Bì A Tứ chạy thẳng vào hoàng lăng, hiển nhiên bọn họ cũng bị lũ quái điểu này tập kích. Chắc hẳn Diệp Thành đã bị bọn chim khổng lồ này bắt được khi ở trung tâm hoàng lăng. Không có ám hiệu của chú Ba dẫn đường, những người này cứ thế rơi vào kết cục thê thảm như vậy, đến mức tôi cũng không tài nào tưởng tượng nổi.

Tôi tưởng rằng Trần Bì A Tứ cũng chẳng thể may mắn thoát khỏi số kiếp, nhưng mấy cái xác bị ném xuống sau đó đều là cấp dưới của A Ninh. Có thể thấy vừa rồi không phải ai cũng chạy thoát được hết, may mà không thấy thi thể nào là của chú Ba hay Phan Tử, tôi cũng an tâm hơn một chút.

Bàn Tử bấy giờ mới biết sợ, liền hỏi tôi: "Mấy con chim đó muốn bắt sống chúng ta làm gì vậy trời?"

Tôi đáp: "Hình như là muốn gom con mồi vào một chỗ, tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực này, cũng chẳng rõ nữa. Anh còn thuốc nổ không? Có khi tụi mình phải học tập tấm gương đồng chí Đổng Tồn Thụy rồi."

Bàn Tử lắc đầu: "Đã đem nổ banh xác Vạn Nô vương cả rồi, cậu đâu có dặn phải để lại một ít dự phòng."

Tôi nghĩ bụng, phiền phức to rồi đây, tôi tính ngược tính xuôi cũng không tính ra được Ngô Tà này lại chết như thế. Bốn phía cơ man là chim, một cái khe mà lách cũng chả có, cơ hội đào tẩu cũng không, chẳng lẽ thật sự phải chết ở đây rồi dăm ba bữa nữa biến thành mấy bãi phân chim nhoen nhoét sao?

Lòng đang nóng như lửa đốt, Bàn Tử chợt kéo tôi lùi về phía sau: "Hai mặt giáp địch thế này rất bất lợi, ở đây có cái khe đá, chúng ta trốn vào đó, mỗi người chặn một đầu, có chết cũng không thể để mấy con chim khốn kiếp này đắc lợi."

Tôi quay đầu nhìn lại, thì ra giữa hai khối đá núi khổng lồ dưới đáy cốc có một cái khe hở đủ rộng cho một người chui lọt, hai bên đều thông. Chui vào đó thì cử động hơi bất tiện, nhưng lại là nơi lý tưởng để phòng thủ.

Chết ngay tức khắc hay chống cự một hồi rồi mới chết, cái sau đương nhiên có lợi hơn. Chúng tôi lập tức tháo băng đạn trên người mấy cái xác ra, rồi lẩn nhanh như trạch vào khe đá. Không gian bên trong rất hẹp, tôi còn có thể cựa quậy chút xíu chứ Bàn Tử có vẻ rất miễn cưỡng, xem ra mấy con chim đó muốn vào cũng không nổi.

Bàn Tử từng trải qua vài bận tính mệnh như chỉ mành treo chuông, nên lúc này bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Hắn vừa chui vào khe hở đã mau chóng chất mấy tảng đá chặn ở cửa vào để che chắn, rồi quay ra nói với tôi: "Chúng chỉ có thể vào từng con một, cứ giết vài con là đám còn lại cũng phải chờn, chúng ta có thể cầm cự được lâu lâu một chút."

Tôi thầm cười khổ, đạn chúng tôi chẳng còn nhiều, vả lại, cũng không có thời gian để thay, nếu dùng hết số đạn trong băng thì coi như tiêu. Chẳng qua giờ còn chưa đến lúc ngắc ngoải, cho nên vẫn còn trông chờ một tia may mắn.

Đang miên man suy nghĩ, bỗng tôi nghe thấy đám chim bên ngoài rít lên ầm ĩ.

TNhìn qua khe hở, tôi thấy con quái điểu đứng đầu đột nhiên há to miệng, lộ ra cái mồm lởm chởm răng nanh. Sau đó, từ trong khoang miệng, bỗng nôn ra một sinh vật trông giống như loài khỉ Macaca. Sinh vật này vô cùng nhanh nhẹn, thoắt cái đã nhảy xuống mặt đất, trước tiên, nó cẩn thận thăm dò xung quanh một vòng, sau đó lao vào đống xác chết bắt đầu cắn xé. Tôi nhìn kỹ, phát hiện con khỉ này không có da, toàn thân đều là máu, trông cứ như một bộ phận trên cơ thể con quái điểu kia vậy.

Kế đến, những con quái điểu khác cũng bắt đầu nôn thốc ra cái thứ sinh vật này. Vô số con "khỉ trong miệng" chồm ra từ đám chim, lao vào đống xác chết, dường như không phân chi giai cấp gì hết, cứ thế mà xâu xé, cắn nuốt. Trong khoảnh khắc, máu và thịt vụn tung tóe khắp nơi, trong lúc tranh giành thức ăn thỉnh thoảng chúng còn xảy ra tranh chấp.

Tôi với Bàn Tử mặt nhăn mày nhó, mấy lần suýt mửa ra đầy đất, cứ tưởng tượng lát nữa hai đứa cũng rơi vào kết cục này là chịu không nổi.

Đám "khỉ trong miệng" đông như kiến cỏ, chẳng mấy chốc, đống xác chết đã bị ăn sống nuốt tươi cho bằng sạch, trong không khí phảng phất mùi máu tanh nồng đến không thể chịu nổi. Bàn Tử hai mắt đỏ ngầu, biết là sau đó sẽ đến lượt hai đứa chúng tôi lên thớt, bèn làm một hớp rượu đế, nói: "Mẹ kiếp, muốn ăn thịt Bàn gia ta à, còn phải xem răng chúng mày đủ sắc không đã."

Tôi bất giác run rẩy, bèn lấy luôn bầu rượu của hắn, tu ừng ực một lèo hết quá nửa, tức thì cổ họng nóng rẫy như có lửa thiêu. Rượu đúng là thứ tốt, đàn ông có rượu vào cảm giác khác hẳn lúc bình thường.


Lũ "khỉ trong miệng" bên ngoài vẫn còn lùng sục trong đống xương, đột nhiên, có một con phát hiện ra chúng tôi trong khe đá. Nó rít lên một tiếng chói tai quái đản, tức thì mấy con "khỉ" khác cũng hiếu kỳ bu lại, thi nhau thò đầu vào ngó bọn tôi.

Lúc này tôi mới nhìn rõ, hóa ra bọn "khỉ" này không có môi, thảo nào hàm răng lại sắc bén, dữ tợn lạ thường như vậy. Quái đản nhất là, trên cổ đám "khỉ trong miệng" này, con nào con nấy đều đeo một cái chuông đồng lục giác, có cái vẫn nguyên vẹn, có cái chỉ còn một nửa. Những cái chuông này lúc lắc theo từng hành động của lũ "khỉ", nhưng lại không hề phát ra bất cứ tiếng động nào.

Lúc ấy tôi sợ hết hồn, còn tâm trí đâu mà đi suy xét mấy thứ đó có ý nghĩa gì. Tuy nhiên sau này nhớ lại, mấy cái chuông thanh đồng hiển nhiên có liên quan mật thiết đến toàn bộ bí ẩn, nhưng hình như chúng lại không thuộc cùng một nền văn hóa.

Lũ "khỉ trong miệng" mới đầu còn rất dè dặt, xúm lại quanh cửa vào khe đá thật lâu. Bàn Tử và tôi không ai dám thở mạnh, chỉ ghìm súng chờ chúng xông vào. Một lúc sau, có mấy con hình như không kìm được nữa, đột ngột leo ngược lên đỉnh khe đá, treo mình lơ lửng, thoắt cái đã chui vào trong khe, bổ nhào về phía Bàn Tử với vẻ thăm dò.

Bàn Tử không kịp đề phòng, đến khi đầu con khỉ kia gần như dán vào nòng súng hắn mới bóp cò. Viên đạn bay ngang, đồng thời xác con khỉ cũng bắn ra ngoài, văng vào giữa đống thi thể. Tiếp đó hắn nã súng xối xả, đường đạn quét ngang, đám khỉ kinh hoảng rú rít điên cuồng, có mấy con bị bắn cho máu thịt bầy nhầy.

Tức thì cả đàn khỉ đều ngó đăm đăm vào hai đứa chúng tôi, tình hình bắt đầu mất kiểm soát. Con "khỉ trong miệng" đầu đàn rít lên một tiếng xé tai, cả đàn bắt đầu thi nhau bổ nhào vào khe đá. Tôi nuốt nước miếng đánh ực một cái, biết rằng, cơn ác mộng sắp tới rồi.

Không đợi tôi cầu thần vái phật, mấy con khỉ đã lao vào trong khe nhanh như chớp, treo mình trên đỉnh khe mà ngoạc cái mồm to tướng về phía tôi. Khẩu Carbine 56 quá dài, không dùng báng súng đánh được, tôi đành nhảy lên tung cước đạp nó ra ngoài, sau lại dùng súng bắn chết một con khác bằng hai phát đạn. Máu văng tung tóe, bắn vào cả mặt tôi. Lại một con nữa điên cuồng vọt tới, tôi chẳng kịp chuẩn bị tâm lý để mà bắn từng phát đạn một, bèn cứ thế cầm súng mà rải đạn ầm ầm.

Trong suốt năm, sáu phút ấy, tôi cũng không còn biết mình đang làm gì nữa, chỉ thấy từng con khỉ dữ tợn nhảy vọt vào rồi bị tôi bắn văng ra, nơi nơi toàn là máu tươi tung tóe. Bọn khỉ cứ như phát điên phát rồ, chẳng hề sợ hãi, thỉnh thoảng còn có mấy con chen chúc nhau chui vào khe, thế là kẹt cứng lại, cuối cùng bị tôi dốc sức đá văng ra ngoài. Thế nhưng, bọn khỉ ùa vào càng ngày càng nhiều như nước triều ùn ùn mà dâng. Đạn lia qua một đường, tức thì cứa đứt đôi cơ thể, nhưng chỉ cần phần còn lại cử động được thì nó vẫn đâm đầu vào trong khe, quả là vô cùng hung hãn!

Chẳng mấy chốc mà hết đạn. Tôi vốn tưởng rằng, với số đạn này thì kiên trì cầm cự trong một tiếng đồng hồ là chuyện đơn giản, ai ngờ vào thực chiến rồi anh sẽ không thể kiểm soát nổi lượng đạn tiêu hao. Tôi còn rất nhiều băng đạn dự trữ, nhưng nếu bọn khỉ này cứ không ngừng tấn công thì chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà thay đạn.

Khẩu M16 của Bàn Tử hết đạn đầu tiên. Hắn đã bắn giết đến đỏ hai mắt rồi, bèn chửi bậy một tiếng rồi vứt súng đi, rút thanh mã tấu tính nhảy ra ngoài oánh giáp lá cà một mẻ. Thế nhưng, địch không cho hắn cơ hội này, trong nháy mắt, năm, sáu con khỉ đã nhảy chồm lên người hắn, há mồm ra cạp. Bàn Tử đau đớn gào tướng lên, tóm lấy hai con quật chết tươi, nhưng lại bị bốn con khác bổ nhào vào mặt.

Ngay sau đó, khẩu Carbine 56 của tôi cũng hết đạn, tay bóp cò nghe "cạch cạch" "rắc rắc" vài tiếng. Cả người chợt lạnh toát, kế đến, trong chớp mắt, vài luồng ánh sáng đỏ tươi xẹt đến trước mặt tôi, tôi không kịp rút dao, bả vai và đùi trong lập tức dính chưởng. Tôi vô thức giơ cánh tay bị thương lên dọa nó, thế nhưng chẳng có chút xíu tác dụng nào cả. Trong lúc giãy dụa vật lộn, đầu tôi chỉ còn lại một suy nghĩ duy nhất: Ngô Tà tôi đây và Vương Bàn Tử, chỉ e hôm nay không thể thoát ra khỏi cái hang trong lòng núi Trường Bạch này được nữa. Cao số như chúng tôi, không ngờ cũng có ngày phải bỏ mạng.

Chương 54: Khong cách gia tri và đt

Vô số con "khỉ trong miệng" lao bổ vào người tôi mà cắn xé điên cuồng. Tôi giãy dụa kịch liệt, quyết không buông xuôi cho đến hơi thở cuối cùng, nhưng thật ra trong lòng đã sớm tuyệt vọng, trong tình thế này cho dù có ông Bụt xuất hiện cũng không cứu nổi chúng tôi.

Đang lúc dựa vào địa hình mà chống đỡ, bốn bề đột nhiên chấn động, chúng tôi đều bị đẩy ngã. Bất ngờ lũ khỉ bám trên người tôi đều ngẩn tò te, trong nháy mắt cả đám đồng loạt nhảy xuống, liều mạng chạy trốn ra khỏi miệng khe.

*Tam Thúc nuôi nhiều khỉ nhờ, đa dạng ghê luôn, khỉ lớn khỉ nhỏ khỉ biển khỉ núi, phần 2 có khỉ, phần 3 có khỉ, và bây giờ cũng khỉ :v*

Tôi quay sang Bàn Tử thì thấy cảnh tượng bên đó cũng y như vậy, cả đám "khỉ trong miệng" rút khỏi khe hở trong chớp mắt như có ma đuổi.

Bàn Tử bị thương khắp người, cũng chẳng hiểu mô tê gì. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, hắn làu bàu: "Sao thế nhỉ, mỡ đến miệng mèo mèo còn chê? Chẳng lẽ nó chê thịt ông quá ngấy?"

Lũ "khỉ trong miệng" vẫn chưa hết hỗn loạn, đám khỉ nhung nhúc bên ngoài khe hở không ngừng chui lại vào miệng mấy con chim đầu người khổng lồ. Đám quái điểu bắt đầu rục rịch di chuyển, ào ào bay lên rồi nhanh chóng mất hút, cứ như nhận được mệnh lệnh nào đó hoặc là gặp phải thiên địch đáng sợ nên mới điên cuồng trốn chạy.

Tôi đưa khẩu Carbine 56 cho Bàn Tử để hắn nạp đạn, sau đó cẩn thận nhích người ra miệng hang, không dám chui hẳn ra ngoài mà chỉ ló đầu quan sát. Vừa nhìn đã ngớ người, lũ quái điểu đầu người nối đuôi nhau bay lên trời, nhoáng một cái xung quanh đã chẳng còn mống nào. Bốn bề chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn lại hai người chúng tôi.

Con mẹ nó, thế này cũng quái đản quá đi, tôi gọi Bàn Tử một tiếng, ra hiệu cho hắn chui ra. Chúng tôi quan sát một vòng xung quanh, hai đứa đều cảm thấy có phần chưng hửng với cái lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc này. Trong lòng thầm nhủ, ông trời hỡi, dù ông thật sự không nỡ nhìn con chết thì cũng phải cho con cái lý do nào đó nghe lọt tai một chút chứ.

Tôi tự hỏi: "Rốt cuộc bọn chúng sợ cái gì vậy? Loài quái vật này không lẽ cũng có thiên địch sao?", lời còn chưa dứt, Bàn Tử đã vỗ vai tôi, nói mình vừa nhìn thấy thứ gì đó.

Tôi nhìn theo hướng đó, chỉ thấy tấm da người niêm phong trên cánh cửa Thanh đồng khổng lồ kia không biết đã rách toạc ra từ đời nào. Hai cánh cửa Thanh đồng cực lớn hơi hé ra, chính giữa xuất hiện một khe hở nhỏ xíu đen ngòm.

Tim tôi tưởng như nhảy vọt ra khỏi cổ họng, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Cánh cửa khổng lồ như thế lại tự mình mở ra, cơn chấn động ban nãy nhất định là hiệu ứng khi cửa mở. Là ai đã đứng trong đó, mở ra cánh cửa nặng nề này?

Theo lời tự thuật của Uông Tàng Hải, cánh cửa khổng lồ dưới lòng đất được miêu tả như thông đạo để quỷ thần lui tới giữa địa ngục và cõi tiên, bên trong ẩn chứa ác niệm ngàn đời, nói chung không phải thứ tốt đẹp gì. Hôm nay địa môn lại mở ra, chẳng lẽ quỷ thần dưới địa ngục chuẩn bị dắt chó đi dạo bên ngoài? *đề nghị đồng chí Tà ngừng ngay công cuộc biến truyện kinh dị thành truyện hài nhóe =))))))))*

Cảnh tượng này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu, trong nháy mắt đầu óc tối xoay vòng cả chục lần, là yêu quái hay bánh tông? Bỏ chạy hay cứ nhìn cho kĩ rồi tính? Mà nếu chạy thì chạy đi đằng nào?

Mạch suy nghĩ của tôi lúc này lại hết sức rõ ràng, chính bản thân tôi cũng phải khâm phục sự bình tĩnh bản thân trong hoàn cảnh bị giày vò tan nát này.

Có điều sau khi cửa mở lại không có thêm bất cứ động tĩnh gì, không thấy nó mở rộng hơn, càng không thấy có thứ gì chui ra. Đứng ngẩn ra một lúc lâu, Bàn Tử hỏi tôi: "Có muốn qua đó xem thử không?"

Nhưng lỡ như vào rồi mà nó đóng lại, cánh cửa Thanh đồng bự cỡ này cho dù có cả ngàn người hợp sức cũng không cách nào đẩy ra nổi, chúng tôi chắc chắn sẽ bị nhốt trong đó đến chết, bấy giờ dù biết bí mật thì cũng có mài ra ăn được đâu?

Đây thực ra chính là lựa chọn giữa hai phương án, hoặc an toàn rời khỏi đây, hoặc mạo hiểm đi tìm câu trả lời.

Đắn đo một hồi, cuối cùng tôi vẫn không thể kiềm chế nỗi tò mò muốn khám phá cái bí mật đã giày vò mình cả năm trời, tôi nhất định phải vào đó xem rốt cuộc ma cảnh mà Uông Tàng Hải nhìn thấy năm đó trông như thế nào? Đằng sau cái bí mật kéo dài cả ngàn năm, liên lụy đến ba đời nhà tôi, là thế lực thần bí nào?

Tôi nhìn sang Bàn Tử, hắn cũng nghĩ y như tôi.

Hắn đưa khẩu Carbine 56 cho tôi, còn mình thì nhặt khẩu M16 rồi lục lấy mấy băng đạn từ đám thi thể trên mặt đất, sau đó lau máu trên mặt, ra hiệu cho tôi đi cùng.

Cánh cửa kia quá lớn, khe hở nhìn xa thì thấy nhỏ xíu, đến gần mới biết nó đủ rộng để lái cả chiếc xe tải vào. Muốn cánh cửa nặng hàng vạn tấn di chuyển một khoảng bằng chừng này, phải dùng đến một sức mạnh không thể nào đong đếm được.

Tôi cố đè nén cảm giác phấn khởi trong lòng, đi đến trước cảnh cửa khổng lồ. Mũi ngửi thấy một mùi hương lạ lùng bay ra từ bên trong khe hở, tim bỗng dưng đập loạn, nỗi căng thẳng hòa lẫn với bất an ngày càng trở nên rõ ràng, hai tay túa mồ hôi lạnh, ngay cả chân cũng muốn nhũn ra.

Bàn Tử thử chiếu đèn pin, ánh sáng vừa lọt vào bên trong cánh cửa đã hoàn toàn biến mất, chẳng thấy được gì. Uông Tàng Hải từng nói, năm đó khi người Đông Hạ đưa ông ta tới nơi này, đoạn đường đầu tiên ngay sau khi bước qua cánh cửa là một khoảng hư vô, phải dùng đến một dụng cụ chiếu sáng kỳ lạ gọi là "Chân thực chi hỏa" – mà chúng tôi đoán nó chính là nến bằng sừng tê – mới nhìn thấy cảnh tượng bên trong.

Nghĩ đến đây tôi không khỏi sửng sốt, thầm nhủ thôi hỏng rồi. Chúng tôi chẳng mang theo vật gì tương tự, dù có đi vào bên trong cũng chỉ nhìn thấy một khoảng không tăm tối, liệu có thể vượt qua không gian hư vô kia mà tiến vào ma cảnh hay không?

Bàn Tử thì không nghĩ nhiều đến vậy, thấy tôi đứng ngẩn ra lại tưởng tôi sợ hãi, bèn hỏi: "Có đi nữa không đây?"

Tôi đang định trả lời, chợt nhìn thấy trong bóng tối đằng sau khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng khổng lồ lóe lên vài ánh đuốc, tựa như có thứ gì đang đi tới. Vừa định kéo Bàn Tử lại xem thì hắn đã kéo tôi trước, tôi quay đầu lại, chỉ thấy mấy kẽ đá dưới chân không biết từ bao giờ đã tản ra một làn sương màu lam nhàn nhạt, nhanh chóng vẩn lên như mây mù.


Chương 55: Bí n không li gii

Chúng tôi lui lại vài bước, phát hiện từ những khe hở của vách đá chung quanh nhanh chóng tản ra một làn sương màu lam nhạt với tốc độ kinh người. Chẳng mấy chốc, trước mắt chúng tôi chỉ còn lại một màu xanh nhờ nhờ, bên dưới sương đã ngập đến gối và không ngừng dâng lên, ánh sáng từ đèn pin đã trở thành vô dụng.

Ngay sau đó, chúng tôi nghe tiếng tù và sừng hươu văng vẳng truyền tới từ đầu kia khe núi, âm thanh du dương không gì sánh nổi, vang vọng trong lòng khe mãi không tan. Vô số bóng đen âm u tụ lại thành một hàng dài theo tiếng tù và sừng hươu, thoắt ẩn thoắt hiện giữa màn sương nơi đáy cốc.

Tôi chẳng còn thời gian mà phản ứng, nơi đây vốn chẳng còn lại ai, người thì chết, người đã chạy trốn cả, sao bỗng dưng lại xuất hiện ngần này người? Chẳng lẽ trong này còn có nhóm nào khác nữa? Nhưng cũng không phải... chừng này người thì quá nhiều rồi...

Bàn Tử đứng bên mặt đã cắt không còn giọt máu, tựa như đã hiểu ra đây là chuyện gì, lắp bắp mãi mới thốt ra được trọn câu: "Âm binh mượn đường!"

Âm binh? Tôi chẳng hiểu mô tê gì, toan hỏi lại thì đã bị hắn bịt kín miệng, ra dấu tuyệt đối im lặng. Chúng tôi đặt đèn pin xuống, lùi lại nấp phía sau một tảng đá lớn.

Đoàn người kia khoan thai tiến về phía chúng tôi, không nhanh cũng không chậm, tôi loáng thoáng thấy bóng người đi đầu cầm một lá cờ phiên. Đội ngũ bốn người một hàng, hành quân hết sức chỉnh tề, chẳng mấy chốc đã vượt một quãng đường xa từ đầu đằng kia của khe núi tiến tới trước mặt chúng tôi. Trong tầm chiếu của đèn pin, có thể thấy rõ sương mù không ngừng dày lên.

Tôi vừa ngước nhìn đã thấy rợn gáy, chỉ thấy những người đi đầu mặc giáp trụ cũ nát từ thời Ân – Thương, tay cầm cán cờ, phía sau có người thổi tù và. Hàng trang nặng nề là thế, nhưng những người này di chuyển nhẹ nhàng như bay, không hề gây tiếng động, tốc độ cũng rất nhanh. Nhìn đến gương mặt bọn họ, tôi suýt nữa đã cắn phải lưỡi. Đó là những gương mặt biến dạng, dài gấp đôi người thường, sắc mặt nhợt nhạt không hề biểu lộ cảm xúc.

Đội quân lướt qua trước mặt như u linh, dường như không phát hiện ra chúng tôi, chui thẳng vào khe hở giữa hai cánh cửa Thanh đồng, ngàn người như một, hệt như hình nhân bằng giấy.

Tôi và Bàn Tử chẳng dám hó hé gì, trong lòng chỉ mong cho bọn họ mau mau mà biến đi. Đúng vào lúc này, bàn tay Bàn Tử đang bịt miệng tôi bất chợt run rẩy, tôi tò mò nhìn sang, không ngờ lại thấy Muộn Du Bình cũng mặc thứ giáp trụ y hệt, đi lẫn vào đoàn quân kia. Khuôn mặt bình thường của hắn ta nổi bần bật giữa những gương mặt yêu dị xung quanh, liếc một cái là nhận ra liền.

Tôi suýt nữa đã kêu lên, không lẽ Muộn Du Bình đã chết, hồn phách bị đám âm binh này dẫn đi rồi sao?

Nhưng nhìn kĩ lại mới thấy sau lưng Muộn Du Bình vẫn mang Hắc kim cổ đao, động tác đi đứng bình thường, khác hẳn với đám âm binh bên cạnh. Tôi biết, hắn ta vẫn sống.

Nhưng hắn định làm gì? Trong đầu tôi nảy ra một ý tưởng cực kì táo bạo... không lẽ hắn muốn trà trộn vào đám âm binh này?

Tên này điên rồi! Tim tôi bắt đầu tăng nhịp, nỗi sợ hãi bấy lâu lại ùa về, hơi thở dần dần trở nên gấp gáp. Tôi định chạy ra ngăn cản hắn, nhưng bị Bàn Tử giữ rịt lại không cho nhúc nhích.

Tôi thấy Muộn Du Bình cũng chú ý đến chúng tôi. Hắn ta quay đầu sang, nhìn vào tôi và Bàn Tử, bỗng dưng nở một nụ cười ý vị sâu xa, bờ môi mấp máy, nói vẻn vẹn mấy chữ: "Hẹn gặp lại."

Rồi hắn bước vào cánh cửa Thanh đồng, hoàn toàn mất hút trong bóng đêm. Tôi chết lặng nhìn theo, đầu ong ong như muốn nổ tung.

Cả đội âm binh nhanh chóng tiến vào bên trong cửa Thanh đồng, sau đó mặt đất đột ngột rung chuyển dữ dội, hai cánh cửa đồ sộ khép thành một khối nguyên vẹn chỉ trong nháy mắt.

Tôi ngã ngồi xuống đất, cảm giác bải hoải rã rời lan ra khắp tứ chi. Thế này là sao? Muộn Du Bình, rốt cuộc hắn ta muốn làm gì? Đội quân kia thực sự là âm binh?

Bàn Tử chạy ra nhặt đèn pin, hắn cũng kinh ngạc không kém gì tôi, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa khổng lồ, tinh thần có vẻ bấn loạn.

Nhưng chúng tôi cũng chẳng có thời gian mà ngẩn người. Sương mù bốn phía dần dần tan đi, chúng tôi đã tiếng quái điểu đứt quãng vang lên nơi cuối khe, càng ngày càng đến gần.

Bàn Tử phản ứng ngay lập tức, quay sang hét lên với tôi. "Đi mau! Lũ chim kia đã trở về rồi, lần này chắc chắn chúng ta sẽ không hên như hồi nãy đâu!"

Nghe tiếng gọi của Bàn Tử, tôi tựa như bị tạt một gáo nước lạnh mà hoàn hồn, lập tức xoay người chạy theo Bàn Tử về đầu đằng kia của cái khe – hướng lúc nãy đám Phan Tử đã chạy trốn.

Nền đá dưới đáy khe mấp mô như những quả đồi nhỏ, chạy rất khó khăn, chúng tôi chưa chạy được bao xa đã nghe tiếng kêu của quái điểu áp sát. Tôi thầm cầu nguyện trong lòng, lúc nãy tiêu đời thì chẳng nói làm gì, đằng này đã thoát được một lần rồi mà sau đấy lại bỏ mạng đúng chỗ này thì thật không đáng.

Miệng vết thương của chúng tôi đã từ đau biến thành tê rần. Ai đó từng nói khi hồi hộp con người ta thường quên đi cảm giác đau, nhưng hiện giờ chân tôi đã tê liệt đến độ mất cha nó cảm giác rồi, thậm chí nghiến răng chạy cũng không được nhanh. Tôi với Bàn Tử đành phải dắt díu nhau, dốc sức chạy tới không ngừng không nghỉ, bởi một khi đã ngừng chỉ e không thể chạy tiếp được nữa.

Chúng tôi cứ thế vừa lăn vừa bò vào sâu trong khe núi. Tôi nhanh chóng mất đi ý thức, không hiểu mình đang làm gì nữa.

Vượt qua tảng đá lớn cỡ một tòa núi nhỏ, trước mặt xuất hiện ba ngã rẽ là ba cửa hang cực lớn. Tôi lơ mơ chẳng rõ, biết làm sao bây giờ? Đi đường nào? Chúng tôi cứ ngỡ khe núi chỉ có một mạch thông từ đầu đến cuối, ra ngoài là gặp được Phan Tử. Giờ chúng tôi đã cạn sạch thức ăn nước uống, cứ cho cả ba ngả này đều dẫn ra ngoài, lỡ như không gặp được Phan Tử thì cũng chỉ còn đường chết.

Lại gần ba cửa hang, chúng tôi chợt trông thấy gần một miệng hang lớn có khắc một mũi tên nguệch ngoạc xấu xí, chỉ về một hướng.

Bàn Tử chửi: "Thằng Phan Tử lười thối thây, có cái mũi tên cũng đếch biết vẽ cho đẹp hả!"

Tôi không ngờ họ còn nghĩ đến chuyện đánh dấu đường cho chúng tôi, nói: "Anh còn đòi hỏi nỗi gì, có mà dùng là may lắm rồi!" Không nói thêm gì nữa, tôi cắn răng chui vào trong hang.

Cái hang này hẹp hơn nhiều so với khe núi ngoài kia, bọn quái điểu có bay cũng chật vật hơn nhiều. Đi sâu vào bên trong chúng tôi sẽ dễ dàng chống trả hơn, cho nên cảm thấy rất an tâm.

Lát sau, phía trước lấp ló ánh sáng đèn pin, tim tôi bỗng dưng thót lên một cái. Thầm nghĩ tính theo tốc độ của bọn họ thì giờ này phải đi được một đoạn đường rất xa mới đúng, sao ở đây lại có ánh đèn pin, không lẽ bọn họ đã gặp chuyện bất trắc rồi bỏ mạng chốn này?

Đi thêm vài bước, lại gặp ngay Phan Tử cùng mấy tay ngoại quốc lưng dắt đầy đạn chạy ngược trở về, xem ra họ muốn quay lại cứu chúng tôi. Thấy chúng tôi, Phan Tử mừng rỡ, rồi lại ngơ ngẩn hỏi: "Chỉ có hai người? Còn những người khác đi đâu cả rồi?

Tôi bảo anh đừng hỏi nữa, đây đã thê thảm lắm rồi, ta mau đi thôi, bọn quái điểu đang đuổi theo phía sau kìa.

Ở đây có thể nghe thấy tiếng kêu của bọn chúng nhưng tình hình bên trên lại không nhìn rõ lắm. Không có pháo sáng, muốn dùng đèn pin soi quái điểu là chuyện không tưởng.

Phan Tử ngoắc tay ra hiệu lập tức quay về, người cuối đoàn đốt một cây pháo lạnh, đi trước dẫn đường. Một người ngoại quốc thấy tôi bị thương quá thảm bèn cõng tôi lên, đoàn người nhanh chóng đi sâu vào trong hang.

Đã lâu không được ai cõng, tôi có phần không quen, nhưng ánh sáng từ cây pháo lạnh chiếu lên vô vàn bức bích họa trên vách đá đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của tôi. Tiếc là thời gian gấp gáp, căn bản không cách nào nhìn cho kĩ càng.

Những tiếng kêu thê lương dần dần yếu đi, xem ra bọn quái điểu đã không còn đuổi theo nữa. Thực ra chúng tôi vừa gặp được Phan Tử là đã yên tâm hơn rất nhiều, biết ngay mình không chết nổi. Người anh mang tới đều là những tay thiện xạ trong đội của A Ninh, dù có phải đánh xáp lá cà cũng không đến nỗi yếu thế.

Nhắc đội của A Ninh là nhớ tới A Ninh, tôi hỏi Phan Tử có gặp cô ta hay không.

Phan Tử bảo yên tâm đi, người đẹp kia đã bị người ta đánh ngất xỉu cõng về rồi.

Chạy mãi chạy mãi, hang càng đi càng hẹp dần, cuối cùng chỉ có thể đi hàng một. Không khí bỗng dưng ấm áp lên hẳn, chúng tôi cũng đi thong thả hơn. Lúc này phía trước lại xuất hiện hai người, hình như làm nhiệm vụ gác đêm, thấy chúng tôi quay về đều hò reo ầm ĩ.

Tôi còn đang thắc mắc vì sao không khí nơi này lại ấm áp đến thế thì đã thấy gần chỗ Phan Tử đứng có vài lạch nước nóng. Tôi lập tức thả lỏng hoàn toàn, cảm giác bải hoải lan khắp người, gần như hôn mê bất tỉnh ngay tại chỗ.

Chương 56: Sau khi ngh ngơi

Bác sĩ trong đoàn A Ninh kiểm tra vết thương cho chúng tôi, tiêm một liều kháng viêm và vắc xin phòng bệnh lây truyền qua động vật, vết thương bị rách quá to cũng được rửa sạch và khâu lại. Mông Bàn tử bị thương nặng nhất, khiến hắn chỉ có thể nằm sấp mà ăn uống.

Chúng tôi đã sắp chết đói đến nơi rồi, mặc dù thức ăn không nhiều lắm, nhưng người dẫn đường của nhóm A Ninh nói nơi này gió nhẹ, nhất định có đường ra, không cần quá lo lắng làm gì. Chúng tôi ngốn rất nhiều thức ăn chứa đường, các bộ phận trên thân thể đã dần dần lấy lại cảm giác, chỗ đau đau hơn mà chỗ ngứa cũng ngứa hơn, cực kì khó chịu.

Chú Ba vẫn còn mê man, có điều cơn sốt đã lui. Phan Tử quấn chặt ổng trong cái túi ngủ, liên tục bón nước cho ổng.

Suối nước nóng chảy róc rách không ngừng, chúng tôi đều múc nước suối lau người. Hoàn cảnh hiện tại tuy chẳng hề dễ chịu, nhưng tôi có cảm giác thân thể được lau rửa sạch sẽ xong cứ lâng lâng như tiên.

Trong lúc đó tôi mới kể mọi chuyện mình được chứng kiến cho bọn họ nghe, không hề dấu diếm. Nghe xong ai nấy đều im lặng, không bình luận gì cả. Bọn họ đều là người nước ngoài, lần này coi như được thấy mặt quỷ dị tà ác trong thế giới huyền bí cổ xưa Trung Quốc, muốn bọn họ ý kiến ý cò cũng bằng làm khó nhau.

Một chuyên gia nghiên cứu động vật trong số đó có nói, loài quái vật bao gồm khỉ sống trong miệng quái điểu này, có thể là một loại quan hệ ký sinh có từ thời viễn cổ, gần giống với con bái (*) chuyên bám lên lưng con sói. Quái điểu có lẽ không thể tiêu hóa được thức ăn, phải nhờ "khỉ trong miệng" giúp sức, sau đó quái điểu sẽ sống bằng phân và nước tiểu của khỉ, quan hệ ký sinh này rất hay gặp ở sinh vật sống dưới biển.

(*) Bái là một loại động vật trong truyền thuyết Trung Quốc, là họ hàng gần với Sói. Bởi vì chân trước của Bái đặc biệt ngắn, cho nên khi di chuyển phải bám lên mình con Sói. Bái không có khả năng tồn tại độc lập, một khi không có Sói trợ giúp thì nó không thể hành động. Bởi vậy mới có câu, "lang bái vi gian".

Tôi chẳng ừ hữ gì, từ khi tiến vào Vân Đỉnh thiên cung, mọi chuyện đều diễn ra quá nhanh, chúng tôi căn bản không cách nào hiểu cho rõ ràng. Giờ tôi chỉ cảm thấy mình vừa trải qua một giấc mộng, thật sự không muốn nghĩ về những vấn đề này nữa.

Nhưng theo lệ thường, tôi vẫn giao hẹn với mấy lão chuyên gia: nếu mọi người đều sống sót trở về, sau này phát hiện ra tình tiết nào mới thì có thể chia sẻ với nhau qua Email, chỉ mong từ rày về sau quan hệ giữa chúng ta sẽ không phải là cạnh tranh hơn thua.

Chúng tôi nghỉ ngơi và hồi phục tại chỗ mất nửa ngày, Phan Tử mới dẫn theo mấy người nữa đi vào trong khe dò đường, kế đó chúng tôi lại một lần nữa khởi hành, tiến sâu vào hang núi.

Theo ý kiến của chuyên gia về hang động, căn cứ vào dòng không khí lưu chuyển thì cửa hang này hẳn là thông lên mặt đất, hơn nữa đầu bên kia nhất định phải nằm đầu nguồn gió.

Lúc ấy tôi cũng chẳng tin tưởng cho lắm, nhưng mải miết đi được gần một ngày rồi, chúng tôi chợt phát hiện bốn phía trở nên quen thuộc. Khi Bàn Từ há hốc mồm chỉ vào bức bích họa hai lớp trên vách khe bị người bóc ra, tôi không nén nổi một nụ cười.

Cửa vào của khe nứt này thì ra chính là cái miệng khe bị tảng phong thạch che khuất mà khi lên núi chúng tôi đã vào để tránh cơn bão tuyết.

Tôi thậm chí còn thấy mấy thứ vật dụng sinh hoạt mình đã bỏ lại bên trong, Phan Tử thấy thế cũng gượng cười.

Nghĩ lại thì khi mới đến đây chúng tôi đã ôm biết bao nhiêu vọng tưởng xa vời, giờ thì chẳng khác nào bại binh. Cảm giác hưng phấn và huyền bí khi cả đám nhìn thấy bức bích họa hai tầng, đoán ngược đoán xuôi về bí mật bên trong Vân Đỉnh thiên cung, giờ đã biến thành cay đắng và châm chọc, không thể xua tan đi. Hơn nữa lúc ấy chúng tôi không tài nào tưởng tượng được, chỉ cần đi sâu thêm vài cây số vào cái khe này là đã tới nơi đặt Cửu Long đài thi quan. Ai mà biết chúng tôi lại đi một vòng luẩn quẩn lớn đến thế kia chứ.

Đây hẳn là bách nhục xuyên tâm rồi, cũng không biết cái nhục này là điều bất ngờ cuối cùng mà Uông Tàng Hải để lại cho chúng tôi, hay là một sự trùng hợp hết sức ngẫu nhiên mà ngay bản thân ông ta cũng không biết.

Sau đó chúng tôi nhanh chóng chui ra khỏi khe nứt. Đây là lần đầu tiên mọi người nhìn thấy ánh mặt trời sau cả tuần dài dằng dặc nên mắt ai cũng bị chói nắng, không tài nào mở ra được.

Lương thực của chúng tôi căn bản đã cạn sạch rồi, nhưng nước thì không thiếu, tinh lực kể như dồi dào, nhịn đói lê lết một ngày chắc cũng chả chết được. Cho nên khi đã xác định được tuyến đường cần đi, A Ninh thông qua điện thoại vệ tinh, gọi bác sĩ giỏi đến tiếp ứng, nói rằng trên đường về sẽ có người tới đón chúng tôi.

Chúng tôi đi theo đoàn của bọn họ, từ từ vượt qua ranh giới tuyết, đến khi gặp được đội cứu hộ vùng núi thì đã ở bên ngoài thôn Doanh Sơn.

Tất cả những người bị thương đều được xe Jeep chở đến bệnh viện gần nhất để sơ cứu, sau đó lại thuyên chuyển đến Bệnh viện 3 thuộc đại học Cát lâm. Kiếm tra thấy chú Ba bị biến chứng sau chấn thương sọ não và nhiễm trùng vết thương, cần điều trị lâu dài. Tôi với Bàn Tử thì chỉ bị ngoại thương, vết thương chi chít đến độ tôi đã không còn hâm mộ cơ thể tráng kiện đầy những vết sẹo của Phan Tử nữa, bởi vì sắp tới tôi cũng chẳng thua kém anh là bao.

Hơn nữa, mặc dù tôi vẫn còn mù mờ đối với mục đích và động cơ của chú Ba, nhưng cuối cùng đã kéo được lão về, trong lòng cũng dâng lên cảm giác tự hào.

Chú Ba vẫn muốn ở lại bệnh việc điều trị cho đến khi bệnh tình khá lên. Tôi, Phan Tử, Bàn Tử cùng mấy người ngoại quốc ăn chơi nhảy múa ở Cát Lâm một thời gian, đại khái nửa tháng sau cũng lần lượt cáo từ.

Phan Tử trở về Trường Sa, thu thập tàn cục tiêu tốn tinh lực rất lớn, sau cũng không liên lạc nữa. Bàn Tử trở về Phan gia viên ở Bắc Kinh, nói cần nghỉ ngơi vài tháng. Mấy người ngoại quốc cũng lần lượt bay về nước, cuối cùng chỉ còn lại mình tôi, vừa chăm sóc chú Ba, vừa sắp xếp lại toàn bộ câu chuyện, cố gắng sử dụng những manh mối mình có từ trước để tìm ra chút ít liên hệ. Nhưng không có phần tin tức từ miệng chú ba, thật sự không có cách nào chắp nối cả câu chuyện lại với nhau được.

Thật ra một phần câu đố của Uông Tàng Hải đã có đáp án rõ ràng:

Thứ nhất, Vân Đỉnh Thiên Cung không phải do Uông Tàng Hải xây nên, mà ông ta chỉ tu sửa lại. (nhưng cái di chỉ khổng lồ có từ thời Ân Thương này, rốt cuộc là ai đã xây ra nó và xây với mục đích gì?)

Thứ hai, Uông Tàng Hải không tự nguyện tham gia vào công cuộc tu sửa này, mà phần lớn những công nhân người Hán tham gia xây dựng cũng đều bị người Đông Hạ bắt tới. Trong quá trình tu sửa, Tổng tư lệnh Uông Tàng Hải bắt đầu thiết kế mấy mật đạo đào thoát nối liền hai ngọn núi Tiểu Thánh và Tam Thánh, tránh cho mình bị Vạn Nô vương dị tộc kia chôn sống khi địa cung bị phong bế.

Thứ ba, trong quá trình cải tạo lăng tẩm, Uông Tàng Hải đã dần dần che giấu đi rất nhiều bí mật nằm dưới đáy hoàng lăng Đông Hạ, sâu trong sơn thể núi Trường Bạch. (Sau cánh cửa Thanh đồng khổng lồ đó, rốt cuộc ông ta đã nhìn thấy thứ gì?)

Thứ tư, Uông Tàng Hải đem những bí mật này ghi chép vào Long ngư mật văn, hi vọng sẽ đến một ngày nó được người đời biết đến.

Thứ năm, do Đông Hạ là một nước nhỏ nơi biên cảnh, quốc khố trống rỗng, cho nên rất nhiều kỳ trân dị bảo trong Vân Đỉnh thiên cung đều vơ vét từ những huyệt mộ khác. Trong quá trình Uông Tàng Hải dẫn quân đội Đông Hạ đi đổ đấu, cũng len lén dấu long ngư mật văn vào bên trong những cổ mộ đó, hy vọng có người phát hiện ra. Tổng cộng đã giấu hai cái, cái thứ ba ông ta đem giấu vào phần mộ của chính mình trước khi chết già.

Thứ sáu, tại sao ông ta lại xây mộ mình nơi đáy biển? Vì lo sợ con cháu người Đông Hạ sẽ hủy đi bí mật này sao?

Thứ bảy, những người đã biến mất trong mộ huyệt dưới đáy biển đều xuất hiện trong mật thất của Vân Đỉnh thiên cung. (chỉ trừ hai người đã thoát ra, những kẻ khác đều chết sạch, vậy hai người đó là ai? Bọn họ đã đi đâu? Phải chăng họ cũng giống như Muộn Du Bình, đã tiến vào cánh cửa đồ sộ kia? Rốt cuộc vì sao bọn họ lại muốn đi vào đó? Mục đích chú Ba khi đến Vân Đỉnh thiên cung là gì?)

Thứ tám, cây cổ thụ khổng lồ bằng thanh đồng, cánh cửa đồ sộ bằng thanh đồng cùng với chuông lục giác xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau, giữa những vật làm từ thanh đồng này phải chăng có mối liên hệ nào đó? Nó đại diện cho một thứ sức mạnh thần bí, rốt cuộc là gì?

Tôi cũng dần dần phát hiện, những chuyện đã xảy ra trong huyệt mộ dưới đáy biển hai mươi năm về trước mới là mấu chốt cho tất cả.


Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Info